Nhưng hy vọng thực sự có nghĩa là gì ngày nay, trong một thế giới dao động giữa chủ nghĩa hoài nghi, sự cam chịu và đôi khi là sự lạc quan phù phiếm?

Hy vọng không phải là sự trốn tránh hiện tại hay thế giới thực; thay vào đó, đó là “khát vọng mãnh liệt về tương lai,” như Jürgen Moltmann đã viết trong Thần học về Hy vọng của mình.

Nó cũng không tương thích với những kỳ vọng, thực chất chỉ là sự phóng chiếu những tham vọng và khát vọng của chính chúng ta mà thường kết thúc bằng nỗi thất vọng.

Với từ “hy vọng,” lĩnh vực từ nguyên học sẽ giúp chúng ta. Gốc từ Sanskrit (tiếng Phạn) spa có nghĩa là “tiến tới mục tiêu,” vươn tới, nghiêng về phía trước, vượt qua bản thân và những điều bất trắc của hiện tại. Đó là vượt lên trên chính mình.

Hy vọng là một chuyển động được thực hiện mà không có sự chắc chắn, được duy trì bởi lòng tin cậy và sự cộng hưởng mà điều tốt đẹp tạo ra bên trong chúng ta. Chúng ta có thể hy vọng vì chúng ta đã cảm nghiệm được điều gì đó tốt đẹp, vì chúng ta cảm nhận được điều tốt đẹp bên trong mình và nó vang vọng mạnh mẽ hơn điều xấu.

Hy vọng không phải là lý trí; nó không phụ thuộc vào các phép tính chi phí - lợi ích hoặc sự hỗ trợ bên ngoài.

Nó là một động lực nảy sinh từ bên trong, từ niềm tin vào khả năng của đều tốt đẹp. Trong thông điệp Fratelli tutti, Đức Giáo Hoàng Phanxicô mô tả nó như một điều gì đó bắt nguồn sâu xa trong mỗi con người, “một khát vọng về một cuộc sống viên mãn, một mong muốn đạt được những điều vĩ đại, những điều lấp đầy trái tim chúng ta và nâng cao tinh thần của chúng ta.”

“Hy vọng là táo bạo; nó biết cách nhìn xa hơn sự sung túc cá nhân… để mở ra những lý tưởng lớn lao làm cho cuộc sống tươi đẹp và xứng đáng hơn.”

Không có hy vọng, sẽ không có tự do. Sự vắng mặt của nó sẽ thu hẹp tầm nhìn của chúng ta, đưa chúng ta vào tay của định kiến, đóng lại tương lai và dập tắt tình đoàn kết. Không phải ngẫu nhiên mà việc gieo rắc sự ngờ vực là một chiến lược thống trị thường được sử dụng. Nỗi ám ảnh hiện đại về “an ninh” bóp nghẹt hy vọng, điều này đã hạ giá cuộc sống xuống mức chỉ còn là sự tồn tại về mặt sinh học và thu hẹp tầm nhìn của chúng ta cho đến khi chúng trùng khớp với những ảo tưởng bao bọc chúng ta. Nhưng khi làm như vậy, chúng ta chết ngạt đi!

Chúng ta đừng khuất phục trước cám dỗ của sự ngờ vực, vỡ mộng và chán nản, ngay cả khi mọi thứ dường như là không thể. Như nhà thơ Margherita Guidacci đã viết, “Đừng nghe theo những kẻ bảo bạn từ bỏ điều không thể! Chỉ có điều không thể mới làm cho cuộc sống của con người trở nên có thể.”

Chúng ta không chỉ hy vọng cho bản thân mình. Như bác sĩ khoa tâm thần người Ý Eugenio Borgna đã nhắc nhở chúng ta, “Chúng ta có bổn phận đạo đức là không để hy vọng chết đi trong chúng ta; để từ đó, nó có thể tái sinh trong những người đã đánh mất nó.” Lên tiếng cho những con đường hy vọng làm mở rộng chúng ta ra ngoài bản thân mình, hướng đến sự công nhận tình đoàn kết với người khác và với các thế hệ tương lai. Thật vậy, nếu không có hy vọng, tại sao lại gieo trồng hạt giống? Tại sao lại phải dấn thân? Như Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã từng nói, “Đừng lưu tâm đến nỗi sợ hãi của bạn mà hãy lưu tâm đến niềm hy vọng và ước mơ của bạn. Đừng suy nghĩ về nỗi thất vọng của bạn, mà hãy nghĩ về tiềm năng chưa được phát huy của bạn. Đừng bận tâm đến những gì bạn đã cố gắng và thất bại, mà hãy nghĩ đến những gì bạn vẫn có thể làm được.”

Hy vọng là “niềm đam mê với điều có thể,” triết gia Søren Kierkegaard đã viết - một niềm đam mê đặt sức mạnh của trí tưởng tượng chống lại sự chuyên chế của điều tất yếu. Nếu chúng ta không học nghệ thuật nhìn xa hơn những gì đã có, hoặc những gì có thể dự đoán dựa trên những gì đã cho, chúng ta sẽ không bao giờ được tự do. Nhà thơ người Mỹ Emily Dickinson đã bày tỏ điều đó một cách dịu dàng khi bà viết, “Tôi không biết khi nào bình minh sẽ đến, vì vậy tôi luôn để cho mọi cánh cửa được hé mở.”

Khi đó, chúng ta có thể biểu lộ, với niềm tin vào sự trọn vẹn đang chờ đợi chúng ta. Điều này được gọi là “ơn cứu độ” và nó liên quan đến sự toàn vẹn của chúng ta, không chỉ là sự sống còn về mặt sinh học, mà còn là phẩm giá, tự do, tinh thần thúc đẩy chúng ta, ý nghĩa sự cho tồn tại của chúng ta.

Những người hy sinh mạng sống vì người khác thì không “an toàn,” nhưng họ được “cứu độ.”

Hy vọng là mong muốn được cứu độ, chứ không phải mong muốn được an toàn. Tìm kiếm sự an toàn có nghĩa là theo đuổi cái huyền thoại “không rủi ro”. Tuy nhiên, không có rủi ro thì không có sự sống, và không có hy vọng thì không có rủi ro. Chỉ những ai hy vọng mới có thể đối mặt với cái chết vì sự sống. Như Georges Bernanos đã viết, “Hy vọng là một rủi ro phải vượt qua. Nó thậm chí là rủi ro của mọi rủi ro.”

Hy vọng là một sức mạnh cách mạng xuất phát từ mong muốn sâu sắc của con người không chịu bị động hay bị thao túng. Đó là mong muốn liên tục bị bóp nghẹt bởi nỗi sợ hãi được tạo ra.

Đó là một nhân đức, chứ không phải là một thứ hàng hóa của cảm xúc.

Nó đòi hỏi lòng dũng cảm để đối mặt với những thách thức thay vì chỉ tự vệ. Để thay đổi hiện trạng, để đấu tranh chống lại bất công và phá bỏ những bức tường. Đây là những chuyển biến phức tạp chỉ phát triển và tồn tại thông qua nhân đức này.

Hy vọng không phải là tập hợp những cảm xúc tốt đẹp, cũng không phải là đặc quyền của những tâm hồn lý tưởng. Nó không né tránh cơn thử thách của thực tại, mà đòi hỏi phải vun đắp trí tuệ thực tế, một cách sống, một cách suy nghĩ. Hy vọng rất khác với sự lạc quan. Như Thomas Merton, văn sĩ và tu sĩ Kitô giáo, đã viết, “Niềm hy vọng hoàn hảo chỉ đạt được trên bờ vực của sự tuyệt vọng.” Đó không phải là niềm tin rằng mọi thứ sẽ diễn ra tốt đẹp, mà là niềm tin rằng những gì chúng ta làm đều có ý nghĩa, bất kể kết quả cuối cùng như thế nào, như Vaclav Havel đã khẳng định. Sự lạc quan loại bỏ mọi tiêu cực, trong khi không biết nghi ngờ hay đau khổ; hy vọng không loại bỏ chúng, nhưng nó không bị chúng đè bẹp.

Hy vọng là một biến chuyển nhằm tìm kiếm sự cởi mở dành cho những gì chưa đến với thế giới, vượt ra ngoài nhà tù của thời gian khép kín.

Những người mất hy vọng sẽ chán ghét cuộc sống, và điều này thể hiện rõ ràng một cách bi thảm trong những khuynh hướng hủy diệt đang ảnh hưởng đến đời sống xã hội ngày nay. “Hy vọng là điều kiện thiết yếu của con người; nếu một người từ bỏ mọi hy vọng, họ đã bỏ lại nhân tính của chính mình,” triết gia người Hàn Quốc Byung-Chul Han viết.

Một thế giới không có hy vọng sẽ trở nên yếm thế và vô nhân đạo. “Con người đã đấu tranh cho tự do và hạnh phúc, nhưng một kỷ nguyên đang bắt đầu mà con người không còn là con người nữa và trở thành một cỗ máy không biết suy nghĩ hay cảm nhận,” Erich Fromm cảnh báo.

Hy vọng là liều thuốc giải độc để chúng ta không trở nên giống như những cỗ máy và thiết bị mà chúng ta đã chế tạo. Hy vọng thúc đẩy sáng kiến và hoạt động hơn là thụ động.

Những người được thúc đẩy bởi hy vọng biết rằng phần thưởng thực sự không nằm ở việc hoàn thành công việc, mà nằm ở quá trình bắt đầu, ở con đường mở ra khi một người bước đi. Tương lai chưa được viết sẵn. Đối với Jürgen Moltmann, hy vọng không nhằm mục đích “làm sáng tỏ thực tế hiện tại, mà là về những gì sắp đến,” và “không dẫn dắt con người tuân theo thực tế đã cho, mà khiến con người tham gia vào cuộc xung đột giữa kinh nghiệm và hy vọng.” Những người vun đắp hy vọng không thích nghi hoặc cam chịu “với thực tế rằng cái ác luôn sinh ra nhiều cái ác hơn.”

Hy vọng là nghịch lý. Nó đòi hỏi sự khiêm nhường và lắng nghe, nhưng cũng đòi hỏi khả năng tham gia và chủ động. Hy vọng không thụ động cũng không chủ động; thay vào đó, nó là “trung gian.” “Đó không phải là sự chờ đợi thụ động hay sự ép buộc phi thực tế về những hoàn cảnh chưa thể xảy ra. Hy vọng có nghĩa là sẵn sàng ở mọi khoảnh khắc cho những gì chưa được sinh ra,” Fromm viết.

Trong một thế giới phân mảnh, nơi chủ nghĩa cá nhân thái quá trở thành “chủ nghĩa vị kỷ,” sự thiếu hy vọng thúc đẩy sự ích kỷ và tệ nhất là biện minh cho lòng căm thù. Ngược lại, hy vọng thì tái kết nối và hòa giải. “Chủ thể của hy vọng là ‘chúng ta,’” Byung-Chul Han khẳng định.

Nếu không có hy vọng, cuộc sống chỉ đơn thuần là sự tồn tại, trong quá trình thích nghi với những gì đã tồn tại, tốt nhất là tìm kiếm những hòn đảo nhỏ bé của sự an nhàn để tái tạo sự đồng điệu, điều cuối cùng sẽ tiêu diệt chúng ta.

Hy vọng giải cứu chúng ta khỏi quá trình “trở nên” đơn thuần và mang đến cho chúng ta tương lai. Nó giúp chúng ta thoát khỏi sự chuyên chế của thời gian khép kín và biến quá trình “trở nên” có thể đoán trước thành một tương lai chưa từng được nghe đến. “Những ai hy vọng sẽ trở nên dễ tiếp thu cái mới,” bởi vì “hy vọng là bà đỡ của cái mới,” Byung-Chul Han viết.

Cuối cùng, sống là hy vọng.

Vậy chúng ta hãy bước đi trong hy vọng, trên con đường mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã trao phó cho chúng ta. Chúng ta hãy “Tiếp tục vun trồng những giấc mơ về tình huynh đệ và là dấu chỉ của niềm hy vọng!”

Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên

Chuyển ngữ từ: L'Osservatore Romano (18/6/2025)

Nguồn: giaophanvinhlong.net