HỌC HỎI PHÚC ÂM LỄ CHÚA THĂNG THIÊN NĂM A
LM Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ
Phúc Âm: Mt 28, 16-20
"Ðang khi Người chúc
phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời".
Bài
kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước.
Khi
thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi.
Chúa
Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: "Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã
được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ
nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền
cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".
CÂU HỎI TÌM HIỂU
1. Tại sao mười một môn đệ
đến Galilê? Đọc Mt 26,32; 28,7.10.16. Galilê có phải là nơi có nhiều kỷ niệm Thầy
trò không? Đọc Mt 4,18-23.
2. Đọc Mt 14,31 và 28,17.
Hoài nghi ở đây nghĩa là gì? Tại sao có mấy ông hoài nghi? Xem thêm Mc
16,11-14; Lc 24,38.41; Ga 20,25.
3. Đọc Mt 28,18. Bạn nghĩ
gì về cử chỉ của Chúa Giêsu đối với các môn đệ đã bỏ chạy, và bây giờ lại đang
bán tín bán nghi?
4. Đọc Mt 28,18. Khi Chúa
Cha trao toàn quyền cho Chúa Giêsu phục sinh, Chúa Cha muốn chúng ta có thái độ
nào với Đức Giêsu? Đọc thêm Mt 11,27.
5. Đọc Mt 28,19-20. Khi
Chúa Giêsu có toàn quyền rồi thì Ngài làm gì? Hai câu này có 4 động từ, động từ
nào là mệnh lệnh chính mà Chúa Giêsu truyền các môn đệ phải làm?
6. Mt 28,19 có khác với
Mt 10,5; 15,24 không? Bây giờ dân ngoại có được trở thành môn đệ của Chúa Giêsu
không? Đọc Mt 8,5-13; 15,21-28.
7.Đọc Mt 28,20. Mệnh lệnh
cuối của Chúa Giêsu trong câu này là gì? Các môn đệ sau này cần được dạy những
điều gì? Đọc Mt 5,19. Các môn đệ xưa và nay giống nhau ở điểm nào?
8. Trước sứ mạng lớn lao
và khó khăn vừa được giao, Chúa phục sinh hứa với nhóm Mười Một và với chúng ta
điều gì? Đọc Mt 28,20; 1,23.
GỢI Ý SUY NIỆM
Tại sao bài Tin Mừng hôm
nay được đọc vào lễ Chúa Thăng Thiên dù không kể chuyện Chúa về trời? Theo bạn, tại sao bài Tin Mừng này được coi
là có tầm quan trọng đặc biệt đối với sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh?
PHẦN TRẢ LỜI
1. Có nhiều lý do giải
thích chuyện Mười Một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi mà Đức Giêsu đã
chỉ cho họ (Mt 28,16). Vào đêm tối trước khi chịu khổ nạn, Ngài đã từng nói:
“Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đi đến Galilê trước anh em” (Mt 26,32). Thiên
sứ đã lặp lại lời này với các phụ nữ khi họ ra thăm mộ Thầy, kèm thêm lời nhắn
họ sẽ được thấy Ngài ở Galilê (Mt 28,7). Rồi chính Đức Giêsu phục sinh hiện ra
còn nói rõ hơn nữa với các bà về việc Thầy muốn hẹn gặp lại các môn đệ ở Galilê
(Mt 28,10). Rõ ràng Đức Giêsu phục sinh coi trọng việc gặp lại các môn đệ của
mình. Galilê là vùng đất có nhiều kỷ niệm Thầy trò. Đây là nơi các môn đệ đầu
tiên được gọi (Mt 4,18-22), cũng là nơi Đức Giêsu bắt đầu việc rao giảng Tin Mừng
(Mt, 4,23) cho đến khi lên Giêrusalem chịu nạn (Mt 20,17).
2. Khi gặp thấy Thầy
Giêsu phục sinh, các môn đệ đã bái lạy, nhưng một số lại hoài nghi (Mt 28,17).
Hoài nghi không phải là không tin gì, nhưng là một niềm tin còn yếu kém mà
thánh Mát-thêu nhiều lần gọi là “đức tin nhỏ” (oligopistis, x. Mt 6,30; 8,26;
14,31; 16,8). Khi Đức Giêsu trách Phêrô lúc ông bị chìm: “Hỡi kẻ kém lòng tin!
Sao lại hoài nghi?” (Mt 14,31), ta thấy “kém lòng tin” đồng nghĩa với “hoài
nghi.” Phêrô có đức tin đủ mạnh để đi trên mặt nước, nhưng ông lại sợ khi thấy
gió thổi và ông bị chìm (Mt 14,29-30). Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy có những
môn đệ vẫn hoài nghi cả khi Thầy hiện ra và cho thấy mình đang sống. Dù Thầy đã
báo trước nhiều lần về sự phục sinh và đã hẹn gặp lại họ, nhưng chuyện người chết
ba ngày rồi bỗng nhiên sống lại là chuyện không dễ tin chút nào. Các Tin Mừng
khác đều nói đến chuyện các ông không tin hay hoài nghi (Mc 16,11-14; Lc
24,38.41; Ga 20,25).
3. Đứng trước một số môn
đệ còn hoài nghi, Đức Giêsu phục sinh “đến gần” họ (Mt 28,18). Ngài đến gần tất
cả những người “đã bỏ Ngài mà chạy trốn” (Mt 26,56), hay đã chối Ngài (Mt
26,69-75), những người đã vắng mặt khi Ngài chịu đóng đinh hay chôn táng (Mt
27,55.57-60). Ngài chủ động đến gần họ chứ không chờ họ đến gần mình. Ngài đến
với những môn đệ bất trung mà không buông ra một lời trách móc. Khi gặp họ, thì
Ngài đã tha thứ cho họ rồi và muốn nối lại tình Thầy trò đã bị tổn thương.
4. Trời và đất tượng
trưng cho toàn thể vũ trụ và muôn loài muôn vật trong đó. Chỉ mình Thiên Chúa
Cha là Chúa của trời và đất (Mt 11,25). Chỉ mình Chúa Cha có toàn quyền trên thế
giới thụ tạo. Đức Giêsu là Con, đã được Chúa Cha cho sống lại và trao cho Con
toàn quyền trên trời dưới đất. Như vậy Cha đã trao tất cả quyền năng mình có
cho Con, để Con có mọi quyền năng như Cha trên cả vũ trụ này (xem thêm Mt
11,27; Ga 3,35; 13,3; 17,2). Cha là Chúa, Con cũng được Cha tôn làm Chúa (x. Cv
2,36) khiến mọi thụ tạo trên trời dưới đất và trong âm phủ phải bái quỳ trước
Chúa Con (x. Pl 2,9-11).
5. Trong tư cách là Chúa
trời đất, Chúa Giêsu phục sinh đã ra lệnh truyền cho các môn đệ. Trong Mt
28,19-20 có bốn động từ. Động từ chính ở đây là “làm cho (mọi dân tộc) thành
môn đệ” (mathêteúsate). Ba động từ còn lại
ở dạng hiện phân từ: “đi” (poreuthéntes), “làm phép rửa” (baptízontes), và “dạy
bảo” (didáskontes). Như vậy mệnh lệnh chính của Đấng phục sinh là làm cho muôn
dân thành môn đệ, bằng cách đi, làm phép rửa cho họ, và dạy bảo họ. Chúa Giêsu
dạy các môn đệ làm phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần (Mt 28,19). Có lẽ
đây là câu rõ nhất trong Tân Ước để nói về Thiên Chúa Ba Ngôi. “Nhân danh ai”
có nghĩa là hiệp thông, nên một với người ấy. Công thức rửa tội này có thể là
công thức đã được dùng trong giáo đoàn của thánh sử Mát-thêu. Nên lưu ý, “Danh”
ở đây được dùng ở số ít. Ba Ngôi nhưng chỉ có một Danh, một Thiên Chúa.
6. Khi đọc Mt 10,5; 15,24
ta thấy Đức Giêsu khẳng định việc rao giảng của mình và của môn đệ chỉ giới hạn
trong phạm vi dân Do-thái. Phải đợi đến lúc này, lúc hiện ra sau phục sinh,
Ngài mới sai các môn đệ đến với “muôn dân” (Mt 28,19). Muôn dân ở đây là tất cả
mọi dân nước, bao gồm Dân Ngoại và không loại trừ Dân Ítraen. Dân Ngoại giờ đây
được mời để trở thành môn đệ của Ngài. Tuy nhiên, không nên quên là khi thi
hành sứ vụ, Đức Giêsu cũng đã có lần đến với dân ngoại để giúp họ vì họ có đức
tin “lớn.” Ngài đã chữa cho đầy tớ viên đại đội trưởng và cho người phụ nữ Canaan
(Mt 8,5-13; 15,21-28).
7. Ngoài nhiệm vụ làm
phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, các môn đệ còn phải thực thi mệnh
lệnh cuối, đó là làm cho dân ngoại trở thành môn đệ bằng cách dạy bảo họ (Mt
28,20). Dạy bảo ở đây không phải là dạy những điều mới lạ, nhưng là truyền lại
cho người khác “mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Cũng không chỉ dạy lý thuyết
suông nhưng là dạy để họ “tuân giữ”. Như thế các môn đệ của Chúa Giêsu, xưa
cũng như nay, đều có một điểm chung, đó là tất cả được học và tuân giữ giáo huấn
đến từ chính vị Thầy của mình.
8. Chúa phục sinh trao sứ
mạng lớn lao và khó khăn cho các môn đệ, nhưng Ngài cũng kèm theo một lời hứa
quan trọng: Ngài sẽ ở cùng họ mọi
ngày cho đến tận thế (Mt 28,20). Câu này gợi ta nhớ đến Đức Giêsu là Đấng
Emmanuel, là Vị “Thiên Chúa ở cùng
chúng ta” ở Mt 1,23. Chúa Giêsu về trời nhưng vẫn luôn hiện diện với các môn đệ
trong sứ mạng làm cho muôn dân tộc trở thành môn đệ của Ngài.