PHÚC ÂM: Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô : bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng : “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ : Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.


CÂU HỎI TÌM HIỂU

1. Có bao nhiêu từ Kitô trong chương 1 của Tin Mừng Mát-thêu?

Thánh Mát-thêu viết sách Tin Mừng để giúp người Do-thái tin Đức Giêsu là Đấng Kitô, cũng gọi là Đấng Mê-si-a. Vào thời Đức Giêsu, dân Do-thái thường coi Đấng Mê-si-a là Đấng nào?

2. Đọc Mt 1,18. Đức Maria đã thành hôn, dịch như thế có chính xác không? Bạn biết gì về tục cưới hỏi của người Do-thái thời Đức Giêsu?

3. Đức Maria đã có thai do Thánh Thần (c. 18). Câu này cho ta thấy Thánh Thần là ai và thai nhi là ai?

4. Đọc Mt 1,19. Khi biết tin Maria có thai, Giuse đã phản ứng như thế nào? Bạn nghĩ gì về quyết định của Giuse? Bạn thấy Giuse có là người công chính không? Muốn ly dị Maria, Giuse cần phải làm gì?

5. Trong chương 1 và 2 của Tin Mừng Mát-thêu, thiên sứ của ĐỨC CHÚA báo mộng cho Giuse mấy lần? Đọc thêm Mt 2,12; 27,19.

6. Đọc Mt 1,20-21. Thiên sứ mời gọi Giuse làm những việc gì? Những việc đó có quan trọng không? Đọc Mt 1,24-25. Giuse có nói tiếng Xin vâng đối với thiên sứ không?

7. Dựa vào Mt 1,20-23 hãy cho biết Đức Giêsu là ai? Đức Giêsu có phải là Đấng Mê-si-a giống như dân Do-thái thường mong đợi không?

8. Sau khi đọc bài Phúc âm này, bạn học được gì từ con người của thánh Giuse?


CÂU HỎI SUY NIỆM: Đời sống hôn nhân giữa Đức Maria và Thánh Giuse gặp những khó khăn ngay từ đầu. Nhờ đâu thánh gia vượt qua được khó khăn đó? Đâu là những khó khăn và thách đố trong đời sống gia đình hôm nay? Theo bạn, làm sao gìn giữ gia đình được bình yên?


PHẦN TRẢ LỜI

1. Chương 1 của Tin Mừng Mát-thêu có từ Kitô ở các câu 1, 16, 17, và 18. Kitô (tiếng Hy-lạp là Christos) có nghĩa là người được Thiên Chúa xức dầu để thi hành một sứ mạng quan trọng. Trong tiếng Do-thái cổ, người Thiên Chúa xức dầu được gọi là Mê-si-a, đồng nghĩa với Kitô. Vào đã thời Đức Giêsu, người Do-thái thường nghĩ Đức Kitô (hay Mê-si-a) là đấng được Thiên Chúa sai đến để đánh đuổi quân đô hộ Rôma ra khỏi quê hương, và xây dựng nước Ít-ra-en thành một cường quốc bình an, thịnh vượng.

2. Mt 1,18 được dịch ở đây là: “Maria đã thành hôn với Giuse”. Đúng ra phải dịch “Maria đã được đính hôn với Giuse”. Vào thời Đức Giêsu, tục cưới hỏi của người Do-thái ở Palestine cũng khá giống với tục cưới hỏi ở Việt Nam, gồm hai giai đoạn. Đám hỏi hay đính hôn được làm trước các người làm chứng (x. Malakhi 2,14) và chú rể phải nộp một món tiền đền bù cho gia đình cô dâu gọi là môhar (x. St 34,12; Xh 22,16). Đám hỏi do cha mẹ hai bên sắp đặt, khi cô dâu khoảng 12 hay 13 tuổi, và chú rể khoảng 18 tuổi. Sau đám hỏi, cô dâu vẫn ở nhà bố mẹ mình khoảng một năm. Đám cưới hay chính thức thành hôn là lúc đưa cô dâu về nhà chồng (x. Mt 1,18). Tuy nhiên, có một điểm khác biệt, đó là ở Palestine, hai người sau khi đính hôn với nhau thì đã được coi như vợ chồng rồi (x. Mt 1,20.24). Cô dâu thiếu chung thủy sau khi đã đính hôn thì bị coi là phạm tội ngoại tình, và chú rể có thể viết giấy ly dị cô vì lý do đó (x. Mt 1,19).

3. Trước khi về sống chung với chồng, nghĩa là còn trong thời kỳ đính hôn, thì Maria đã có thai do Thánh Thần (Mt 1,18). Mát-thêu nói ngay là việc thụ thai này không do Giuse, nhưng do chính Thánh Thần. Thánh Luca mô tả tác động của Thánh Thần như sau: “Thánh Thần sẽ đến trên Bà, và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ phủ bóng trên Bà; vì vậy đứa trẻ được sinh ra sẽ được gọi là Đấng Thánh, Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Như thế Đức Giêsu, tuy được thụ thai bởi một phụ nữ như mọi người chúng ta, nhưng Ngài lại mang nguồn gốc thần linh khác hẳn chúng ta.

4. Khi biết Đức Maria có thai không phải do mình, Giuse có thể tố giác Maria về tội ngoại tình, nhưng ông đã không muốn làm thế. Ông đã suy nghĩ (Mt 1,20) và cuối cùng chọn giải pháp là chia tay Maria cách kín đáo, không bêu xấu hay làm rùm beng cho mọi người biết chuyện này (Mt 1,19). Thái độ này được coi là cách cư xử của một người công chính: vừa phù hợp với Lề Luật, vừa phù hợp với lòng thương xót bao dung. Để ly dị, Giuse chỉ cần viết một giấy ly dị và trao cho Maria, trước mặt hai người làm chứng, thay vì trước mặt nhiều người.

5. Trong chương 1 và 2 của Tin Mừng Mát-thêu, thiên sứ của ĐỨC CHÚA báo mộng cho Giuse 4 lần ở Mt 1,20; 2,13.19.22). Thiên sứ còn báo mộng cho các nhà chiêm tinh đến từ Phương Đông (Mt 2,12) và cho vợ của Philatô (Mt 27,19). Thiên Chúa nói với con người qua giấc mộng là điều thường xảy ra trong Cựu Ước (Gia-cóp mơ St 28,12; Giuse mơ St 37,5-9; Đn 2,3). Nhưng vào thời Tân Ước, hình thức này ít xuất hiện hơn. Nên nhớ thiên sứ Gabriel hiện ra với Maria, nhưng không phải trong giấc mộng (Lc 1,11.26).

6. Trong Mt 1,20-21 ta thấy thiên sứ mời Giuse làm hai việc quan trọng. Trước hết là đón nhận Maria làm vợ ông (Mt 1,20). Điều này có thể làm ông sợ, vì chấp nhận một bà có bầu như thế làm vợ thì thật là điều nhục nhã. Nhưng thiên sứ đã giải thích cho ông biết thai nhi trong bụng Maria là do Thánh Thần, chứ không do ngoại tình. Kế đến, Giuse được mời đón nhận đứa con trai do Maria sinh ra, và nhận mình là cha đứa trẻ bằng cách đặt tên cho em (Mt 1,21). Như thế Maria được thành người vợ hợp pháp, và Giêsu thành đứa con hợp pháp trước mặt mọi người. Mát-thêu 1,24-25 cho thấy Giuse đã vâng phục lời thiên sứ trọn vẹn.

7. Đọc Mt 1,20-23 ta thấy Đấng Mêsia ở đây thì trổi vượt hơn Đấng Mêsia người Do-thái hằng mong đợi, vì Ngài không phải là con đẻ của một đôi vợ chồng Do-thái, nhưng Ngài có nguồn gốc thần linh, được cưu mang do Thánh Thần (câu 20). Ngài không cứu người Do-thái khỏi quân Rôma, nhưng cứu họ khỏi tội lỗi của họ (câu 21). Ngài được một trinh nữ sinh ra và được gọi là Đấng Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở với chúng ta (câu 23). Mát-thêu thấy lời ngôn sứ Isaia 7,14 được ứng nghiệm, vì quả thực Đức Giêsu được sinh bởi trinh nữ Maria, và Mátthêu tin Ngài chính là Thiên Chúa đến ở với loài người.

8. Giuse đã không thể hiểu được chuyện Maria mang thai. Ông đã suy tính và cầu nguyện để chọn giải pháp tốt nhất, đó là ly dị Maria cách kín đáo. Nhưng Thiên Chúa lại muốn cho ông thấy một giải pháp khác. Giải pháp này đòi ông phải tin vào Maria và tin vào Thiên Chúa: tin rằng Maria vô tội, tin thai nhi là do Thánh Thần. Thánh Thần làm cho một trinh nữ thụ thai là chuyện chưa từng xảy ra bao giờ. Vậy mà Giuse đã dám tin, dù ông không hiểu hết và hiểu ngay. Ông đã vâng theo ý Chúa. Nhờ đó kế hoạch của Thiên Chúa được thành tựu.