Số 436, 1241, 1546: Đức Kitô với tư cách là tiên tri
Số 436. Danh hiệu “Kitô” là một từ Hy Lạp, dịch từ “Messia” của tiếng Do thái, có nghĩa là “người được xức dầu”. Danh hiệu này trở thành tên riêng của Chúa Giêsu bởi vì Người đã chu toàn cách hoàn hảo sứ vụ thần linh mà danh hiệu ấy bao hàm. Quả vậy, trong Israel, những ai được thánh hiến cho Thiên Chúa để thi hành một sứ vụ Ngài giao phó, đều được xức dầu nhân danh Thiên Chúa. Đó là trường hợp của các vua[1], các tư tế[2] và đôi khi, các tiên tri[3]. Đó phải là, một cách tuyệt hảo, trường hợp của Đấng Messia, là người Thiên Chúa sai đến để thiết lập Nước của Ngài cách vĩnh viễn[4]. Đấng Messia phải được xức dầu bằng Thần Khí của Chúa[5] với tư cách là vua, đồng thời là tư tế[6], và cũng với tư cách là tiên tri.[7] Chúa Giêsu đã thực hiện niềm hy vọng về Đấng Messia của Israel trong ba nhiệm vụ của Người là Tư tế, Tiên tri và Vương đế.
Số 1241. Việc xức dầu thánh, dầu được pha hương liệu do Giám mục thánh hiến, có ý nghĩa là hồng ân Chúa Thánh Thần được ban cho người tân tòng. Họ trở nên một Kitô hữu, nghĩa là người “được xức dầu” bằng Chúa Thánh Thần, được tháp nhập vào Đức Kitô, Đấng đã được xức dầu làm Tư tế, Tiên tri và Vương đế[8].
Số 1546. Đức Kitô, là thượng tế và trung gian duy nhất, đã làm cho Hội Thánh thành vương quốc tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người[9]. Như vậy, toàn thể cộng đoàn các tín hữu là tư tế. Các tín hữu thực thi chức tư tế do Phép Rửa qua việc họ tham dự, mỗi người theo ơn gọi riêng của mình, vào sứ vụ của Đức Kitô là Tư tế, Tiên tri và Vương đế. Nhờ các bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, các tín hữu “được thánh hiến để trở nên... một hàng tư tế thánh”[10].
Số 904-907: Sự tham dự của chúng ta vào chức năng tiên tri của Đức Kitô
Số 904. “Đức Kitô … chu toàn nhiệm vụ tiên tri của Người, không những nhờ Phẩm trật … nhưng còn nhờ các giáo dân, những kẻ Người đã đặt làm chứng nhân và ban cho họ cảm thức đức tin và ơn ngôn ngữ”[11].
“Dạy dỗ … để dẫn đến đức tin … là nhiệm vụ của bất cứ vị giảng thuyết nào, và cũng là của bất cứ tín hữu nào”[12].
Số 905. Các giáo dân cũng chu toàn sứ vụ tiên tri của mình bằng việc phúc âm hóa, “nghĩa là loan báo Đức Kitô bằng chứng từ đời sống và bằng lời nói”. Nơi các giáo dân, “việc phúc âm hóa này … mang một sắc thái đặc thù và một hiệu quả đặc biệt vì được thực hiện trong những hoàn cảnh bình thường của đời sống”[13].
“Quả thật, việc tông đồ như vậy không chỉ cốt tại chứng từ đời sống; việc tông đồ thật tìm những cơ hội để loan báo Đức Kitô bằng lời nói hoặc cho những người chưa tin … hoặc cho các tín hữu”[14].
Số 906. Những ai trong các Kitô hữu giáo dân có khả năng và đã được huấn luyện, cũng có thể góp phần mình vào việc dạy giáo lý[15], vào việc giảng dạy các khoa học thánh[16], vào các phương tiện truyền thông xã hội[17].
Số 907. “Tuỳ theo kiến thức, thẩm quyền và uy tín bản thân, các Kitô hữu có quyền, và đôi khi có cả bổn phận phải bày tỏ cho các vị Mục tử có chức thánh biết ý kiến của họ liên quan tới lợi ích của Hội Thánh, họ cũng có quyền bộc lộ ý kiến của họ cho các Kitô hữu khác, miễn là bảo vệ được sự toàn vẹn của tín lý và luân lý, cũng như lòng kính trọng các vị Mục tử, và phải lưu ý đến công ích và phẩm giá của tha nhân”[18].
Số 103-104: Đức tin, khởi đầu của sự sống vĩnh cửu
Số 103. Hội Thánh đã luôn tôn kính Thánh Kinh như đã tôn kính chính Thân Thể [Mình Thánh] Chúa. Hội Thánh không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như bàn tiệc Thân Thể [Mình Thánh] Chúa Kitô mà trao ban cho các tín hữu[19].
Số 104. Hội Thánh không ngừng tìm thấy lương thực và sức mạnh cho mình trong Thánh Kinh[20], vì nơi đó, Hội Thánh không chỉ tiếp nhận một lời phàm nhân, nhưng thực sự là Lời của Thiên Chúa[21]. “Quả thật, trong các sách thánh, Cha trên trời âu yếm đến gặp con cái và trò chuyện với họ”[22].
Số 1822-1829: Đức mến
Số 1822. Đức mến là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự vì chính Ngài, và vì yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu mến người lân cận như chính mình.
Số 1823. Chúa Giêsu lấy đức mến làm điều răn mới[23]. Khi yêu thương những kẻ thuộc về Người “đến cùng” (Ga 13,1), Người biểu lộ tình yêu của Chúa Cha mà Người đã đón nhận. Khi yêu mến nhau, các môn đệ bắt chước tình yêu của Chúa Giêsu mà họ cũng đã đón nhận. Vì vậy, Chúa Giêsu nói: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9). Và Người còn nói: “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).
Số 1824. Là hoa trái của Thần Khí và là sự viên mãn của Lề luật, đức mến giữ các điều răn của Thiên Chúa và của Đức Kitô của Ngài: “Hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9-10)[24].
Số 1825. Đức Kitô đã chịu chết vì yêu mến chúng ta, khi chúng ta còn là “thù nghịch” (Rm 5,10). Chúa đòi chúng ta rằng, cũng như Người, chúng ta phải yêu mến cả kẻ thù của chúng ta[25], rằng chúng ta phải trở thành người lân cận cho những kẻ ở xa nhất[26], rằng chúng ta phải yêu thương trẻ em[27] và người nghèo như chính Người[28].
Thánh Tông Đồ Phaolô đã mô tả một cách tuyệt vời về đức mến: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,4-7).
Số 1826. Thánh Tông Đồ còn nói: không có đức mến, “tôi chẳng là gì”. Và bất cứ điều gì là đặc ân, công việc phục vụ, thậm chí nhân đức… nếu tôi không có đức mến, thì cũng “chẳng ích gì cho tôi”[29]. Đức mến cao trọng hơn mọi nhân đức. Đức mến đứng đầu các nhân đức đối thần: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13,13).
Số 1827. Việc thực thi tất cả các nhân đức được nên sinh động và được gợi hứng bởi đức mến. Nhân đức này là “mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,14); là mô thể của các nhân đức; liên kết và phối hợp các nhân đức; là nguồn mạch và cùng đích của việc thực hành các nhân đức Kitô giáo. Đức mến củng cố và thanh luyện khả năng yêu thương của con người. Đức mến nâng khả năng này lên mức trọn hảo siêu nhiên của tình yêu của Thiên Chúa.
Số 1828. Việc thực hành đời sống luân lý, được sinh động nhờ đức mến, đem lại cho Kitô hữu sự tự do thiêng liêng của con cái Thiên Chúa. Người đó đứng trước Thiên Chúa, không còn như một kẻ nô lệ, trong sự sợ hãi tôi đòi, hay như người làm công ăn lương, nhưng như là người con đáp lại tình yêu của “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1 Ga 4,19):
“Nếu chúng ta xa lánh điều xấu vì sợ hình phạt, chúng ta sẽ sống trong tâm trạng của người nô lệ; nếu chạy theo sự cám dỗ của phần thưởng, … chúng ta sẽ giống như người làm thuê; nhưng nếu vì chính sự đáng kính và vì tình yêu của Đấng ban hành lề luật…, chúng ta mới thật sự sống trong tâm tình của con cái”[30].
Số 1829. Niềm vui, sự bình an và lòng thương xót là như hoa trái của đức mến. Đức mến đòi hỏi phải làm điều tốt và sửa lỗi cho nhau trong tình huynh đệ; đức mến thì nhân hậu; nó khơi dậy sự tương thân tương ái, không tìm tư lợi, và quảng đại; đức mến là tình bằng hữu và sự hiệp thông:
“Yêu thương là sự hoàn tất của mọi công việc của chúng ta. Đó là mục đích: chúng ta chạy vì đó, chúng ta chạy đến đó; và khi tới đó, chúng ta sẽ yên nghỉ”[31].
Số 772-773, 953: Sự hiệp thông trong Hội Thánh
Số 772. Trong Hội Thánh, Đức Kitô hoàn thành và mạc khải mầu nhiệm riêng của Người như mục đích của kế hoạch của Thiên Chúa: “quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ep l,l0). Thánh Phaolô gọi cuộc kết hợp phu phụ của Đức Kitô với Hội Thánh là “một mầu nhiệm cao cả” (Ep 5,32). Bởi vì được kết hợp với Đức Kitô như với Phu Quân của mình[32], nên chính Hội Thánh cũng trở thành một mầu nhiệm[33]. Khi chiêm ngắm mầu nhiệm nơi Hội Thánh, thánh Phaolô đã thốt lên: “Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang” (Cl 1,27).
Số 773. Trong Hội Thánh, sự hiệp thông này giữa người ta với Thiên Chúa nhờ đức mến “không bao giờ mất được” (1 Cr l3,8) là mục đích chi phối tất cả những gì là phương tiện bí tích gắn liền với thế giới đang qua đi này[34]. “Toàn bộ cơ cấu của Hội Thánh đều hướng về sự thánh thiện của các chi thể của Đức Kitô. Sự thánh thiện ấy lại được xác định theo ‘mầu nhiệm cao cả’, là mầu nhiệm Hiền Thê dùng tặng phẩm tình yêu của riêng mình đáp trả lại tang phẩm của Đấng Phu Quân”[35]. Đức Maria trổi vượt tất cả chúng ta về sự thánh thiện, vốn là mầu nhiệm của Hội Thánh, như một Hiền Thê không tỳ ố, không vết nhăn[36]. Vì vậy, “chiều kích Maria của Hội Thánh trổi vượt trên chiều kích Phêrô”[37].
Số 953. Sự hiệp thông đức mến: Trong mầu nhiệm các Thánh thông công, “không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình” (Rm 14,7). “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau; Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung. Vậy anh em, anh em là Thân Thể của Đức Kitô và mỗi người là một bộ phận” (1 Cr 12,26-27). Đức mến “không tìm tư lợi” (1 Cr 13,5)[38]. Việc nhỏ nhất trong các hành vi của chúng ta được làm trong đức mến đều sinh lợi ích cho mọi người, trong sự liên đới hỗ tương với tất cả mọi người, kẻ sống và kẻ chết, sự liên đới đó được đặt nên trong mầu nhiệm “các Thánh thông công”. Mọi tội lỗi đều làm tổn thương sự hiệp thông này.
Số 314, 1023, 2519: Các linh hồn trên thiên đàng nhìn thấy Thiên Chúa mặt giáp mặt
Số 314. Chúng ta tin vững vàng rằng Thiên Chúa là Chúa của trần gian và của lịch sử. Nhưng thường chúng ta không biết được các đường lối của sự quan phòng của Ngài. Chỉ khi nào tới chung cuộc, lúc mà sự hiểu biết phiến diện của chúng ta kết thúc, khi chúng ta thấy Thiên Chúa “mặt giáp mặt” (1 Cr 13,12), chúng ta sẽ hiểu biết một cách trọn vẹn các đường lối này, mà qua đó, kể cả nhờ những thảm kịch của sự dữ và tội lỗi, Thiên Chúa dẫn đưa công trình tạo dựng của Ngài tới sự nghỉ ngơi của ngày Sabat[39] chung cuộc, vì ngày đó mà Thiên Chúa đã tạo dựng trời đất.
Số 1023. Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa, và những ai đã được thanh luyện trọn vẹn, thì được sống muôn đời với Đức Kitô. Muôn đời họ sẽ giống như Thiên Chúa, bởi vì họ thấy Ngài “như Ngài là” (1 Ga 3,2), “mặt giáp mặt” (1 Cr 13,12)[40]:
“Bằng thẩm quyền tông đồ, chúng tôi định tín rằng: Theo sự an bài chung của Thiên Chúa, từ sau cuộc Thăng thiên của Đấng Cứu Độ chúng ta là Chúa Giêsu Kitô, linh hồn của tất cả các Thánh … và của mọi Kitô hữu đã chết sau khi lãnh nhận Phép Rửa thánh thiêng của Đức Kitô, nếu họ không có gì phải thanh luyện, sau khi họ chết, … hoặc nếu lúc đó nơi họ đã hoặc sẽ có gì phải thanh luyện, mà đã thanh luyện xong sau khi chết … thì ngay cả trước khi họ đảm nhận lại thân xác của mình và trước cuộc phán xét chung, các linh hồn này đã, đang và sẽ được ở trên trời, trên Nước Trời và trên Thiên Đàng cùng với Đức Kitô, được nhập đoàn các thánh Thiên thần, và sau cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu Kitô, các linh hồn này đã và đang được xem thấy bản tính thần linh bằng sự hưởng kiến trực tiếp và giáp mặt, không qua trung gian một thụ tạo nào”[41].
Số 2519. Những người có “trái tim trong sạch” được hứa là sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa mặt giáp mặt và trở nên giống như Ngài[42]. Sự trong sạch của trái tim là điều kiện tiên quyết để được thấy Thiên Chúa. Ngay từ bây giờ, trái tim trong sạch giúp chúng ta biết nhìn mọi sự theo cái nhìn của Thiên Chúa, biết đón nhận tha nhân như “người lân cận”; trái tim trong sách khiến chúng ta biết nhận ra thân thể con người, của mình và của người lân cận, như đền thờ của Chúa Thánh Thần, như sự biểu lộ vẻ đẹp thần linh.
Bài Ðọc I: Gr 1, 4-5, 17-19
“Ta sẽ đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc”.
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Trong thời vua Giosia, lời Chúa phán cùng tôi rằng: “Trước khi Ta tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi. Ta đã đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc.
Vậy phần ngươi, ngươi hãy thắt lưng, hãy chỗi dậy, và nói cho họ biết tất cả những điều Ta truyền dạy cho ngươi. Ðừng run sợ trước mặt họ, vì Ta không làm cho ngươi kinh hãi trước mặt họ. Hôm nay Ta làm cho ngươi nên một thành trì vững chắc, một cậy cột bằng sắt, một vách thành bằng đồng trước mặt các vua Giuđa, các hoàng tử, các tư tế và dân chúng xứ này. Họ sẽ chiến đấu chống ngươi, nhưng họ không thắng được ngươi, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 70, 1-2. 3-4a. 5-6ab. 15ab và 17
Ðáp: Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh.
Xướng: 1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con tủi hổ muôn đời; theo đức công minh Chúa, xin cứu nguy và giải thoát con, xin ghé tai về bên con và giải cứu.
Ðáp: Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh.
2) Xin trở nên thạch động để con dung thân, và chiến luỹ vững bền hầu cứu độ con: vì Chúa là Ðá Tảng, là chiến luỹ của con. Lạy Chúa con, xin cứu con thoát khỏi tay đứa ác.
Ðáp: Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh.
3) Bởi Ngài là Ðấng con mong đợi, thân lạy Chúa. Lạy Chúa, Ngài là hy vọng của con tự hồi thanh xuân. Ngay từ trong bụng mẹ, con đã nép mình vào Chúa; từ trong thai mẫu, Chúa là Ðấng bảo vệ con, con đã luôn luôn cậy trông vào Chúa.
Ðáp: Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh.
4) Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh, và suốt ngày kể ra ơn Ngài giúp đỡ. Lạy Chúa, Chúa đã dạy con từ hồi niên thiếu, và tới bây giờ con còn kể (ra) những sự lạ của Ngài.
Ðáp: Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh.
Bài Ðọc II: 1Cr 12, 31 - 13, 13 (bài dài)
“Ðức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng hơn cả”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, anh em hãy cầu mong những ơn cao trọng hơn. Và tôi chỉ bảo cho anh em một con đường hoàn hảo nhất. Nếu tôi nói được các tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi không có bác ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc não bạt vang động. Và nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khôn ngoan; nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển dời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là không. Nếu tôi phân phát mọi của cải tôi có để nuôi kẻ nghèo khó, nếu tôi nộp mình để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi.
Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.
Bác ái không khi nào qua đi. Ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biến mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt như qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài này: 1Cr 13, 4-13
“Ðức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng hơn cả”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.
Bác ái không khi nào qua đi. Ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biết mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt như qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 6, 64b và 69b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có lời ban sự sống. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 4, 21-30
“Chúa Giêsu, như Êlia và Êlisê, không phải chỉ được sai đến với người Do Thái”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói trong hội đường rằng: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”. Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: “Người này không phải là con ông Giuse sao?”
Và Người nói với họ: “Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: ‘Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình!’ Ðiều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông’”. Người nói tiếp: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật với các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Elia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Elia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria”.
Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.
Ðó là lời Chúa.
______
[1] X. l Sm 9,16; 10,1; 16,1.12-13; 1 V 1,39.
[2] X. Xh 29,7; Lv 8,12.
[3] X. 1V 19,16.
[4] X. Tv 2,2; Cv 4,26-27.
[5] X. Is 11,2.
[6] X. Zc 4,14; 6,13.
[7] X. Is 61,1; Lc 4,16-21.
[8] X. Nghi thức Rửa tội cho trẻ em, 62 (Typis Polyglottis Vaticanis 1969) 32.
[9] X. Kh 1,6; 5,9-10; 1 Pr 2,5.9.
[10] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 10: AAS 57 (1965) 14.
[11] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 35: AAS 57 (1965) 40.
[12] Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, III, q. 71, a. 4, ad 3: Ed. Leon. 12, 124.
[13] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 35: AAS 57 (1965) 40.
[14] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 6: AAS 58 (1966) 843; x. Id., Sắc lệnh Ad Gentes, 15: AAS 58 (1966) 965.
[15] X. Bộ Giáo Luật, các điều 774. 776. 780.
[16] X. Bộ Giáo Luật, điều 229.
[17] X. Bộ Giáo Luật, điều 822, 3.
[18] Bộ Giáo Luật, điều 212, 3.
[19] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 21: AAS 58 (1966) 827.
[20] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 24: AAS 58 (1966) 829.
[21] X. 1 Tx 2,13.
[22] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 21: AAS 58 (1966) 827-828.
[23] X. Ga 13,34.
[24] X. Mt 22,40; Rm 13,8-10.
[25] X. Mt 5,44.
[26] X. Lc 10,27-37.
[27] X. Mc 9,37.
[28] X. Mt 25,40.45.
[29] X. 1 Cr 13,1-3.
[30] Thánh Basiliô Cả, Regulae fusius tractatae, prol. 3: PG 31, 896.
[31] Thánh Augustinô, In epistulam Ioannis ad Parthos tractatus, 10, 4: PL 35, 2056-2057.
[32] X. Ep 5,25-27.
[33] X. Ep 3,9-l1.
[34] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.
[35] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông thư Mulieris dignitatem, 27: AAS 80 (1988) 1718.
[36] X. Ep 5,27.
[37] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông thư Mulieris dignitatem 27: AAS 80 (1988) 1718, nota 55.
[38] X. 1 Cr 10,24.
[39] X. St 2,2.
[40] X. Kh 22,4.
[41] ĐGH Bênêđictô XII, Hiến chế Benedictus Deus: DS 1000; x. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 49: AAS 57 (1965) 54.
[42] X. 1 Cr 13,12; 1 Ga 3,2.