NỘI DUNG CHÍNH

Số 528: Tại Cana, Đức Kitô tỏ mình là Đấng Messia, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ

Số 796: Giáo Hội là hiền thê của Đức Kitô

Số 1612-1617: Hôn nhân trong Chúa

Số 2618: Lời chuyển cầu của Đức Maria tại Cana

Số 799-801, 951, 2003: Các đặc sủng phục vụ Giáo hội

Bài Ðọc I: Is 62, 1-5

Bài Ðọc II: 1Cr 12, 4-11

Phúc Âm: Ga 2, 1-12


Số 528: Tại Cana, Đức Kitô tỏ mình là Đấng Messia, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ

Số 528. Hiển Linh là sự tỏ mình ra của Chúa Giêsu, như Đấng Messia của Israel, là Con Thiên Chúa, và là Đấng Cứu Độ trần gian. Cùng với việc Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Jorđanô và với tiệc cưới Cana[1], lễ này mừng kính việc “các đạo sĩ” từ phương Đông đến thờ lạy Chúa Giêsu[2]. Nơi các “đạo sĩ” này, là đại diện cho các tôn giáo lương dân lân cận, Tin Mừng nhận ra những hoa quả đầu mùa của các dân tộc sẽ đón nhận Tin Mừng cứu độ nhờ mầu nhiệm Nhập Thể. Việc các đạo sĩ đến Giêrusalem để bái lạy Vua dân Do Thái[3] cho thấy các vị ấy đến Israel, dưới ánh sáng tiên báo Đấng Messia của ngôi sao Đavid[4], để tìm kiếm Đấng sẽ là vua của các dân tộc[5]. Việc họ đến có nghĩa là các dân ngoại chỉ có thể gặp được Chúa Giêsu và thờ lạy Người là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ trần gian, bằng cách hướng về dân Do Thái[6] và nhờ dân ấy mà lãnh nhận lời hứa về Đấng Messia như đã được ghi chép trong Cựu Ước[7]. Cuộc Hiển Linh cho thấy đông đảo dân ngoại được gia nhập vào gia đình của các Tổ Phụ[8], và được hưởng “phẩm giá của Israel”[9].


Số 796: Giáo Hội là hiền thê của Đức Kitô

Số 796. Sự hợp nhất giữa Đức Kitô và Hội Thánh, giữa Đầu và các chi thể của Thân Thể, cũng bao hàm sự phân biệt giữa hai bên trong một tương quan cá vị. Khía cạnh này thường được diễn tả bằng hình ảnh phu quân và hiền thê. Đề tài Đức Kitô phu quân của Hội Thánh đã được các Tiên tri chuẩn bị và ông Gioan Tẩy Giả loan báo[10]. Chính Chúa cũng tự xưng như là “chàng rể” (Mc 2,l9)[11]. Thánh Tông Đồ trình bày Hội Thánh và mỗi tín hữu, chi thể của Thân Thể Người, như là Hiền Thê “được kết hôn” với Chúa Kitô để nên một Thần Khí với Người[12]. Hội Thánh là Hiền Thê tinh tuyền của Con Chiên tinh tuyền[13], mà Đức Kitô đã yêu thương, Người đã hiến mạng sống mình vì Hội Thánh “để thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh” (Ep 5,26), Người liên kết Hội Thánh với mình bằng một giao ước vĩnh cửu, và không ngừng chăm sóc Hội Thánh như thân thể riêng của Người[14]:

“Đây là Đức Kitô toàn thể, gồm Đầu và thân thể, và là một do bởi nhiều người…. Vậy hoặc là đầu nói, hoặc là các chi thể nói, thì đều là Đức Kitô nói: Người nói trong cương vị là Đầu (ex persona capitis), và Người nói trong cương vị là Thân Thể (ex persona corporis). Nhưng nói gì? ‘Cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh’ (Ep 5,3l-32). Và chính Chúa cũng nói trong Tin Mừng: “Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt” (Mt l9,6). Vậy như anh em đã biết, thật sự thì có hai người, nhưng cả hai đã nên một khi thành vợ thành chồng…. Với tư cách là Đầu, Người tự xưng là ‘Phu quân’; với tư cách là Thân Thể, Người tự xưng là ‘Hiền thê’”[15].


Số 1612-1617: Hôn nhân trong Chúa

Số 1612. Giao ước hôn nhân giữa Thiên Chúa và dân Israel của Ngài đã chuẩn bị cho Giao ước mới và vĩnh cửu. Trong giao ước mới này, Con Thiên Chúa, Đấng nhập thể và hiến dâng mạng sống, một cách nào đó đã liên kết Người với toàn thể nhân loại được Người cứu độ[16], như vậy Người chuẩn bị cho “tiệc cưới của Con Chiên”[17].

Số 1613. Khởi đầu đời sống công khai, Chúa Giêsu đã thực hiện dấu lạ đầu tiên của Người[18] – theo lời yêu cầu của Mẹ Người – trong một tiệc cưới. Hội Thánh coi việc Chúa Giêsu hiện diện trong tiệc cưới Cana có một tầm quan trọng đặc biệt. Hội Thánh coi đó là sự xác nhận tính thiện hảo của hôn nhân và là lời loan báo rằng hôn nhân từ đây về sau là dấu chỉ hữu hiệu về sự hiện diện của Đức Kitô.

Số 1614. Trong khi Người rao giảng, Chúa Giêsu đã dạy một cách rõ ràng về ý nghĩa nguyên thủy của sự kết hợp giữa người nam và người nữ, đúng như Đấng Tạo Hoá đã muốn ngay từ lúc khởi đầu. Việc ông Môisen cho phép rẫy vợ là một nhượng bộ trước lòng chai dạ đá[19]. Sự kết hợp hôn nhân giữa người nam và người nữ là bất khả phân ly: chính Thiên Chúa đã thực hiện sự kết hợp đó: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6).

Số 1615. Lời nhấn mạnh rõ ràng về tính bất khả phân ly của dây hôn nhân làm cho nhiều người ngỡ ngàng và coi đó là một đòi hỏi không thể thực hiện được[20]. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã không đặt cho các đôi phối ngẫu một gánh không thể mang nổi và quá nặng nề[21], nặng nề hơn luật Môisen. Khi đến để tái lập trật tự ban đầu của công trình tạo dựng, đã bị xáo trộn vì tội lỗi, chính Người ban sức mạnh và ân sủng để con người sống đời hôn nhân theo chiều kích mới của Nước Thiên Chúa. Khi bước theo Đức Kitô bằng cách từ bỏ mình và vác thập giá mình[22], các đôi phối ngẫu có thể “hiểu được”[23] ý nghĩa nguyên thủy của hôn nhân và sống với ý nghĩa đó nhờ sự trợ giúp của Đức Kitô. Ân sủng này của hôn nhân Kitô giáo là hoa trái của Thập Giá Đức Kitô, nguồn mạch của toàn bộ đời sống Kitô hữu.

Số 1616. Tông Đồ Phaolô làm sáng tỏ điều đó khi nói: “Người làm chồng hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh” (Ep 5,25-26). Thánh nhân còn nói thêm: “Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha me mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5,31-32).

Số 1617. Toàn bộ đời sống Kitô hữu mang dấu chỉ của tình yêu phu thê giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Bí tích Rửa Tội, cửa dẫn vào dân Thiên Chúa, đã là một mầu nhiệm hôn ước; bí tích đó có thể nói được là như một thanh tẩy chuẩn bị hôn lễ[24] diễn ra trước bữa tiệc cưới, là bí tích Thánh Thể. Hôn nhân Kitô giáo, đến lượt mình, trở thành dấu chỉ hữu hiệu, trở thành bí tích của giao ước giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Bởi vì nó nói lên và truyền thông ân sủng của giao ước đó, nên hôn nhân giữa hai người đã được Rửa Tội là một bí tích thật sự của Giao Ước Mới[25].


Số 2618: Lời chuyển cầu của Đức Maria tại Cana

Số 2618. Tin Mừng mạc khải cho chúng ta Đức Maria cầu nguyện và chuyển cầu trong lòng tin như thế nào: tại Cana[26], Thân mẫu Chúa Giêsu cầu xin Con mình lo đến nhu cầu của bữa tiệc cưới. Bữa tiệc này là dấu chỉ của một Bữa tiệc khác, là tiệc cưới Chiên Con, Đấng ban tặng Mình Máu Người theo lời nài xin của Hội Thánh, Hiền Thê của Người. Vào giờ của Giao ước mới, gần bên thánh giá[27], Đức Maria đã được nhận lời, với tư cách là Người Nữ, tức là bà Evà mới, đích thực là “Mẹ của chúng sinh”.


Số 799-801, 951, 2003: Các đặc sủng phục vụ Giáo hội

Số 799. Các đặc sủng, hoặc ngoại thường hoặc đơn giản và khiêm tốn, là những ân sủng của Chúa Thánh Thần, đều hữu ích cho Hội Thánh cách trực tiếp hay gián tiếp, theo mức độ các đặc sủng đó quy về việc xây dựng Hội Thánh, về việc mưu ích cho con người và về những nhu cầu của trần gian.

Số 800. Các đặc sủng phải được đón nhận với lòng biết ơn, không những bởi người lãnh nhận các đặc sủng đó, mà còn bởi tất cả các phần tử của Hội Thánh. Đó là sự phong phú thật kỳ diệu của ân sủng cho sức sống tông đồ và cho sự thánh thiện của toàn Thân Thể Đức Kitô; miễn là đó phải là những hồng ân thật sự xuất phát bởi Chúa Thánh Thần, và được thực thi hoàn toàn phù hợp với những thúc đẩy đích thực của Ngài, nghĩa là theo đức mến, là thước đo thật của các đặc sủng[28].

Số 801. Theo nghĩa này, rõ ràng là sự phân định các đặc sủng luôn luôn là cần thiết. Không có đặc sủng nào được miễn khỏi tương quan với và quy phục các Mục tử của Hội Thánh. Các ngài “có thẩm quyền đặc biệt, không phải để dập tắt Thần Khí, nhưng phải thử thách tất cả và giữ lại điều gì là tốt”[29], để tất cả các đặc sủng, trong sự khác biệt và bổ sung lẫn nhau, cùng cộng tác “vì lợi ích chung” (1 Cr 12,7)30].

Số 951. Sự hiệp thông các đặc sủng: Trong sự hiệp thông của Hội Thánh, Chúa Thánh Thần “ban phát các ân sủng đặc biệt cho các tín hữu thuộc mọi bậc sống” để xây dựng Hội Thánh[31]. “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1 Cr 12,7).

Số 2003. Ân sủng, trước hết và đặc biệt, là hồng ân của Thần Khí, Đấng công chính hóa và thánh hóa chúng ta. Nhưng ân sủng cũng gồm các hồng ân Thần Khí rộng ban cho chúng ta để liên kết chúng ta vào công trình của Ngài, để làm cho chúng ta có khả năng cộng tác vào công trình cứu độ những người khác và làm phát triển Thân Thể Đức Kitô là Hội Thánh. Đó là các ân sủng bí tích (gratiae sacramentales), là những hồng ân riêng cho những bí tích khác nhau. Ngoài ra, còn có các ân sủng đặc biệt (gratiae speciales) gọi là các đặc sủng (charismata) theo từ Hi lạp, mà thánh Phaolô sử dụng, có nghĩa là đặc ân, hồng ân nhưng không, phúc lợi[32]. Dù có đặc tính nào đi nữa, đôi khi là ngoại thường, như ơn làm phép lạ hay ơn nói tiếng lạ, các đặc sủng đều quy hướng về ơn thánh hóa và có mục tiêu là công ích của Hội Thánh. Các đặc sủng đều phục vụ đức mến là nhân đức xây dựng Hội Thánh[33].


Bài Ðọc I: Is 62, 1-5

“Người chồng sẽ vui mừng vì vợ”.

Trích sách Tiên tri Isaia.

Vì Sion, tôi sẽ không im tiếng, và vì Giêrusalem, tôi sẽ không nghỉ ngơi, cho đến khi Ðấng công chính xuất hiện như ánh sáng, Ðấng Cứu độ Sion đến như ngọn đuốc sáng ngời. Mọi dân tộc sẽ thấy Người là Ðấng công chính của ngươi, và mọi đế vương sẽ thấy vinh hiển Người. Chính Chúa sẽ đặt cho ngươi một tên mới. Ngươi sẽ là triều thiên vinh hiển trong tay Chúa, và vương miện quyền bính trong tay Thiên Chúa ngươi, ngươi sẽ không còn gọi là kẻ bị ruồng bỏ, và đất ngươi sẽ không còn gọi là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi là “kẻ Ta ưa thích”, và đất ngươi sẽ được gọi là đất có dân cư, vì ngươi đẹp lòng Thiên Chúa, và đất ngươi sẽ có dân cư.

(Như) thanh niên sẽ ở cùng trinh nữ, con cái ngươi sẽ ở trong ngươi; (như) người chồng sẽ vui mừng vì vợ, Thiên Chúa ngươi sẽ vui mừng vì ngươi.

Ðó là lời Chúa.


Ðáp Ca: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 7-8a. 9-10ac

Ðáp: Hãy tường thuật phép lạ Chúa giữa chư dân.

Xướng: 1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên chúa, hãy chúc tụng danh Người.

Ðáp: Hãy tường thuật phép lạ Chúa giữa chư dân.

2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.

Ðáp: Hãy tường thuật phép lạ Chúa giữa chư dân.

3) Hãy kính tặng Thiên Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang, hãy kính tặng Thiên Chúa vinh quang xứng với danh Người.

Ðáp: Hãy tường thuật phép lạ Chúa giữa chư dân.

4) Hãy mặc lễ phục, thờ lạy Thiên Chúa. Toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước thiên nhan, hãy công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người cai quản chư dân theo đường đoan chính.

Ðáp: Hãy tường thuật phép lạ Chúa giữa chư dân.


Bài Ðọc II: 1Cr 12, 4-11

“Cùng một Thánh Thần ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người quy định”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, có những hồng ân khác nhau, nhưng vẫn là một Thánh Thần; có nhiều chức vụ khác nhau, nhưng chính là một Chúa; và có những hành động khác nhau, nhưng chính là một Thiên Chúa, Người thực hiện hết mọi cái trong mọi người. Ơn Thánh Thần ban cho mỗi người mỗi khác, cốt để mưu cầu công ích. Người thì được Thánh Thần cho lời khôn ngoan, kẻ khác thì được lời thông minh, theo cùng một Thánh Thần; người khác được đức tin, trong cùng một Thánh Thần; kẻ khác nữa được ơn chữa bệnh, trong cũng một Thánh Thần đó; có người được ơn làm phép lạ, có kẻ được ơn tiên tri, người khác được ơn phân biệt các thần trí; có người được ơn nói nhiều thứ tiếng; người khác được ơn giải thích các thứ tiếng. Nhưng cùng một Thánh Thần duy nhất thực hiện tất cả những điều đó. Người ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người quy định.

Ðó là lời Chúa.


Alleluia: Lc 19,38

Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.


Phúc Âm: Ga 2, 1-12

“Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, có tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa. Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó. Chúa Giêsu và các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc cưới. Và bỗng thiếu rượu, mẹ Chúa Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi”. Chúa Giêsu nói với mẹ: “Hỡi bà, Con với bà có can chi đâu, giờ Con chưa đến”. Mẹ Người nói với những người giúp việc: “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo”.

Ở đó có sáu chum đá, dùng vào việc thanh tẩy của người Do Thái, mỗi chum đựng được hai hoặc ba thùng nước. Chúa Giêsu bảo họ: “Hãy đổ nước đầy các chum”. Họ đổ đầy tới miệng. Và Chúa Giêsu bảo họ: “Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc!” Và họ đã đem đi. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết tự đâu ra, nhưng những người giúp việc đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang mà nói: “Ai cũng đem rượu ngon ra trước, khi khách ngà ngà thì mới đem rượu xoàng hơn. Còn ông, ông lại giữ rượu ngon tới giờ này”.

Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người.

{Sau đó Người xuống Capharnaum làm một với mẹ Người, anh em (Người) và môn đệ của Người, nhưng các Ngài chỉ lưu lại ở đó ít ngày thôi.}

Ðó là lời Chúa.

______

[1] X. Lễ trọng mừng Chúa Hiển Linh, Điệp Ca kinh “Magnificat”, Kinh Chiều II: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v.1 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 465.

[2] X. Mt 2,1.

[3] X. Mt 2,2.

[4] X. Ds 24,17; Kh 22,16.

[5] X. Ds 24,17-19.

[6] X. Ga 4,22.

[7] X. Mt 2,4-6.

[8] X. Thánh Lêô Cả, Sermo 33, 3: CCL 138, 173 (PL 54, 242).

[9] Canh thức Vượt Qua, Lời nguyện sau bài đọc thứ III: Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 277.

[10] X. Ga 3,29.

[11] X. Mt 22,l-l4; 25,l-l3.

[12] X. 1 Cr 6,l5-l7; 2 Cr 11,2.

[13] X. Kh 22,l7; Ep l,4; 5,27.

[14] X. Ep 5,29.

[15] Thánh Augustinô, Enarratio in Psalmum 74, 4: CCL 39, 1027 (PL 37, 948-949).

[16] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 22: AAS 58 (1966) 1042.

[17] X. Kh 19,7.9.

[18] X. Ga 2,1-11.

[19] X. Mt 19,8.

[20] X. Mt 19,10.

[21] X. Mt 11,29-30.

[22] X. Mc 8,34.

[23] X. Mt 19,11.

[24] X. Ep 5,26-27.

[25] X. CĐ Triđentinô, Sess. 24a, Doctrina de sacramento Matrimonii: DS 1800; Bộ Giáo Luật, điều 1055,1.

[26] X. Ga 2,1-12.

[27] X. Ga 19,25-27.

[28] X. 1 Cr 13.

[29] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 12: AAS 57 (1965) 17.

[30] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 30: AAS 57 (1965) 37; ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Christifideles laici, 24: AAS 81 (1989) 435.

[31] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 12: AAS 57 (1965) 16.

[32] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 12: AAS 57 (1965) 16-17.

[33] X. 1 Cr 12.