CHƯƠNG TRÌNH DƯỚI ÁNH SÁNG LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY A
Bài 05: MÙ LÒA
Lm. I-nha-xi-ô Hồ Văn Xuân, Tổng
Đại Diện Gp. Sài Gòn
và NPD. CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ
WGPSG (21.3.2023) - Tin Mừng Chúa nhật IV Mùa Chay năm A giới thiệu với chúng ta
Đức Giê-su là Ánh Sáng khi Người chữa lành một người mù tự bẩm sinh và đem lại
cho anh ta ánh sáng để nhận biết Đức Giê-su và tuyên xưng rằng : “Người là
một vị ngôn sứ” (Ga 9,17). “Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (Ga 9,38).
Còn bài trích sách Sa-mu-en thì nhắc nhở rằng : “Thiên Chúa không nhìn
theo kiểu người phàm : người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì
thấy tận đáy lòng” (1 Sm 16,7).
Vậy, trong buổi học hỏi Kinh Thánh hôm nay, chúng ta sẽ tìm
hiểu ý nghĩa biểu tượng của mù loà theo Kinh Thánh.
Mù loà là thứ tật nguyền được Kinh Thánh đề cập
đến rất nhiều lần, thậm chí là nhiều hơn bất kỳ thứ bệnh tật hoặc khiếm khuyết
nào nơi con người. Ngoài ra, khi kể chung với các loại bệnh tật hoặc khiếm khuyết
khác, các tác giả Sách Thánh thường xếp mù loà ở vị trí hàng đầu.
Ví dụ, khi liệt kê những người thuộc dòng dõi A-ha-ron nhưng không được tế lễ,
tác giả sách Lê-vi đã xếp theo thứ tự : “người đui mù, què
quặt, dị tướng, dị hình, người bị gẫy chân gẫy tay,…” (Lv
21,17-21). Điều này cho thấy, đối với người Do-thái, mù loà là
một thứ khiếm khuyết thể lý trầm trọng và đáng sợ. Ngoài ra, mù loà còn
có ý nghĩa biểu tượng quan trọng trong việc diễn giải mối tương quan giữa con
người với Thiên Chúa.
Để hiểu được ý nghĩa biểu tượng của mù loà,
chúng ta hãy mượn các câu chuyện tạo dựng trong sách Sáng Thế (St 1 ̶ 3) để tìm
hiểu xem đâu là ý nghĩa của việc nhìn thấy và sự mù
loà trong đó.
Các câu đầu tiên của sách Sáng Thế cho thấy thị giác đóng
vai trò quan trọng trong quá trình sáng tạo. Cụ thể là, sau mỗi hoạt động tạo dựng
thì Thiên Chúa thấy các thụ tạo Người làm ra rất tốt đẹp (x.
St 1,4.10.12.18.21.25.31). Động từ thấy (רָאָה : rāaʰ) trong tiếng
Híp-ri hàm chứa nhận thức trên cả hai phương diện vật chất cũng như tinh thần,
tức là thấy cái xuất hiện ra bên ngoài (vật lý) và thấy cái
ẩn tàng ở bên trong (tinh thần). Có thể gọi đó là thị giác của
Thiên Chúa.
Phần con người, khi được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa
(St 1,27), thì cũng được chia sẻ thị giác tuyệt vời của Người. Nhờ đó, con người
có thể thấy Thiên Chúa và thấy mọi sự như
Thiên Chúa thấy (St 2,25). Thật vậy, tác giả sách Sáng thế cho biết Thiên Chúa
đặt con người vào trong vườn Ê-đen (x. St 2,8.9), nơi Thiên Chúa trồng mọi thứ
cây “trông thì đẹp” [bề ngoài] và “ăn thì ngon” [bề
trong] (x. St 2,9). Cũng vậy, A-đam và E-và nhìn thấy nhau như là những thụ tạo
tốt đẹp của Thiên Chúa. Điều này cho thấy Thiên Chúa mong muốn A-đam và bà E-và
có khả năng nhìn như Thiên Chúa để thấy những
thụ tạo ấy đẹp và tốt lành như thế nào. Theo đó, có thể nói rằng ngay thuở ban
đầu, mù loà không nằm trong kế hoạch tạo dựng của Thiên Chúa,
bởi vì Thiên Chúa đã tạo dựng con người rất tốt đẹp và cho con người sở hữu khả
năng nhìn và thấy theo nhãn quan
của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, câu chuyện tạo dựng đã không dừng lại ở đó. Trong
St 3,4-7, con rắn nói với người đàn bà rằng ngày nào con người ăn trái cây mà
Thiên Chúa cấm không được ăn kia, thì mắt họ sẽ mở ra và họ
sẽ nên như Thiên Chúa biết điều thiện và ác. Động từ mở mắt (pāqaḥ
ʿāyin) trong tiếng Híp-ri thường được dùng để chỉ việc phục hồi thị giác cho
người bị mù. Theo đó, con rắn đã dẫn dụ người đàn bà tin rằng con người đã bị
Thiên Chúa đánh lừa, bị Thiên Chúa bịt mắt, hay nói cách khác bị Thiên Chúa làm
cho mù loà, không thể thấy điều phải thấy. Lập luận
này của con rắn khiến cho lời dụ dỗ ăn trái của cây biết lành biết dữ trở nên hợp
lý và cấp thiết đối với ông bà nguyên tổ mặc dù nó đi ngược lại với điều Thiên
Chúa đã căn dặn. Và tác giả sách Sáng Thế cho biết, nguyên tổ đã làm theo lời
con rắn vì tin rằng việc họ nổi loạn sẽ chẳng đưa đến cái chết, nhưng sẽ giúp
con người có được thị giác thần linh, thị giác đặc biệt mà Thiên Chúa không muốn
con người sở hữu.
Quả thật, có một sự biến đổi sau khi A-đam và E-và ăn trái cấm.
Kinh Thánh nói : mắt hai ông bà mở ra và cái họ thấy đầu
tiên chính là sự trần truồng của họ, một sự trần truồng khiến hai ông bà sợ hãi
và xấu hổ (x. St 3,7.10). Chỉ trước đó mấy câu thôi, bản văn Sáng thế cho chúng
ta biết rằng trước khi ăn trái cấm, “con người và vợ mình, cả hai đều
trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau” (St 2,25), còn sau khi được
mở mắt, con người nhìn thấy sự trần truồng của mình thì xấu hổ, sợ hãi và tìm
cách trốn tránh Thiên Chúa. Như vậy, sự biến đổi thị giác của con người trước
và sau khi sa ngã mà tác giả Sách Thánh muốn nhấn mạnh ở đây liên quan đến cách
mà con người thấy chứ không phải cái mà họ thấy.
Đỉnh cao của câu chuyện được trình bày như một nghịch lý. Đó
là ngay vào lúc mắt A-đam và E-và mở ra thì đó lại chính là lúc mà ông bà trở
nên mù loà ; bởi lẽ việc mở mắt đó đã ngăn không cho họ thấy Thiên
Chúa là đối tượng tuyệt mỹ của việc thấy (St 3,8), và nó cũng
lấy mất quà tặng Thiên Chúa đã ban cho họ là khả năng nhìn chính
mình cũng như các thụ tạo khác theo nhãn quan thánh thiện của Thiên Chúa (x. St
3,7.10). Câu chuyện sáng tạo kết thúc với việc con người bị trục xuất khỏi vườn
Ê-đen, mang theo sự mù loà là sản phẩm của sự bất tín và nổi loạn của chính
mình (St 3,23-24).
Từ câu chuyện của sách Sáng thế, có thể nói mù loà là
một tình trạng hư hỏng hoặc khiếm khuyết trong cách nhìn của con người và là sự
sai lệch so với trật tự tạo dựng ban đầu của Thiên Chúa. Vì thế, mặc dù có nhiều
nguyên nhân dẫn đến sự mù loà, nhưng theo quan điểm Kinh
Thánh, mù loà xuất phát từ sự sa ngã nguyên thuỷ của con người,
là hậu quả của việc nổi loạn chống Thiên Chúa và kéo theo sự mù loà tâm linh.
Ở đây xin trích dẫn thêm một số đoạn Kinh Thánh để minh chứng
điều đã nói trên.
Trong sách Đệ nhị luật, ông Mô-sê cảnh cáo dân Ít-ra-en rằng
:
Nếu anh em không nghe tiếng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa
của anh em, không lo đem ra thực hành tất cả những mệnh lệnh và thánh
chỉ của Người mà tôi truyền cho anh em hôm nay, thì những lời nguyền
rủa sau đây sẽ đến với anh em và bao trùm anh em : ĐỨC CHÚA sẽ
làm cho anh em bị điên khùng, mù loà, loạn trí. Anh em sẽ mò mẫm
giữa trưa, như người mù mò mẫm trong bóng tối, và sẽ không thấy
đường mà đi. Mãi mãi, anh em sẽ chỉ là người bị áp bức, bị bóc
lột, mà không ai cứu (Đnl 28,15.28-29).
Hoặc lời Thiên Chúa cảnh báo dân Ít-ra-en qua miệng ngôn sứ
I-sai-a rằng :
Hãy đi nói với dân này rằng : Cứ nghe cho rõ,
nhưng đừng hiểu, cứ nhìn thật kỹ, nhưng đừng nhận ra. Hãy làm cho
lòng dân này ra đần độn, cho tai nó điếc, cho mắt nó mù ; kẻo mắt
nó thấy, tai nó nghe và lòng nó hiểu, mà nó trở lại và được chữa
lành (Is 6,9-10).
Hoặc như lời Đức Chúa phán với ngôn sứ Ê-dê-ki-en rằng :
Hỡi con người, ngươi đang sống giữa một nòi phản
loạn, giữa những kẻ có mắt để nhìn mà không thấy, những kẻ có tai
để nghe mà không nghe, vì chúng là một nòi phản loạn (Ed
12,2).
Tóm lại, Kinh Thánh cho biết rằng, chính vì sự nổi loạn và cứng
lòng của mình, ông bà nguyên tổ và các con cháu đã trở nên mù loà tức
là mất đi thị giác thần linh mà Thiên Chúa đã ban tặng từ buổi đầu tạo dựng. Sự
mù loà này khiến cho con người dù mắt vẫn mở nhưng không còn khả năng thấy mọi
sự như Thiên Chúa thấy nữa. Một khi nhãn quan bị mù mờ sẽ kéo theo phán quyết lệch
lạc và hành động sai trái.
Vậy, Mùa Chay là dịp thuận tiện để chúng ta xin Thiên Chúa
khôi phục thị giác thánh thiện cho chúng ta, để chúng ta có thể nhìn và thấy vẻ
đẹp của Thiên Chúa cũng như vẻ đẹp của muôn loài muôn vật mà Thiên Chúa đã tác
tạo, để chúng ta tôn vinh Thiên Chúa và bước đi trong ánh sáng của Người.
Cầu nguyện bằng thánh vịnh 119
Lạy CHÚA, xin dạy con đường lối thánh chỉ,
con nguyện đi theo mãi đến cùng.
Xin cho con được trí thông minh,
để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ.
Trên đường mệnh lệnh Chúa, xin dẫn con đi,
vì con ưa thích đường lối đó.
Xin hướng lòng con nghiêng về thánh ý,
không ngả theo lợi lộc tiền tài.
Xin giữ mắt này khỏi nhìn theo những gì hư ảo,
và cho con được sống nhờ đường lối của Ngài. (Tv 119,33-37)
Nguồn: tgpsaigon.net