A. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

Bài đọc 1 : Is 7,10-14

Đáp ca : Tv 23,1-2.3-4ab.5-6 (Đ. x. c.7c và 10b)

Bài đọc 2 : Rm 1,1-7

Tin Mừng : Mt 1,18-24

B. CHIA SẺ LỜI CHÚA

1. Bài đọc 1 : Is 7,10-16

2. Đáp ca : Tv 23

3. Bài đọc 2 : Rm 1,1-7

4. Bài Tin Mừng : Mt 1,18-24 : Một người Cha vâng phục

C. BÀI ĐỌC THÊM

1. "Nguồn gốc khác"

2. “Tính cách làm cha của thánh Giu-se đối với Đức Giê-su chắc chắn quan trọng hơn như người ta vẫn thường nghĩ”


A. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

Bài đọc 1 : Is 7,10-14

Này đây người trinh nữ sẽ mang thai.

Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.

10 Khi ấy, Đức Chúa sai ngôn sứ I-sai-a nói với vua A-khát rằng :
11 “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu

dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh.”

12 Vua A-khát trả lời :

“Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa.”

13 Ông I-sai-a bèn nói : “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít, các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao,

mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa ?

14 Vì vậy, chính Chúa Thượng

sẽ ban cho các ngươi một dấu :

Này đây người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai,

và đặt tên là Em-ma-nu-en.”

Đó là lời Chúa.

Đáp ca : Tv 23,1-2.3-4ab.5-6 (Đ. x. c.7c và 10b)

Đ. Chúa sẽ ngự vào : chính Người là Đức Vua vinh hiển.

1 Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài, làm chủ hoàn cầu với toàn thể dân cư.
2 Nền trái đất, Người dựng trên biển cả,

đặt vững vàng trên làn nước mênh mông. Đ.

3 Ai được lên núi Chúa ?
Ai được ở trong đền thánh của Người ?

4ab Đó là kẻ tay sạch lòng thanh,

chẳng mê theo ngẫu tượng. Đ.

5 Người ấy sẽ được Chúa ban phúc lành,
được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng.

6 Đây chính là dòng dõi những kẻ kiếm tìm Người,

tìm thánh nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp. Đ.

Bài đọc 2 : Rm 1,1-7

Xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít, Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa.

Khởi đầu thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.

1 Tôi là Phao-lô, tôi tớ của Đức Ki-tô Giê-su ; tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa. 2 Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh. 3 Đó là Tin Mừng về Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.

Xét như một người phàm, Đức Giê-su Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít. 4 Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng.

5 Nhờ Người, chúng tôi đã nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ, làm cho hết thảy các dân ngoại vâng phục Tin Mừng hầu danh Người được rạng rỡ. 6 Trong số đó, có cả anh em, là những người đã được kêu gọi để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô.

7 Kính gửi tất cả anh em ở Rô-ma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi làm dân thánh.

Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.

Đó là lời Chúa.

Tung hô Tin Mừng   Mt 1,23

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Ha-lê-lui-a.

Tin Mừng : Mt 1,18-24

Đức Giê-su sinh làm con bà Ma-ri-a. Bà đã thành hôn với ông Giu-se, con cháu vua Đa-vít.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.

18 Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô : Bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.

19 Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. 20 Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng : “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. 21 Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” 22 Tất cả sự việc này xảy ra là để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ : 23 Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. 24 Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy, và đón vợ về nhà.

Đó là lời Chúa.

B. CHIA SẺ LỜI CHÚA

1. Bài đọc 1 : Is 7,10-16

1. Chúng ta vừa tham dự vào một trong những biến cố đau thương nhất trong lịch sử của dân tộc Ít-ra-en ; chúng ta đang ở vào khoảng năm 735 trước Công nguyên : vương quốc cũ của Đa-vít đã bị phân chia thành hai vương quốc nhỏ bé, từ khoảng hai trăm năm qua ; hai vua, hai thủ đô : Sa-ma-ri ở phía Bắc, Giê-ru-sa-lem ở phía Nam : chính tại Giê-ru-sa-lem mà dòng dõi vua Đa-vít đang cai trị, và từ dòng dõi này, Đấng Mê-si-a sẽ chào đời ; nhưng ngay lúc đó thì rõ ràng là Đấng Mê-si-a chưa sinh ra ! Một vị vua trẻ, mới hai mươi tuổi, vua A-khát, vừa lên ngôi vua tại Giê-ru-sa-lem, và ngay sau khi lễ đăng quang kết thúc, nhà vua phải đưa ra những quyết định hết sức khó khăn.

Tất cả chúng ta đều biết Kinh Thánh không phải là một quyển sách lịch sử theo nghĩa thông thường, và nếu lời của ngôn sứ I-sai-a được bảo tồn và truyền đạt cho chúng ta, là vì vấn đề được đặt ra cho vua A-khát là một vấn đề đức tin. Để có thể đưa ra những quyết định quan trọng, nhà vua phải dựa vào đức tin của mình, nghĩa là nhà vua chỉ tin tưởng một mình Thiên Chúa mà thôi : Thiên Chúa đã hứa sẽ cho dòng dõi vua Đa-vít trường tồn ; Thiên Chúa đã hứa thì chắc chắn Người sẽ giữ lời. Người không bao giờ bỏ rơi dân riêng của Người. Đó là niềm xác tín của ngôn sứ I-sai-a.

2. Nhưng thật ra, trách nhiệm của vị vua trẻ rất nặng nề, tình hình chính trị bấp bênh, vương quốc Giê-ru-sa-lem nhỏ bé đang bị kẹp giữa hai gọng kềm thù địch, đó là đế quốc Át-xy-ri lúc đó đang lên ở vùng Cận Đông, với thủ đô là Ni-ni-vê. Đế quốc này đe doạ cả vùng đó ; các chiến dịch quân sự của họ lan tới Đa-mát, Sy-ri và cả Sa-ma-ri ; vào năm 738, vua Đa-mátvà vua Sa-ma-ri bị đánh bại, bị bắt buộc phải đầu hàng và triều cống cho đế quốc Át-xy-ri.

Thế lực thứ hai chính là hai vương quốc nhỏ bé Sy-ri và Sa-ma-ri nổi loạn chống lại Ni-ni-vê và bao vây Giê-ru-sa-lem để truất phế vua A-khát và thay thế bằng một vị vua khác sẽ chấp nhận liên minh với họ trong cuộc chiến tranh giành độc lập chống lại Ni-ni-vê, vua A-khát kinh hoàng. Những câu đi trước bài đọc 1 hôm nay kể lại : “Lòng vua cũng như lòng dân đều rung động như cây rừng rung rinh trước gió” (Is 7,2). Ngôn sứ I-sai-a bắt đầu bằng việc mời gọi nhà vua bình tĩnh và tin tưởng Thiên Chúa, vì Chúa đã hứa cho dòng dõi vua Đa-vít trường tồn mãi mãi, mà Thiên Chúa đã hứa thì chắc chắn Người sẽ giữ lời vì Chúa là Đấng trung tín. Cho nên ngôn sứ I-sai-a khuyên nhà vua bình tĩnh đương đầu với những mối đe doạ hiện hữu, tin tưởng vào Chúa và các nguồn lực trong dân, và vị ngôn sứ nói thêm : “niềm tin chính là sự sống còn của nhà vua ; nếu nhà vua không tin Chúa, nhà vua và toàn thể dân Ít-ra-en sẽ không thể tồn tại trên mặt đất này”.

Nhưng vua A-khát không nghe lời ngôn sứ nữa ; nhà vua, người lưu giữ đức tin vào Thiên Chúa duy nhất, lại dâng lễ tế cho tất cả các vị thần, và điều đáng tiếc là nhà vua đã bắt chước các dân tộc khác mà làm một việc đáng ghê tởm là giết chết đứa con trai độc nhất của mình để tế thần. “Vua đã đi theo đường lối của các vua Ít-ra-en, và thậm chí còn làm lễ thiêu con trai mình” (2 V 16,3). Đây là một việc làm bị các ngôn sứ phản đối quyết liệt.

3. Vua A-khát chỉ thấy có một lối thoát : Để tránh mối đe doạ tức thời của hai ông bạn láng giềng là các vua Đa-mát và Sa-ma-ri, vua A-khát quyết định cầu viện hoàng đế Át-xy-ri : ngôn sứ I-sai-a phản đối quyết liệt giải pháp này, vì sẽ phải trảgiá ! Vua A-khát, khi cầu cứu hoàng đế Át-xy-ri sẽ mất sự độc lập về chính trị và tôn giáo : chỉ cần một quyết định sai lầm là xoá sạch toàn bộ công trình giải thoát do ông Mô-sê thực hiện. Do đó, ngôn sứ I-sai-a công bố những lời chúng ta vừa nghe trong bài đọc 1 hôm nay, ông nói vì nhà vua đã không tin, nên “hãy xin Đức Chúa một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh”, vì Chúa ngự trị khắp nơi.

Vua A-khát trả lời cho ngôn sứ I-sai-a một cách giả hình, vì nhà vua đã quyết định rồi và quyết định này hoàn toàn trái ngược với những lời khuyên của ngôn sứ I-sai-a, và tệ hơn nữa, nhà vua dám thiêu chết con trai độc nhất của mình để tế thần, đứa con trai thụ hưởng lời hứa của Đức Chúa : “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa.” Tuy nhiên, ngôn sứ I-sai-a đâu phải là người dễ bị lừa gạt, ông nói : “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít, các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa ?” Ngôn sứ I-sai-a nói “Thiên Chúa của tôi” vì ông cho rằng vua A-khát xử sự như một người không còn tuân giữ Giao ước với Đức Chúa nữa.

Đứng trước những bất trung bất nghĩa của vua A-khát, ngôn sứ I-sai-a cho biết Thiên Chúa vẫn luôn trung thành với lời hứa của mình, và đây là bằng chứng : “Này đây người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”, bởi vì dù là kẻ thù muốn truất phế vua A-khát và chính nhà vua đã thiêu chết con trai độc nhất của mình để tế thần, cũng không ngăn cản Thiên Chúa giữ lòng trung tín với lời hứa Người đã ban cho dòng dõi vua Đa-vít và dân tộc Ít-ra-en của ông.

Sau hết, lời hứa liên quan đến vị vua tương lai : “Người sẽ lãnh nhận Thần Khí Chúa để có thể biết bỏ cái xấu mà chọn cái tốt”, và lời hứa thứ hai đó là “trước khi vị vua này biếtbỏ cái xấu và chọn cái tốt (nghĩa là trước khi vị vua trưởng thành), thì hai vương quốc Xy-ri và Sa-ma-ri đã bị đế quốc Át-xy-ri nghiền nát”. Dù vua kế vị vua A-khát vẫn tiếp tục phản bội Giao ước, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn trung thành với lời đã hứa cho dòng dõi vua Đa-vít và dân Ít-ra-en. Do đó, từ thế hệ này sang thế hệ kia, người ta vẫn tiếp tục giữ trong lòng mình lời hứa của Thiên Chúa ; với niềm xác tín rằng vào một ngày nào đó, sẽ xuất hiện một vị vua xứng đáng mang tên Em-ma-nu-en, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

2. Đáp ca : Tv 23

Thánh vịnh 23 kể lại việc Chúa ngự vào Đền Thánh. Chúng ta đang ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Một đám rước khổng lồ đang đến gần các cửa của Đền Thờ và hai ca đoàn hát đối đáp : “Ai được lên núi Chúa ? Ai được ở trong đền thánh của Người ?” Chúng ta nhớ ngôn sứ I-sai-a đã so sánh Thiên Chúa ba lần Thánh với ngọn lửa huỷ diệt ở chương 33, thì ông đặt ngay câu hỏi : “Ai trong chúng ta ở gần được lửa thiêu ? Ai trong chúng ta ở gần được hoả hào muôn kiếp ?” (Is 33,11.14), hiểu ngầm là tự sức mình, chúng ta không thể chịu đựng nổi cái nhìn của Thiên Chúa, ánh sáng rực rỡ phát ra từ nơi Người. Đó là tiếng kêu chiến thắng của dân Ít-ra-en : được Chúa chọn làm dân riêng của Người không phải vì công trạng gì của họ, nhưng chỉ vì lòng Chúa xót thương, vì tình yêu vô bờ của Người. Đó là mặc khải quan trọng nhất của dân Ít-ra-en : Thiên Chúa là Đấng Thánh, Đấng hoàn toàn khác : “Thánh ! Thánh ! Chí Thánh ! Ngàn trùng chí thánh ! Là Chúa Tể càn khôn.” Ngôn sứ I-sai-a đã viết trong cuộc xuất thần khi Chúa gọi ông làm ngôn sứ (Is 6), nhưng đồng thời, Thiên Chúa cũng là Đấng rất gần với con người.

3. Bài đọc 2 : Rm 1,1-7

1. Bài đọc 2 là những lời đầu tiên thánh Phao-lô gửi đến tín hữu Rô-ma ; chỉ trong vài hàng, chúng ta đã có một bảng tóm tắt đức tin Ki-tô giáo : những lời hứa của Thiên Chúa trong Kinh Thánh, mầu nhiệm Đức Ki-tô, sự giáng sinh và phục sinh của Người, việc tuyển chọn nhưng không dân thánh, và sứ vụ của các Tông Đồ đối với các dân ngoại.

Khi ngỏ lời với cộng đoàn tín hữu chưa bao giờ gặp, thánh Phao-lô tự giới thiệu : danh xưng “tôi tớ của Đức Ki-tô” “Tông Đồ”, nghĩa là ngài được Chúa uỷ thác cho việc rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, và đó là nguồn sức mạnh cho tất cả mọi công việc ngài làm cách can đảm.

Ở đây, chúng ta cần lưu ý về danh xưng của Đức Giê-su : “Đức Ki-tô”, đó là một lời tuyên xưng đức tin dành cho một mình Chúa Giê-su mà thôi. Đối với chúng ta, nói “Đức Giê-su” hay “Đức Ki-tô” đều giống nhau sau hai ngàn năm đức tin Ki-tô giáo, đó là chuyện bình thường, nhưng những người đồng hương của thánh Phao-lô thì lại khác : “Giê-su” là tên chỉ một người nào đó, còn “Ki-tô” là tước hiệu, vì “Ki-tô” có nghĩa là “Mê-si-a”. Nói Đức Giê-su Ki-tô là ta xác nhận toàn bộ niềm tin Ki-tô giáo : Đức Giê-su Na-da-rét là Đấng Mê-si-a.

Thánh Phao-lô tiếp tục : “được dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa”, kế hoạch cứu độ, ý định yêu thương của Người được hoàn tất nơi Đức Giê-su Ki-tô. Đó là điều mà thánh Phao-lô nói trong vài hàng của bức thư này. Trở lại bài đọc 2, “Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh.” Tôi tin chắc rằng không một ai có thể hiểu gì về Tin Mừng và toàn bộ Tân Ước nếu người ta không hiểu rõ Tân Ước : cả hai là một, không thể chia cắt được ! Ý định của Thiên Chúa đã có từ bình minh của thế giới, và dần dần Thiên Chúa mặc khải cho dân Người qua lời rao giảng của các ngôn sứ.

2. Thánh Phao-lô nói : “Tin Mừng về Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.” Đối với thánh Phao-lô, Chúa Giê-su Ki-tô luôn luôn là trung tâm kế hoạch của Thiên Chúa. Khi thánh Phao-lô nói về kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa trong thư Ê-phê-xô là từ đời đời và từ khởi thuỷ của thế giới, Thiên Chúa đã có kế hoạch tập họp toàn thể nhân loại hợp nhất nơi Đức Giê-su Ki-tô.

“Xét như một người phàm, Đức Giê-su Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít” : Đức Giê-su là người, là thành viên của dân Chúa chọn, dòng dõi vua Đa-vít, Người có đầy đủ các điều kiện để trở nên Đấng Mê-si-a. “Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng.” Theo truyền thống, tước hiệu “con Thiên Chúa” được trao ban cho mỗi vị Tân Vương lúc đăng quang ; đối với Đức Giê-su Ki-tô, đó là ngày phục sinh mà Thiên Chúa đã tấn phong Người làm Vua toàn thể nhân loại mới. Đối với thánh Phao-lô, sự phục sinh của Đức Ki-tô là một biến cố làm đảo lộn bộ mặt của thế giới.

Thánh Phao-lô không nói về cái chết của Đức Ki-tô, nhưng chỉ rao giảng về sự phục sinh của Người, vì đối với thánh Phao-lô, đó là tín điều thứ nhất của đức tin : “Nếu Đức Ki-tô không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cr 15,14). Chính sự phục sinh của Đức Ki-tô mà thánh Phao-lô sắp rao giảng khắp nơi “để danh Người được rạng rỡ” như thánh Phao-lô đã nói. Ở đây, chúng ta lại tìm thấy kiểu nói tuyệt đẹp trong thư Phi-líp-phê : “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2,9). Chúng ta nghe chính danh xưng Chúa vốn dành riêng cho Thiên Chúa, từ nay về sau được gán cho chính Đức Giê-su.

3. Một vấn đề khác “làm cho hết thảy các dân ngoại vâng phục Tin Mừng hầu danh Người được rạng rỡ”. Kiểu nói này ngày hôm nay không dễ được tất cả mọi người chấp nhận. Tuy nhiên, đối với thánh Phao-lô, vốn thấm nhuần Cựu Ước và những khám phá dần dần của con người về Kinh Thánh, từ “vâng phục” không phải là nô lệ, là hạ nhục ai, nhưng mang một ý nghĩa tích cực là tin tưởng lắng nghe Đấng chắc chắn sẽ đem lại sự bình an cho mình và sẵn sàng tuân theo những lời khuyên nhủ của Đấng ấy : đó là thái độ hiếu thảo tuyệt vời “làm cho hết thảy các dân ngoại vâng phục Tin Mừng”, nghĩa là loan báo Tin Mừng cho họ, để họ hiểu rằng tin tức mà họ nghe được là tốt lành, họ có thể đặt trọn niềm tin vào tin tốt đó và sẵn sàng mở tai để nghe lời yêu thương của Chúa Cha.

Thánh Phao-lô kết thúc bằng một lời chúc quen thuộc, một lời chúc tốt đẹp ta có thể gửi đến bất cứ ai : “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.” Ở đây ta thấy thánh Phao-lô lấy lại lời chúc trong sách Dân số : “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em. Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và rủ lòng thương anh em. Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em” (Ds 6,24-26).

4. Bài Tin Mừng : Mt 1,18-24 : Một người Cha vâng phục

Như Thiên Chúa đã mặc khải cho bà Ma-ri-a, Người cũng mặc khải cho ông Giu-se kế hoạch cứu độ của Người. Thiên Chúa làm thế qua những giấc mơ. Trong Kinh Thánh và nơi các dân tộc cổ xưa, các giấc mơ được coi như một cách để Thiên Chúa cho biết thánh ý của Người.

Ông Giu-se vô cùng hoang mang vì cái thai kỳ lạ của bà Ma-ri-a. Ông Giu-se không muốn “tố giác bà”, nên mới định tâm “bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19).

Trong giấc mơ đầu tiên, một thiên thần đã giúp ông Giu-se giải quyết tình thế lưỡng nan rất hệ trọng của mình : “Đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,20-21). Ông Giu-se hưởng ứng ngay lập tức : “Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy” (Mt 1,24). Sự vâng phục đã giúp ông Giu-se có thể vượt qua những khó khăn của mình và cứu được bà Ma-ri-a.

Trong giấc mơ thứ hai, thiên thần bảo ông Giu-se : “Hãy trỗi dậy, hãy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại ; vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy !” (Mt 2,13), ông Giu-se đã vâng lời không chần chừ, dù phải bao gian nan vất vả : “Ông trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và ở lại đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà” (Mt 2,14-15).

Ở Ai-cập, ông Giu-se kiên nhẫn và tin tưởng đợi chờ thiên thần báo lại để có thể an toàn trở về quê hương. Trong giấc mơ thứ ba, thiên thần báo rằng những kẻ tìm giết Con Trẻ đã chết và ông Giu-se hãy trỗi dậy, đưa Con Trẻ và mẹ Người trở về Ít-ra-en (x. Mt 2,19-20). Một lần nữa, ông Giu-se mau mắn tuân hành. “Ông trỗi dậy, đưa Hài Nhi và mẹ Người trở về đất Ít-ra-en” (Mt 2,21).

Trên hành trình về quê ấy, “Giu-se được báo mộng và biết Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông không dám về đó” – đây là giấc mơ lần thứ tư – “ông lui về miền Ga-li-lê, đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét” (Mt 2,22-23).

Thánh Lu-ca kể cho chúng ta rằng ông Giu-se đã đi một hành trình dài và khó khăn từ Na-da-rét đến Bê-lem để khai sổ tại quê quán của mình trong cuộc điều tra dân số của hoàng đế Xê-da-rê Au-gút-tô. Trẻ Giê-su được sinh ra ở đấy (x. Lc 2,7), và cuộc chào đời này đã được đăng ký vào sổ sách của đế quốc giống như mọi đứa trẻ khác. Thánh Lu-ca đặc biệt lưu ý chúng ta rằng cha mẹ của Đức Giê-su đã tuân thủ mọi quy định của Lề Luật : việc cắt bì cho Đức Giê-su, việc thanh tẩy bà Ma-ri-a sau khi sinh con, việc dâng con trai đầu lòng cho Thiên Chúa (x. 2,21-24).

Trong mọi hoàn cảnh, ông Giu-se đã tuyên bố tiếng “fiat - xin vâng” của mình, giống như tiếng “fiat - xin vâng” của bà Ma-ri-a trong biến cố Truyền Tin và của Đức Giê-su trong Vườn Cây Dầu.

Trong vai trò người đứng đầu gia đình, ông Giu-se đã dạy cho Đức Giê-su biết vâng lời cha mẹ (x. Lc 2,51) theo như điều răn Chúa dạy (x. Xh 20,12).

Suốt những năm ẩn dật của mình ở Na-da-rét, Đức Giê-su đã học ở trường của ông Giu-se để biết làm theo thánh ý Chúa Cha. Thánh ý của Chúa Cha là lương thực hằng ngày của Người (x. Ga 4,34). Ngay cả vào thời khắc khó khăn nhất trong cuộc đời, lúc ở Vườn Cây Dầu, Đức Giê-su vẫn chọn thi hành thánh ý Chúa Cha hơn là theo ý riêng mình, trở thành “vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá” (Pl 2,8). Vì thế tác giả thư Híp-ri kết luận rằng Đức Giê-su “đã trải qua đau khổ để học cho biết thế nào là vâng phục” (5,8).

Tất cả những điều này cho thấy rõ rằng “thánh Giu-se đã được Thiên Chúa kêu gọi phục vụ cho con người và sứ mạng của Chúa Giê-su cách trực tiếp, qua việc thi hành chức phận làm cha của mình”, và bằng cách ấy, “khi thời gian viên mãn, ngài đã cộng tác vào mầu nhiệm Cứu Độ cao cả, và thật sự trở thành một thừa tác viên của ơn cứu độ”.

Cầu nguyện :

Lạy Chúa, thánh Giu-se là người công chính, luôn tin tưởng vào Chúa là Đấng nhân hậu từ bi, là Cha giàu lòng thương xót. Người luôn đáp “Xin Vâng” theo thánh ý Chúa khi sứ thần Chúa báo mộng cho Người. Xin cho tất cả chúng con biết noi gương thánh Giu-se trong cuộc sống đức tin thường ngày.

Tự vấn :

Chúng ta có đáp “Xin Vâng” trong mọi tình huống của cuộc sống không ?

C. BÀI ĐỌC THÊM

1. "Nguồn gốc khác"

(Mgr. L. Daloz, trong “Le Règne des cieux s’est approché”, Desclée de Brouwer, tr. 16-17).

Đây là gốc tích của Đức Giê-su …” Sau quyển sách gốc tích của Đức Giê-su Ki-tô, thì đây là một nguồn gốc khác được trình bày cho chúng ta. Đức Giê-su, bám rễ sâu vào một lịch sử, trong một dân tộc, cũng là Đấng đến từ nơi khác. Gia-cóp sinh Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, từ nơi bà, Đức Giê-su sinh ra … Thánh Giu-se đã đưa đứa trẻ sắp sinh nhập vào trong dòng dõi tổ tiên mình một cách hợp pháp ; nhưng Hài Nhi này lại đến từ một Đấng khác : đứa con bà sinh ra là bởi Chúa Thánh Thần. Thánh Giu-se, người công chính, sẽ đặt tên cho Hài Nhi : bà sẽ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giê-su. Tên gọi có ý nghĩa, cho biết Hài Nhi không phải là hậu duệ như những người khác, đóng kín trong những giới hạn của khả năng loài người : bởi chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi. Ai có thể giải thoát khỏi tội lỗi, nếu không phải là Thiên Chúa ? Lời tiên tri nhận lấy đầy đủ tất cả ý nghĩa : người ta sẽ gọi tên Người là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng- chúng-ta. Đức Giê-su ghi tên vào một gia phả, nhưng Người làm nổ tung gia phả đó. Chính Thiên Chúa bước vào trong thế giới loài người chúng ta.

Tuy nhiên, vai trò của thánh Giu-se không phải là tầm thường. Khoa tâm lý hiện đại đã tỏ cho chúng ta biết tầm quan trọng của hình ảnh người cha đối với việc tạo thành nhân cách của Hài Nhi. Chính nhờ gần gũi với thánh Giu-se mà Đức Giê-su sẽ học biết người cha là gì. Chính nơi ông mà Người sẽ nhìn thấy phản ánh nhân loại tình phụ tử của Thiên Chúa. Biết nói với chúng ta rõ ràng về Cha của Người, phải chăng khi đã nhìn thấy thánh Giu-se mà Người đã có kinh nghiệm về sự âu yếm của cha : “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá ? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn ?” (Mt 7,9-10). Người đã học biết rằng, các người cha dưới đất biết cho con cái mình những sự tốt lành. Người đã học biết điều đó nơi thánh Giu-se.

Chúng ta đừng quên rằng, những đoạn văn đến “sau” : sau một sự khám phá lâu dài về con người Đức Giê-su, con của bác thợ mộc, sau những lời nói và những dấu chỉ đã làm nảy sinh đức tin trong tâm hồn các môn đệ, sau những hồ nghi và sau cùng, sau một sự chắc chắn về sự phục sinh : phải nhìn nhận rằng, Đức Giê-su đã là một Đấng khác, để chúng ta có thể hiểu rằng Người đã từ nơi khác mà đến. Trong lịch sử nhân loại, nguồn gốc thần thiêng của Đức Giê-su là một sự kiện không ai để ý đến, không ngừng được tranh cãi và chối bỏ : Đó không phải là con bác thợ mộc sao ? Nhờ Thánh Thần, Thiên Chúa dẫn nhập cái mới vào trong thế giới chúng ta. Người đã trở thành Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Chỉ nguyên việc đón nhận cái mới là chính Đức Giê-su, cái mới mà Người đem đến cho cuộc đời chúng ta, có thể dẫn ta đến chấp nhận điều bất ngờ trong việc Người sinh ra. Chính kết quả của việc khám phá này mà Mát-thêu muốn gửi gắm cho chúng ta. Chúng ta không thể chấp nhận nguồn gốc của Đức Giê-su bởi tác động của Chúa Thánh Thần mà không nhìn nhận là Người đến từ Thiên Chúa. Chính khi đã nhìn biết Người, chính khi đã hiểu rằng, Người là Đấng khác, thì chúng ta mới có thể đón nhận mầu nhiệm Giáng Sinh của Người.”

2. “Tính cách làm cha của thánh Giu-se đối với Đức Giê-su chắc chắn quan trọng hơn như người ta vẫn thường nghĩ”

(Jean-Noël Bezançon, trong “Jésus Christ” (“Petit encyclopédie moderne du christianisme”), Desclée de Brouwer, tr. 43-45).

Tính cách làm cha của thánh Giu-se đối với Đức Giê-su quan trọng hơn ta vẫn thường nghĩ. Để gọi tên Đấng mà tất cả mọi người xưng là Thiên Chúa, để chỉ định sự hiện diện rất gần gũi mà từ đó Người lãnh nhận tất cả mọi sự, hữu thể mà Người luôn luôn ý thức chỉ là một với Người, Đức Giê-su tự động dùng lại danh xưng mà Người âu yếm gọi thánh Giu-se : “Cha, Ba, Bố”. Và khi phải giải thích sự thật gây kinh ngạc này với Thiên Chúa của Ít-ra-en, Thiên Chúa mà Người đòi tiếp tục công trình sáng tạo, Đức Giê-su lại dùng những từ ngữ đơn giản nhất khi còn tập tành ở Na-da-rét, trong xưởng của bác thợ mộc Giu-se : “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc … vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy. Quả thật, Chúa Cha yêu người Con và cho người Con thấy mọi điều mình làm, lại sẽ còn cho người Con thấy những việc lớn lao hơn nữa, khiến chính các ông cũng phải kinh ngạc” (Ga 5,17-20). Chính nơi những từ ngữ thường ngày, những từ ngữ mà Người dùng để diễn tả cuộc đời Người, những mối liên hệ của Người, những tình cảm của Người, mà Đức Giê-su muốn nói đối với Người, Thiên Chúa là ai. Làm sao không tìm thấy trong tình cảm của cha mẹ Người những từ ngữ đúng đắn nhất để nói cho chúng ta biết mối liên hệ tuyệt đối duy nhất vốn vẫn hiện diện trong con tim Người : “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,30).