CHƯƠNG TRÌNH DƯỚI ÁNH SÁNG LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT 3
MÙA VỌNG NĂM B
BÀI 44:
GIO-AN TẨY GIẢ VÀ TRÀO LƯU KHỔ HẠNH TRONG CỰU ƯỚC
Lm. I-nha-xi-ô Hồ Văn Xuân, Tổng Đại Diện Gp. Sài Gòn
và Nhóm Phiên Dịch Các giờ kinh Phụng vụ
WGPSG (14.12.2023) – Một trong những gương mặt nổi bật trong Mùa Vọng là thánh Gio-an Tẩy Giả. Thánh nhân không chỉ là người loan báo và dọn đường cho Đấng Cứu Thế mà còn có một đời sống khắc khổ như dấu chỉ mãnh liệt của niềm mong đợi Đấng Mê-si-a. Cuộc sống khắc khổ ấy đã gợi hứng cho những trào lưu tu trì và đặc biệt là làm phát sinh, trong dòng lịch sử Giáo Hội, một số dòng tu với nếp sống khổ hạnh. Trong bài học hôm nay, chúng ta tìm hiểu xem thánh Gio-an Tẩy Giả là ai, và thánh nhân đã chịu ảnh hưởng lối sống nào hay trào lưu đạo đức nào trong Cựu Ước.
I. Gio-an Tẩy Giả là
ai ?
Trong Tin Mừng của Chúa nhật
thứ ba Mùa Vọng này, tác giả Tin Mừng thứ tư đã giới thiệu Gio-an Tẩy Giả như
sau : “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để
làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải
là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (Ga 1,6-8) ; còn
tác giả Mát-thêu thì mô tả : “Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng
bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (Mt 3,4).
Qua hai tác giả, chúng ta thấy
ngay thánh Gio-an Tẩy Giả là người của Thiên Chúa, và có một lối
sống khác thường, gây chú ý cho người đương thời. Thấm nhuần truyền thống
Do-thái giáo, nên khi dân chúng thấy lối ăn mặc và nếp sống khắc khổ của Gio-an
Tẩy Giả, thì liên tưởng đến ngôn sứ Ê-li-a hay một ngôn sứ nào đó (x. Ga 1,21).
Nhưng Gio-an Tẩy Giả khẳng định rằng ông chỉ là tiếng người hô trong
hoang địa, là kẻ dọn đường cho Đấng sẽ đến, mà bản thân ông không đáng
cúi xuống cởi quai dép cho Đấng ấy (x. Ga 1,23-27). Ông xuất hiện
như một bậc thầy có nhiều môn đệ mà tông đồ An-rê và có thể là cả Phi-líp-phê
đã từng là môn đệ của ông (x. Ga 1,35). Lời giảng hùng hồn của ông lay động
lòng người, khiến dân chúng lũ lượt kéo đến xin chịu phép rửa (x. Lc 3,3-7). Từ
những người thu thuế đến những quân nhân và kẻ tội lỗi ; Gio-an Tẩy Giả
không từ chối ai, nhưng ông đòi hỏi họ phải tích cực hoán cải và sinh hoa trái
trong đời sống, chứ đừng ỷ mình là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham (x. Mt 3,8-9). Sau
hết, Gio-an Tẩy Giả tuyên bố rằng phép rửa của ông chỉ là phép rửa giục lòng
sám hối, và mọi người còn phải chịu phép rửa trong Thánh Thần và lửa của Đấng sẽ
đến (x. Mt 3,11 ; Lc 3,16) …
Theo các sử gia, có một cộng
đoàn gọi là Ét-xê-nô ở gần Biển Chết có thói quen chịu phép rửa vào một vài dịp
lễ. Chịu phép rửa là được dìm xuống nước rồi đi lên. Gio-an Tẩy Giả đã làm như
thế, nên có thể ông xuất thân từ cộng đoàn Ét-xê-nô này.
II. Trào lưu khổ hạnh
trong Cựu Ước
Từ khổ hạnh có
xuất xứ từ tiếng Hy-lạp as-kê-tês (ἀσκητης), đôi
khi cũng dịch là khổ chế, nhưng hai từ đều có nghĩa là hãm
mình. Gốc của các từ này do động từ as-ke-ô (ἀσκεω) có nghĩa
là tập luyện, thực hành.
Nói đến trào lưu khổ hạnh thì
phải nói đến một cộng đoàn tu trì Ét-xê-nô mà có thể Gio-an Tẩy
Giả đã xuất thân từ đó. Danh xưng này có lẽ do từ Híp-ri e-sah (ʿēṣāh
- עֵצָה) có nghĩa
là phái hay cộng đoàn. Cũng
có thể bắt nguồn từ tiếng Hy-lạp ho-si-os (ὁσιος)
có nghĩa là sự thánh thiện, ở số nhiều nghĩa là những
người thánh thiện, đạo đức. Những người này tách ra khỏi quần chúng,
rút vào sa mạc để sống thành những cộng đoàn đạo đức. Vào năm 1947, nhờ khảo cổ
học, người ta tìm ra những hang động ở Qum-ran, phía tây bắc Biển
Chết, khám phá ra những bản văn, trong đó có bản “Quy luật cộng đoàn” liệt
kê chi tiết về nếp sống của cộng đoàn. Các học giả gọi đây là giáo phái
Do-thái khổ hạnh, phát triển mạnh mẽ ở Pa-lét-tin từ khoảng năm
140 tCN cho đến năm 68 CN, rồi bị quân đội
Rô-ma phá huỷ và phân tán. Nhờ những bản luật, người ta biết
được nếp sống cụ thể của cộng đoàn này với những điểm nổi bật sau đây :
Vâng phục người lãnh đạo, được gọi là “Người dạy lẽ phải” hay là “Thầy công
chính” ; sống triệt để tình huynh đệ, nêu cao đức tính khiêm nhường, chấp
nhận việc sửa lỗi huynh đệ. Phải chăng do ảnh hưởng luật này, Chúa Giê-su cũng
đưa ra nguyên tắc phải theo khi trong cộng đoàn có người anh em phạm lỗi
(x. Mt 18,15-17).
Hoạ đồ cộng đoàn Ét-xê-nô tại Qum-ran
“Lý tưởng của cộng đoàn là
nhắm tới sự hoàn hảo thánh thiện. Sự thánh thiện được đạt tới bằng sự thông hiệp
với thế giới thần linh (Thiên Chúa và các thiên sứ) ; sự hoàn hảo được diễn
tả qua việc tuân giữ nghiêm ngặt bản Luật. Vì thế cuộc đời của các thành viên
được đan dệt bởi sự cầu nguyện, lao động và học hỏi Lề Luật. Từ sáng sớm, họ đã
thức dậy để đọc kinh chung với nhau. Tiếp đó, mỗi người làm công tác được trao
phó ở trong cộng đoàn : làm bếp, làm bánh, làm vườn, đồ gốm, chép sách,
v.v... Đến 11 giờ trưa, họ tham dự một cuộc thanh tẩy (tắm rửa), rồi bữa ăn cộng
đoàn. Bữa ăn này mang tính cách phụng vụ : chỉ những phần tử cộng đoàn mới
được dự phần, và phải khoác phẩm phục. Dĩ nhiên là trước và sau bữa ăn đều hát
kinh chúc tụng và tạ ơn. Sau đó mỗi người trở về với công tác lao động cho đến
chiều tối. Sau bữa ăn là buổi canh thức kéo dài 3 tiếng rưỡi đồng hồ. Cộng đoàn
Qum-ran gồm những người độc thân, chuyên chăm nghiền ngẫm Lời Chúa” (x.
Phan Tấn Thành, Lịch Sử Các Hình Thức Tu Trì).
Trong Cựu Ước, trào lưu khổ hạnh
cũng được thể hiện nơi những người được gọi là na-dia, đó là
những người được thánh hiến cho Thiên Chúa, có khi việc thánh hiến được thực
thi từ khi còn trong bụng mẹ, như trường hợp ông Sam-sôn (x. Tl 13,5).
Từ na-dia (נָזׅיר) có nghĩa là dâng hiến, tách biệt
ra, thề hứa. Lời thề na-dia bao gồm việc kiêng
uống rượu, không được cắt tóc và không được đụng vào xác chết. Luật này áp dụng
cho tất cả những ai được thánh hiến cho Thiên Chúa, được gọi là Na-dia.
Tất cả luật về lời khấn na-dia được ghi đầy đủ trong
chương 6 sách Dân số : “Bất cứ ai, đàn ông hay đàn bà, đã khấn na-dia,
tức là khấn đặc biệt kiêng cữ để kính ĐỨC CHÚA, thì nó phải
kiêng rượu và men nồng ... Suốt thời gian nó bị ràng buộc bởi lời khấn, dao cạo
không được đụng đến đầu nó ; bao lâu chưa mãn thời kỳ khấn đặc biệt để
kính ĐỨC CHÚA, thì nó sẽ là người được thánh hiến : nó phải để cho tóc
trên đầu mọc tự nhiên. Suốt thời kỳ khấn đặc biệt để kính ĐỨC CHÚA, nó không được
tới gần xác chết. Dù là cha mẹ hay anh chị em nó chết, nó cũng không được để
cho mình nhiễm uế, bởi vì nó mang trên đầu lời khấn na-dia kính Thiên
Chúa (Ds 6,1-7).
Những kiêng cữ đối với lời khấn na-dia,
được coi là dấu hiệu bày tỏ ý muốn thuộc trọn về Thiên Chúa. Ngoài ông
Sam-sôn, Cựu Ước còn cho biết các nhân vật khác cũng có lời khấn na-dia như
ông Sa-mu-en (x. 1 Sm 1,11). Sau này, sang thời Tân Ước, Gio-an Tẩy Giả cũng được
thánh hiến từ trong lòng mẹ (x. Lc 1,15), và thánh Phao-lô cũng cho biết mình
cũng có lời khấn na-dia (x. Cv 18,18).
III. Khổ hạnh đối với mọi
Ki-tô hữu
Tìm hiểu về trào lưu khổ hạnh
cho chúng ta thấy tầm quan trọng của những hy sinh, hãm mình trong đời sống đức
tin. Không phải tất cả mọi Ki-tô hữu có thể thực hành được nếp sống khổ hạnh
như cộng đoàn Ét-xê-nô, hay những ngôn sứ, thủ lãnh thời Cựu Ước. Ngay cả các
dòng tu ngày nay cũng có nhiều cải tổ về đời sống khổ chế. Nhưng không có nghĩa
là Giáo Hội tạo cho chúng ta đời sống dễ dãi, chiều theo những sở thích vật chất.
Dù là một tín hữu sống giữa đời thường, nếu muốn trở nên môn đệ Đức Giê-su thì
cũng phải có tinh thần khổ hạnh qua những hy sinh hãm mình trong những việc rất
nhỏ của đời sống. Thánh Phao-lô đưa ra hình ảnh một vận động viên, muốn đoạt được
một giải thưởng chỉ có giá trị nhất thời, mà đã phải kiêng kỵ đủ điều ;
huống chi người Ki-tô hữu mong chiếm được phần thưởng vô giá và vĩnh cửu, thì lại
càng phải hy sinh hãm mình đến thế nào (x. 1 Cr 8,25-27). Thánh Phê-rô cũng kêu
gọi các tín hữu phải sống tiết độ thì mới cầu nguyện được (x. 1 Pr 4,7).
Mỗi Mùa Vọng, Giáo Hội lại
cho chúng ta gặp gỡ dung mạo của thánh Gio-an Tẩy Giả, là để nhắc nhở chúng ta
chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đến bằng những nỗ lực sửa đổi đời sống, thực hành khổ
chế là những hy sinh hãm mình theo từng hoàn cảnh của mỗi bậc sống, được như thế
chúng ta sẽ xứng đáng hơn để đón mừng Con Chúa giáng trần.
Chúng ta cùng cầu nguyện bằng
Thánh vịnh 25 để kết thúc bài học hôm nay :
Lạy CHÚA, đường nẻo Ngài,
xin dạy cho con biết,
lối đi của Ngài, xin chỉ bảo
con.
Xin dẫn con đi theo đường
chân lý của Ngài
và bảo ban dạy dỗ,
vì chính Ngài là Thiên
Chúa cứu độ con.
Sớm hôm con những cậy
trông Ngài,
bởi vì Ngài nhân ái.
Lạy CHÚA, xin nhớ lại
nghĩa nặng với ân sâu,
Ngài đã từng biểu lộ từ
muôn thuở muôn đời.
Tuổi xuân trót dại bao lầm
lỗi,
xin Ngài đừng nhớ đến,
nhưng xin lấy tình thương
mà nhớ đến con cùng.
CHÚA là Đấng nhân từ
chính trực,
chỉ lối cho tội nhân,
dẫn kẻ nghèo hèn đi theo
đường công chính,
dạy cho biết đường lối của
Người.
Tất cả đường lối CHÚA
đều là yêu thương và thành
tín
đối với những kẻ nào giữ
giao ước và lề luật Chúa.
Lạy CHÚA, tội con thật nặng
nề, vì danh Ngài,
xin lượng thứ cho
con. A-men.
Nguồn: tgpsaigon.net