A. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

Bài đọc 1: Is 35,1-6a.10

Đáp ca     Tv 145,6b-7a.7b-8.9-10 (Đ. x. Is 35,4)

Bài đọc 2 : Gc 5,7-10

Tin Mừng Mt 11,2-11

B. CHIA SẺ LỜI CHÚA

Bài đọc 1 : Is 35,1-6a.10

Đáp ca : Tv 145

Bài đọc 2 : Gc 5,7-10

Bài Tin Mừng : Mt 11,2-11

C. BÀI ĐỌC THÊM

1. “Những dấu chỉ của sự hiện diện Nước Thiên Chúa không có ly kỳ”

2. “Mở mắt, mở tai … tâm hồn”

3. “Phép lạ, dấu chỉ ơn cứu độ của Thiên Chúa cho con người”

A. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

Bài đọc 1: Is 35,1-6a.10

Chính Thiên Chúa sẽ đến cứu anh em.

Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.

1 Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông, 2 hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò. Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng, vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron. Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa, và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta. 3 Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng. 4 Hãy nói với những kẻ nhát gan : “Can đảm lên, đừng sợ ! Thiên Chúa của anh em đây rồi ; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em.” 5 Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. 6a Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. 10 Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về, tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất. Đó là lời Chúa.

Đáp ca     Tv 145,6b-7a.7b-8.9-10 (Đ. x. Is 35,4)

Đ. Lạy Chúa, xin đến cứu chúng con.

Hoặc:

Đ. Ha-lê-lui-a.

6b Chúa là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời,
7a xử công minh cho người bị áp bức,

ban lương thực cho kẻ đói ăn.Đ.

7b Chúa giải phóng những ai tù tội,
8 Chúa mở mắt cho kẻ mù loà.

Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên,

Chúa yêu chuộng những người công chính. Đ.

9 Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ,
nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân.

10 Chúa nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở,

Xi-on hỡi, Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời. Đ.

Bài đọc 2 : Gc 5,7-10

Anh em hãy bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới.

Bài trích thư của thánh Gia-cô-bê tông đồ.

7 Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá : họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. 8 Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới. 9 Thưa anh em, anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. 10 Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa.

Đó là lời Chúa.

Tung hô Tin Mừng         Is 61,1 (x. Lc 4,18)

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Thần Khí Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Ha-lê-lui-a.

Tin Mừng Mt 11,2-11

Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.

2 Đang ngồi tù, ông Gio-an nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng : 3 “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?” 
4 Đức Giê-su trả lời : “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe : 5 Người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, 6 và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”

7 Họ đi rồi, Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về ông Gio-an rằng : “Anh em ra xem gì trong hoang địa ? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng ? 8 Thế thì anh em ra xem gì ? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng ? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. 9 Thế thì anh em ra xem gì ? Một vị ngôn sứ chăng ? Đúng thế đó ; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. 10 Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng : Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.

11 “Tôi nói thật với anh em : Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.”

Đó là lời Chúa.

B. CHIA SẺ LỜI CHÚA

1. Bài đọc 1 : Is 35,1-6a.10

1. Chúng ta bắt đầu với một từ khó hiểu của bài đọc 1 hôm nay : Giữa những lời hứa tuyệt vời, ngôn sứ I-sai-a lại đề cập đến sự báo phục của Thiên Chúa : “sắp tới ngày báo phục”. Đây là dịp rất thuận tiện để tất cả chúng ta khám phá ra ý nghĩa của từ “báo phục” trong Kinh Thánh, vì ngôn sứ I-sai-a giải thích rất rõ ràng. Ngôn sứ I-sai-a rao giảng vào thế kỷ VI trước Công nguyên, vào thời dân Ít-ra-en đang sống kiếp lưu đày ở Ba-by-lon : Vào thời kỳ đó, có những người tuyệt vọng nên ngôn sứ I-sai-a kêu gọi : “Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng. Hãy nói với những kẻ nhát gan : ‘Can đảm lên, đừng sợ ! Thiên Chúa của anh em đây rồi ; sắp tới ngày báo phục.’” Và vị ngôn sứ cho biết ngay ngày báo phục là ngày gì : “Chính Người sẽ đến cứu anh em”, và ngôn sứ I-sai-a tiếp tục : “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.”

2. Điều đó muốn nói rằng vào lúc bản văn hôm nay được viết ra, kiểu nói “sự báo phục của Thiên Chúa” là một lời hứa ban ơn cứu độ. Vì thế, từ này mang một ý nghĩa hết sức tích cực. Trong bài đọc 1 chúng ta vừa nghe, Thiên Chúa không hề muốn báo thù con người, không hề muốn trả đũa con người, nhưng Thiên Chúa chống lại cái ác, sự dữ đang làm khổ con người, dìm con người trong bể khổ ; sự trả đũa của Thiên Chúa có chăng, chỉ là tiêu diệt cái ác, xoá đi sự dữ đang hành hạ con người, như ngôn sứ I-sai-a đã nói : “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về.” Ta có thể nói dù chúng ta đang chịu đau khổ thể xác hoặc tinh thần như thế nào, Thiên Chúa là Cha hay thương xót cũng sẽ giải thoát chúng ta, phục hồi chúng ta.

Nhưng phải nói rằng không phải lúc nào chúng ta cũng nghĩ như vậy ! Bản văn hôm nay của ngôn sứ I-sai-a được viết khá muộn trong lịch sử Kinh Thánh (thế kỷ VI trước Công nguyên) ; phải trải qua một quá trình mặc khải lâu dài, dân Ít-ra-en mới hiểu được điều đó, vì trong thời kỳ đầu của lịch sử Ít-ra-en, người ta nghĩ đến một vị Thiên Chúa giống hình ảnh con người, nghĩa là một Thiên Chúa cũng báo thù như con người.

Rồi dần dần nhờ mặc khải, nhờ lời rao giảng của các ngôn sứ, người ta bắt đầu khám phá Thiên Chúa đúng như bản tính của Người, chứ không phải như người ta tưởng tượng ra. Lúc bấy giờ, từ “báo phục” đã hoàn toàn thay đổi ý nghĩa.

3. Một cách rất cụ thể, khi ngôn sứ I-sai-a viết bản văn Chúa nhật hôm nay, ơn cứu độ mà những người đương thời với ông đang mong đợi, là được trở về quê cha đất tổ sau thời gian lưu đày đau khổ và nhục nhã ở Ba-by-lon ; họ đã chứng kiến sự tàn ác do đạo quân của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo gây ra tại Giê-ru-sa-lem ; và bây giờ, cuộc lưu đày đã chấm dứt ! Năm mươi năm sống trong tuyệt vọng. Do đó không phải ngẫu nhiên mà ngôn sứ I-sai-a nói: “Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng. Hãy nói với những kẻ nhát gan: ‘Can đảm lên, đừng sợ !’” Trong năm mươi năm lưu đày, dân Ít-ra-en mơ có ngày trở về cố hương nhưng không dám tin là sẽ xảy ra. Và ngôn sứ I-sai-a thốt lên: “chẳng bao lâu nữa, chính Thiên Chúa sẽ đến cứu anh em” “những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về, tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo”.

Để trở về quê hương xứ sở, dân Ít-ra-en phải vượt qua sa mạc Ả-rập ; ngôn sứ I-sai-a mô tả cuộc vượt qua sa mạc này như một cuộc diễu hành chiến thắng, một cuộc rước vĩ đại : “Sa mạc và đồng khô cỏ cháy sẽ vui mừng, vùng đất hoang mừng rỡ trổ bông, khóm huệ tưng bừng nở hoa và hân hoan nhảy múa reo hò. Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng, vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron.” Đó là công trình của Thiên Chúa : “Chính Người sẽ đến cứu anh em.” Công trình cứu độ này ngôn sứ I-sai-a gọi là “vinh quang của Thiên Chúa”. Ngôn sứ nói : “Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa, và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta.” Rồi ngôn sứ I-sai-a tiếp tục : “Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về.” Ngôn sứ I-sai-a dùng từ “giải thoát” để áp dụng cho chính Thiên Chúa giúp ta hiểu hai điều : thứ nhất, Thiên Chúa là Đấng gần gũi nhất với chúng ta ; thứ hai là Thiên Chúa muốn giải thoát mọi người chúng ta khỏi xiềng xích của sự dữ, cách riêng là tội lỗi.

2. Đáp ca : Tv 145

1. Thánh vịnh 145 là một lời ca tụng và biết ơn Đức Chúa. Thánh vịnh 145 được sáng tác sau thời lưu đày ở Ba-by-lon, có lẽ cho việc cung hiến Đền Thờ Giê-ru-sa-lem đã được tái thiết. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem bị đạo quân Ba-by-lon của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo phá huỷ vào năm 587 trước Công nguyên. Năm mươi năm sau, vào năm 538 trước Công nguyên, khi vua Ky-rô của nước Ba-tư, chinh phục Ba-by-lon, ông cho phép dân Ít-ra-en đang sống kiếp lưu đày ở Ba-by-lon, được trở về quê cha đất tổ và được phép tái thiết Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, dù gặp rất nhiều khó khăn do những người còn ở lại Giê-ru-sa-lem chống đối dữ dội. Nhưng lễ cung hiến Đền Thờ đem lại niềm vui và phấn khởi cho toàn dân Ít-ra-en, như sách Ét-ra kể lại : “Con cái Ít-ra-en, các tư tế, các thầy Lê-vi và những người lưu đày trở về, hân hoan cử hành lễ khánh thành” (Et 6,16). Như vậy thánh vịnh này thấm đẫm niềm vui trở về xứ sở. Một lần nữa, Thiên Chúa chứng tỏ lòng trung tín của Người đối với Giao ước : Người đã chứng tỏ điều đó vào thời Xuất hành khi dân Ít-ra-en đi ra khỏi Ai-cập, và bây giờ, với việc ra khỏi Ba-by-lon, Đức Chúa hồi sinh dân riêng của Người. Người đã báo phục, như ngôn sứ I-sai-a đã nói trong bài đọc 1, nghĩa là Đức Chúa đã ban cho dân Ít-ra-en ơn cứu độ. Khi đọc lại lịch sử dân tộc của mình, dân Ít-ra-en có thể chứng minh Thiên Chúa luôn đồng hành với họ trong suốt chiều dài lịch sử của họ : “Chúa xử công minh cho người bị áp bức. Chúa giải thoát những ai tù tội.” Trong hành trình qua sa mạc, sau cuộc Xuất hành, Đức Chúa đã gửi man-na và chim cút cho dân làm thức ăn : “Chúa ban lương thực cho kẻ đói ăn.” Như vậy, dần dần, người ta khám phá ra rằng “Đức Chúa giải thoát những ai tù tội và chữa lành những kẻ mù loà, cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên.”

2. Đây không phải là ý tưởng ta tưởng tượng ra về Đấng tạo dựng vũ trụ càn khôn, nhưng là mặc khải của toàn bộ Kinh Thánh. Dân Ít-ra-en lấy làm vinh dự và hãnh diện vì được hân hạnh báo cho nhân loại biết về Thiên Chúa tình yêu và giàu lòng thương xót. Đến lượt mình, dân Ít-ra-en được mời gọi bắt chước Thiên Chúa xử sự đầy lòng thương xót với những ai đang gặp thử thách gian truân. Để có thể giáo dục dân Ít-ra-en dần dần sống lòng thương xót của Đức Chúa, luật của Ít-ra-en có những quy định bảo vệ cô nhi quả phụ, khách ngoại kiều. Đối với các ngôn sứ, đó là những tiêu chuẩn đánh giá xem dân Ít-ra-en có trung thành tuân giữ Giao ước hay không.

3. Chắc chắn người Ki-tô hữu chúng ta đọc lại thánh vịnh này khi áp dụng cho Đức Giê-su Ki-tô. Không chỉ Người làm phép lạ hoá bánh ra nhiều nuôi sống những người đương thời của Người, mà từ nay về sau, Người hiến dâng cho các thế hệ những người đã được lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy Bánh Thánh Thể, nghĩa là Mình Máu Thánh Người ; chính Người cũng đã xác nhận : “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Cuối cùng, chính nơi Người mà nhân loại đạt được tự do toàn vẹn và được sống dồi dào : sự phục sinh của Người là bằng chứng về cái chết thể lý không thể trói buộc những người đã được lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy : “Chúa giải thoát những ai tù tội.” Một điểm cuối cùng của thánh vịnh hôm nay : Kinh Thánh quả quyết chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Vậy ta giống hình ảnh Thiên Chúa như thế nào ? Ở đây, ta có một câu trả lời và một lời động viên, khuyến khích.

- Câu trả lời là mỗi khi chúng ta giúp đỡ một người nghèo khổ, bất hạnh, người mù, người điếc câm, tù tội, ngoại kiều, chúng ta giống hình ảnh Thiên Chúa.

- Lời động viên : Mỗi khi ta làm một việc gì đó cho những người bé mọn nhất trong chúng ta, là ta làm cho Nước Trời sớm hiện diện giữa trần gian. Có một câu hỏi của người dự tòng khi nghe việc Chúa Giê-su làm phép lạ hoá bánh ra nhiều nuôi sống nhiều ngàn người. Người đó hỏi tại sao ngày hôm nay Chúa Giê-su không làm phép lạ để nuôi sống những người đang đói trên thế giới ? Sau một lúc im lặng, chị thì thầm : “Có lẽ Người giao cho chúng ta làm việc đó.”

3. Bài đọc 2 : Gc 5,7-10

1. Tác giả thư này là thánh Gia-cô-bê, người anh em của Chúa, đứng đầu cộng đoàn tiên khởi ở Giê-ru-sa-lem mà sách Công vụ Tông Đồ nhiều lần nói đến.

Chúng ta tìm thấy trong bức thư này chủ đề rất quen thuộc đối với các thế hệ Ki-tô hữu đầu tiên, đó là chủ đề Chúa quang lâm, nghĩa là Chúa Giê-su Ki-tô ngự đến lần thứ hai trong vinh quang, phán xét nhân loại vào ngày cánh chung. Ta cần lưu ý rằng ngay từ lời rao giảng tiên khởi của Ki-tô giáo, người ta rất mong thấy ngày tận thế. Phải chăng việc Đức Ki-tô phục sinh khiến mọi người sốt ruột ? Nhưng trong khi chờ đợi ngày đó, thánh Gia-cô-bê khuyên mọi Ki-tô hữu nên kiên nhẫn. Chỉ trong vài hàng, ngài nhấn mạnh đến bốn lần ; ta có thể thấy kiên nhẫn đi đôi với hy vọng: “Trong khi chờ đợi ngày Chúa đến, anh em hãy kiên nhẫn” : hy vọng vì chắc chắn Chúa sẽ đến, do đó tỉnh thức là việc cần phải làm. Ngay từ đầu, sau khi Đức Ki-tô phục sinh và lên trời, người ta tưởng rằng Chúa sắp quang lâm, nghĩa là ngự đến lần thứ hai trong vinh quang, nhưng rồi nhiều năm trôi qua, việc đó vẫn chưa thấy xảy ra. Vì thế, niềm hy vọng đòi hỏi phải kiên nhẫn. Để minh hoạ cho lời mời gọi của mình, thánh Gia-cô-bê đưa ra hai kiểu mẫu Ki-tô hữu : sự khôn ngoan của người nông dân, lòng can đảm của vị ngôn sứ. Từ năm này sang năm khác, người nông dân biết mùa màng sẽ diễn tiến như thế nào, họ biết rằng : “Thiên Chúa sẽ ban mưa cho đất các ngươi đúng mùa” như sách Đệ nhị luật đã nói (Đnl 11,14).

Đối với các ngôn sứ, các ngài phải đương đầu với sự thù địch của những người mà các ngài công bố ơn cứu độ của họ. Tất cả các ngài phải học cách biết vững vàng và kiên trì thì mới có thể hoàn thành sứ mạng của mình. Cộng đoàn tín hữu của thánh Gia-cô-bê cũng có sứ vụ làm ngôn sứ, nên họ cần phải kiên trì, đứng vững trước mọi thử thách để làm tròn nhiệm vụ đã được giao ; họ cần có một sức khoẻ dẻo dai, một con tim sắt son. Thánh Gia-cô-bê nhắc lại : “Anh em hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí.”

2. Trong câu tiếp theo của thư Gia-cô-bê mà bài đọc 2 hôm nay không ghi ra, thánh Gia-cô-bê kể về lòng kiên trì chịu đựng trong Cựu Ước : đó là trường hợp của ông Gióp ; đây là trường hợp độc nhất Tân Ước đề cập đến ông Gióp, một nhân vật đáng cho ta bắt chước, noi gương. “Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá … Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới.” Anh em đã nghe nói đến lòng kiên trì của ông Gióp và đã thấy mục đích của Chúa nhắm : vì Chúa là Đấng từ bi nhân hậu ; hiểu ngầm là nếu anh em cũng kiên nhẫn như ông Gióp, bền tâm vững chí trong niềm hy vọng, anh em cũng sẽ gặp Chúa như ông Gióp đã gặp.

Cụ thể, trong mối tương giao thường ngày, người Ki-tô hữu phải hoàn thành sứ mạng ngôn sứ của mình : “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Thánh Gia-cô-bê cũng nói tương tự : “Anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử.” Như thế, chúng ta nhớ lại một lời nói của Chúa Giê-su : “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán” (Mt 7,1), có nghĩa chỉ một mình Thiên Chúa là Thẩm Phán. Thánh Gia-cô-bê sử dụng kiểu nói : “Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa” : Trước hết, đó là một hình ảnh, vì ngày xưa, các thẩm phán thường ngồi ở cửa ra vào của thành phố, chứ không phải ở bên trong thành phố. Tiếp đến, việc đó muốn nói đến hai điều : thứ nhất, việc Chúa đến sẽ là giờ phán xét, hiểu ngầm là “anh em đang sống trong viễn cảnh này”, và nơi đó ta lại tìm thấy nhiều chủ đề mà các ngôn sứ rao giảng, cách riêng là của ông Gio-an Tẩy Giả ; thứ hai, Vị Thẩm Phán không phải là anh em, nhưng là chính Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can con người chứ không chỉ nhìn thấy bề ngoài mà thôi, người thợ gặt đích thực không hề vội vã, vì nếu gom quá sớm cỏ lùng, sẽ làm bật luôn rễ lúa. “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, thợ gặt sẽ gom cỏ lùng lại bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì thu vào kho lẫm” (Mt 13,29). Bài học nào dành cho chúng ta, đó là kiên nhẫn và bền chí trong cuộc lữ hành trần thế này, và đừng bao giờ ngồi ghế thẩm phán cả, vì chúng ta không có quyền xét đoán anh chị em mình.

4. Bài Tin Mừng : Mt 11,2-11

Chúng ta cùng tìm hiểu ba điểm :

1. Một cuộc đối thoại lạ lùng

Tin Mừng Chúa nhật tuần trước kể lại cho chúng ta thời gian đầu sứ vụ của ông Gio-an Tiền Hô, Gio-an Tẩy Giả. Ông loan báo : “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần. Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi.” Còn bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay kể lại cho chúng ta nghe một cuộc đối thoại thật lạ lùng giữa ông Gio-an đang ở trong tù và Đức Giê-su qua trung gian các môn đệ của ông Gio-an.

2. Câu hỏi của một ngôn sứ đang hoang mang

Trong bài Tin Mừng Chúa nhật tuần trước, chúng ta thấy ông Gio-an không ngừng loan báo việc Đấng Cứu Thế sẽ đến, “sức mạnh của Người giáng xuống như sấm sét”. Tuy nhiên, thái độ của Đức Giê-su lại không phù hợp với lời khuyên bảo nghiêm khắc của ông Gio-an. Đức Giê-su không hề có ý định tiêu diệt những kẻ tội lỗi, Người đi từ làng nọ đến làng kia, mở rộng đôi tay đón nhận tất cả những cảnh khốn khó cùng quẫn của con người, chữa lành bệnh nhân, tha thứ tội lỗi, kêu gọi Lê-vi – một người thu thuế bước theo Người, đồng bàn với những người tội lỗi. Khác xa với vị quan toà đáng sợ mà ông Gio-an đã loan báo, Đức Giê-su xuất hiện như người tôi tớ của Thiên Chúa, “Người sẽ không cãi vã, không kêu to, chẳng ai nghe thấy Người lên tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi.” Như vậy, ở đây ông Gio-an phải đương đầu với một chướng ngại có thể làm ông vấp ngã. Đó là một Đấng Cứu Thế tôi tớ, khiêm nhường và đau khổ, khác xa với Đấng mà ông đã loan báo. Đó là một thử thách đức tin đối với ông, vì ông đang chờ đợi một sự biểu lộ đức công bằng, thì ông lại gặp lòng thương xót của Thiên Chúa. Vì thế, từ trong ngục tù ở pháo đài Machéronte, ông Gio-an hoang mang khi nghe người ta báo cho ông biết về hoạt động của Đức Giê-su, nên đã sai các môn đệ đến hỏi Đức Giê-su : “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?”

3. Câu trả lời gây hoang mang của Đấng Cứu Thế

Câu trả lời của Đức Giê-su gồm hai phần : Phần thứ nhất là nói với ông Gio-an, còn phần thứ hai là nói về ông Gio-an.

a. Đức Giê-su gửi một sứ điệp cho những người được ông Gio-an sai đến : “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe : người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.” Một sứ điệp diễn tả những hoạt động từ thiện mà Đức Giê-su ưu ái dành cho đám đông theo Người. Một sứ điệp thật sự đưa ông Gio-an về với lời loan báo của ngôn sứ I-sai-a : “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.” “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Người sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó.” Sau cùng, Đức Giê-su nói với ông Gio-an : “Phúc thay cho người nào không vấp ngã vì tôi.”

b. Sau khi các môn đệ của ông Gio-an ra về, Đức Giê-su đối chiếu sứ vụ của ông Gio-an với sứ vụ của Người, và Người đã khen ngợi ông Gio-an Tẩy Giả. Nên dân chúng đến với ông Gio-an :

- Không phải để xem “một cây sậy phất phơ trước gió” trên bờ sông Gio-đan, một con người nhu nhược, ngả nghiêng trước gió, nhưng ông Gio-an là một con người can đảm trong việc rao giảng, không hề nao núng trong nghịch cảnh.

- Cũng không phải đi xem “một người mặc gấm vóc lụa là”, nhưng là một nhà khổ hạnh của hoang địa, mặc y phục như ngôn sứ Ê-li-a, vị ngôn sứ được người Ít-ra-en mong đợi sau hết, kẻ phải đến trước Đấng Cứu Thế.

- Nhưng chính là để đi đến với “một vị ngôn sứ”, và Đức Giê-su khẳng định “còn hơn cả vị ngôn sứ nữa”. Ông là vị sứ giả cuối cùng, được ngôn sứ Ma-la-khi cho biết là kẻ dọn đường, là vị tiền hô của Đấng Cứu Thế.

Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giê-su, trong Tin Mừng Gio-an, Chúa đã nói với tất cả chúng con : “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này, là anh em có lòng yêu thương nhau.” Xin Chúa ban ơn trợ giúp để mỗi người chúng con trong cuộc sống đức tin thường ngày, nỗ lực sống trọn vẹn đức bác ái yêu thương mà Chúa đã dạy và làm gương cho chúng con, nhờ đó chúng con trở nên những nhân chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu là Cha giàu lòng thương xót. A-men.

Tự vấn :

Chúa Giê-su mời gọi tất cả chúng ta : “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán.” Trong tương giao hằng ngày giữa con người với nhau, chúng ta sống lời Chúa dạy như thế nào ?

C. BÀI ĐỌC THÊM

1. “Những dấu chỉ của sự hiện diện Nước Thiên Chúa không có ly kỳ”

(F. Deleclos, trong “Prends et mange la Parole”, Centurion-Doculot, tr. 10).

Người ta chờ đợi một người làm sáng tỏ công lý không biết thương xót và ở đây lại là một vị thuyên chữa thân xác, một lương y của các tâm hồn. Người ta đã loan báo sự báo phục của Thiên Chúa, thế mà ở đây lại là lòng thương xót được trao ban với sự dịu hiền và khiêm nhường. Một nhà giải phóng kỳ lạ và rất khác biệt với dung mạo được tiên báo ! ... “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?”

Đấng tiền hô sẽ thoả mãn với những dấu chỉ và bằng chứng. Thế nhưng ở đây, không phải là vinh quang rực rỡ, cũng không phải là sự báo phục thẳng tay. Cũng không là một lời giải đáp cho những hy vọng chính trị, tôn giáo, ái quốc của một số đông. Đấng Cứu Thế đang ở đó, sự giải phóng đã bắt đầu. Nước Thiên Chúa đã khai mào, một cách khác, thình lình và không ngờ. Đức Ki-tô thật sự không đáp ứng dễ dàng những tiêu chuẩn tự nhiên, những cái nhìn quá chật hẹp và quá khô cứng bởi những lợi lộc vật chất trần tục của chúng ta.

Nếu ông Gio-an đã có thể hồ nghi, điều này cũng dễ hiểu, thì những người khác đã hiểu ngay tức khắc, dù Thiên Chúa thinh lặng : những người được chữa lành, những người được thanh tẩy, những người được biến đổi và đám đông những người nghèo hèn này sau cùng được nhìn với sự yêu thương, được xem như là những con người được hoàn toàn ưu ái, con cái của vương quốc, những người thừa kế thật sự. Có thể là họ không biết tất cả những sắc thái của các lời tiên tri, không biết đến cả ngàn thứ quy định của Lề Luật, dù là thuộc về giáo thuyết, Phụng vụ hay luân lý. Họ không có kiến thức khoa học, không quyền bính, không tiền bạc và không cả sự kính trọng. Phúc cho “những con người bé nhỏ này”, nghèo túng rất nhiều thứ, nhưng lại giàu sự hiểu biết của con tim. Họ hiểu biết mà không xét nét, và đã trở nên bằng chứng sống động của sự thâm nhập của một thế giới khác, những nhân chứng đầu tiên, còn lớn hơn cả Đấng tiền hô nữa.

Những dấu chỉ sự hiện diện của Nước Thiên Chúa và của Đấng Cứu Tinh không có gì là ly kỳ cả. Trái lại, kín đáo và ẩn giấu trong khối bột của đời sống thường ngày, chúng dễ dàng lướt qua, không ai để ý.

Những bằng chứng về tính đích thực không bị đông cứng lại trong những tuyên bố những nguyên tắc, những đe doạ và những vạ tuyệt thông ầm ĩ, cũng không có trong sự rõ ràng của những tín điều được công bố. Chính Đức Giê-su từ chối trả lời cho Đấng tiền hô qua việc giới thiệu những danh hiệu của Người, cho những thái độ khiêu khích gây kinh ngạc, đụng chạm và chia rẽ của Người.

Những bằng chứng ư ? Những cử chỉ yêu thương và tha thứ, bằng chứng của một tinh thần rộng mở và luôn luôn niềm nở, một trái tim không biên giới, một sự hoàn toàn kính trọng tất cả mọi người, một sự say mê chân lý và công bằng, một sự trung thành không ngừng bênh vực quyền lợi của Thiên Chúa và của con người. Thiên Chúa và con người không thể tách rời nhau.

2. “Mở mắt, mở tai … tâm hồn”

(Mgr. L. Daloz, trong “Le Règne de Dieu s’est approché”, Desclée de Brouwer, 1994, tr. 160).

“Tìm kiếm sự phi thường, kỳ diệu luôn luôn là một cám dỗ ; còn tế nhị hơn nữa, tìm kiếm sự thành công, sự kính trọng, lòng khao khát lôi cuốn sự chú ý, thủ đắc uy tín xã hội cho chúng ta hay cho Giáo Hội. Chúng ta muốn gây một ấn tượng tốt, nếu có thể gây nên cảm giác, muốn giới thiệu những dấu chỉ như là những thư giới thiệu. Thế nhưng, những dấu chỉ đích thực của Đấng Thiên Sai lại chiếu cố đến những người bé mọn, những người bệnh tật, những người nghèo. Vì thế, dấu chỉ của ơn cứu độ thường được giấu kín, không hiểu thấu được. Để có thể thấy được, phải tìm kiếm, phải chú ý, lắng nghe và nhìn xem : “Hãy đi báo cho Gio-an những gì anh em nghe và thấy.” Đang ở trong tù, ông Gio-an vẫn theo dõi những gì người ta nói về Đức Giê-su : ông sai các môn đệ đến với Đức Giê-su để phỏng vấn Người … Cũng phải mở rộng con tim để hiểu : “Phúc cho ai không vấp ngã vì tôi.” Chính những dấu chỉ phải đương đầu với sự mâu thuẫn … Quả thật người ta có thể bỏ qua, quả thật người ta có thể thấy chúng “không có gì đáng kể”, hay người ta có thể lầm lạc khi tìm kiếm những việc phi thường. Để nhận ra Đức Ki-tô, phải mở mắt, mở tai … và mở con tim nữa.”

3. “Phép lạ, dấu chỉ ơn cứu độ của Thiên Chúa cho con người”

(A. Marchadour, “Les Evangiles au feu de la critique”, Bayard Editions, Centurion, tr. 121-122).

“Không được cô lập phép lạ ra khỏi toàn bộ Tin Mừng. Đó là phần chính yếu của sứ mạng Đức Giê-su. Có nghĩa là, ơn cứu độ do Đức Giê-su đem đến không phải chỉ là Tin Mừng suông, một sự hiểu biết giúp thoát khỏi sự tối tăm ngu dốt, và truyền đạt một kiến thức mới về Thiên Chúa ; nhưng đó cũng là một sự giải phóng thân xác, một sự khôi phục toàn diện cho những người què quặt, cho những người sống bên lề, cho những người bị đánh mất chính mình (bị ám ảnh bởi một người khác), cho những người bị loại trừ ra khỏi xã hội. Phép lạ tượng trưng cho một chương trình cứu độ, chịu trách nhiệm về những thực tại thân xác, vật lý, thiêng liêng và xã hội của con người. Phép lạ luôn luôn xuất hiện như một sự phản kháng, chống lại một trạng thái nào đó của những sự vật, một sự từ chối chống lại tai ương, dù là sinh vật học, thiên nhiên hay xã hội. Người có ơn đoàn sủng là người vượt qua những ranh giới và giúp cho người khác vượt qua những ranh giới đó. Có thể chúng ta chạm ngón tay vào một nét lớn của phép lạ, là phải nắm giữ lại khi chúng ta tự hỏi về tính thời sự của phép lạ. Ngày nay, chúng ta ít thấy những phép lạ thuộc loại sinh vật học ; tuy nhiên, phải tự hỏi về những vươn lên, những vượt qua các giới hạn mà chúng ta được mời gọi. Phép lạ giả thuyết hai người nghèo túng : Người thứ nhất là Đức Giê-su, ‘Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em’ (2 Cr 8,9). Người thứ hai là người đón nhận dấu chỉ của Đức Giê-su, là người khốn quẫn đến nỗi đã để cho sức mạnh của Đức Giê-su hành động trên chính mình và qua chính mình.”