CHƯƠNG TRÌNH DƯỚI ÁNH SÁNG LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN NĂM A
BÀI 32: GIỜ THỨ
BA, GIỜ THỨ SÁU,... GIỜ THỨ MƯỜI MỘT THỜI KHẮC TRONG KINH THÁNH
Lm.
Gioan Nguyễn Thiên Minh, OP
và Nhóm Phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng
WGPSG
(20.09.2023) – Tin
Mừng Chúa nhật 25 Thường niên, năm A sắp tới, Đức Giê-su kể dụ ngôn những người
thợ làm vườn nho, được ông chủ mướn vào các thời khắc khác nhau trong ngày: từ
tảng sáng, đến giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ chín, và cả giờ thứ mười một nữa.
Cách
tính thời gian trong dụ ngôn này có giống như chúng ta ngày nay không? Chúng ta
sẽ tìm câu trả lời trong bài học hỏi hôm nay về niên lịch và các thời khắc theo
cách tính thời gian của người Do-thái cũng như được Kinh Thánh nói đến.
Người
Ít-ra-en xưa dùng hai loại niên lịch là Lịch dân sự và Lịch
đạo, tương tự như Ki-tô giáo chúng ta dùng Dương lịch và Lịch phụng vụ vậy.
Niên lịch dân sự bắt đầu năm mới vào khoảng tháng 9-10 dương lịch trong khi Lịch
đạo lại khởi đầu năm mới vào khoảng tháng 3-4 dương lịch. Như vậy hai loại lịch
này chênh nhau đến sáu tháng.
1. Tháng
Lịch
Do-thái cũng có 12 tháng theo chu kỳ của mặt trăng. Mỗi tháng bắt đầu vào
ngày trăng mới, tức là ngày mồng một của tháng.
Tháng đầu tiên theo lịch đạo Do-thái là tháng Ni-xan, cũng gọi
là tháng A-víp, rơi vào khoảng thời gian tháng 3-4 dương lịch. Vì lễ
Vượt Qua của người Do-thái cử hành vào ngày 14 tháng Ni-xan nên
chúng ta cũng mừng lễ Phục sinh vào khoảng thời gian tháng 3-4 dương lịch.
Sách
Xuất hành ghi lại chỉ thị của Chúa về việc cử hành lễ Vượt Qua như sau :
“Tháng này, các ngươi phải kể là tháng đứng đầu các
tháng, tháng thứ nhất trong năm. Hãy nói với toàn thể cộng đồng
Ít-ra-en : Mồng mười tháng này, ai nấy phải bắt một con chiên cho gia đình
mình, mỗi nhà một con […] Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này,
rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu
bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng
lên, ăn với bánh không men và rau đắng” (Xh 12,2-8).
Tuy
nhiên, lịch dân sự Do-thái lại bắt đầu năm mới với tháng
Tít-ri, cũng gọi là tháng Ê-tha-nim, tức là tháng thứ bảy của lịch
Do-thái giáo (x. 1 V 8,2), tương đương với tháng 9-10 dương lịch. Sách Lê-vi
còn ghi lại việc mừng lễ đầu năm mới vào tháng này : “Hãy nói với con cái
Ít-ra-en và bảo chúng : Tháng thứ bảy, ngày mồng một, đối với các ngươi sẽ là một
ngày nghỉ, một ngày tưởng niệm giữa tiếng reo hò, và họp nhau để thờ phượng Ta”
(Lv 23,24). Ngày lễ này được gọi là Rốt Ha-sa-na (רֹאשׁ הַשָּׁנָה) nghĩa là Đầu Năm hay cũng gọi là Ngày
Reo Hò (x. Ds 29,1)
Tháng cuối cùng (tháng 12) của lịch Do-thái giáo là tháng A-đa,
rơi vào khoảng tháng 2-3 dương lịch, trong khi tháng cuối cùng theo lịch
dân sự lại là tháng Ê-lun (x. Nkm 6,15) tương đương với tháng 8-9
dương lịch.
2. Tuần
Lịch
Do-thái cũng có tuần lễ gồm 7 ngày như được nói đến ở đầu sách Sáng Thế. Sáu
ngày đầu tuần được gọi đơn giản theo thứ tự từ ngày thứ nhất đến ngày thứ sáu.
Riêng ngày thứ bảy thì được gọi cách linh thánh là ngày Sa-bát, tiếng Híp-ri
là sab-bat (שַׁבָּת) hoặc sab-ba-tôn (שַׁבָּתוֹן), phiên tự qua tiếng Hy-lạp cũng là sab-ba-tôn (σάββατον)
nghĩa là ngưng, nghỉ.
Trong
sáu ngày, người ta sẽ làm việc, nhưng ngày thứ bảy là một ngày sa-bát,
một ngày nghỉ hoàn toàn, dâng Đức Chúa : kẻ nào làm việc trong ngày sa-bát sẽ bị
xử tử. (Xh 31,15)
3. Ngày
Theo
cách tính thời gian của chúng ta hiện nay, ngày là khoảng thời gian 24 giờ
bắt đầu từ lúc nửa đêm. Nhưng theo cách tính của người Do-thái thì ngày là khoảng
thời gian giữa hai buổi hoàng hôn. Do đó, ngày của người Do-thái bắt đầu vào buổi
chiều và kết thúc vào buổi sáng hôm sau, như được nhắc đi nhắc lại trong suốt
trình thuật sáng tạo : “Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó là
ngày thứ nhất, … ngày thứ hai, … ngày thứ ba, … v.v.” (x. St 1,5tt).
Để
biết lúc nào bắt đầu một ngày, người Do-thái xác định rằng hoàng hôn không phải
là lúc mặt trời lặn mà là lúc ba ngôi sao đầu tiên xuất hiện trên bầu trời
trong đó Sao Hôm (Kim Tinh) là sáng nhất.
Sao Hôm trên bầu trời hoàng hôn
Như
vậy, nếu mặt trời đã lặn mà Sao Hôm chưa xuất hiện trên bầu trời thì vẫn còn là
ngày hôm trước.
Dấu
vết của cách tính ngày mới này vẫn còn thấy trong phụng vụ Ki-tô giáo khi chúng
ta cử hành Lễ Vọng của một số lễ trọng, Kinh Chiều I của các lễ trọng và Chúa
nhật, cũng như cử hành thánh lễ Chúa nhật vào chiều hôm trước.
4. Canh
Chúng
ta thường nói “đêm năm canh, ngày sáu khắc”, nhưng đêm của người Do-thái không
nhiều đến năm canh.
Dân
Ít-ra-en thời xưa chia đêm thành ba canh gồm canh đầu
hôm vào lúc chập tối (x Ac 2,19), canh hai vào lúc
nửa đêm (x. Tl 7,19) và canh sáng vào lúc trời gần sáng (x. Xh
14,24)
Sau
này, người Do-thái theo lịch Rô-ma chia đêm thành bốn canh, mỗi
canh khoảng ba tiếng đồng hồ.
Canh
một bắt đầu từ lúc hoàng hôn đến 9 giờ tối;
Canh
hai từ 9 giờ tối đến nửa đêm;
Canh
ba từ nửa đêm đến 3 giờ sáng;
Canh
tư từ 3 giờ sáng đến lúc mặt trời mọc.
Tân
Ước đã nhắc đến đơn vị thời gian này.
Đức
Giê-su nói : “Nếu canh hai hoặc canh ba ông
chủ mới về, mà còn thấy các đầy tớ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ”
(Lc 12,38)
“Vào
khoảng canh tư, Đức Giê-su đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ”
(Mt 14,25)
Một
kiểu nói khác cũng diễn tả bốn canh của ban đêm như khi Đức Giê-su căn dặn các
môn đệ rằng : “Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà
đến : Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà
gáy hay tảng sáng” (Mc 13,35).
Chập tối để chỉ canh một, nửa đêm để chỉ canh
hai, lúc gà gáy để chỉ canh ba, và tảng sáng để
chỉ canh tư.
5. Giờ
Theo
lịch Do-thái, giờ là đơn vị tính thời gian vào ban ngày và không phải là khoảng
thời gian nhất định 60 phút đồng hồ mà là 1/12 của khoảng thời gian giữa lúc mặt
trời mọc và lúc mặt trời lặn. Vào mùa đông vì ngày ngắn hơn đêm cho nên một
giờ Do-thái ngắn hơn 60 phút. Ngược lại, vào mùa hè vì ngày dài hơn đêm cho nên
một giờ Do-thái dài hơn 60 phút.
Như
vậy, giờ thứ nhất là khoảng 6 giờ sáng, giờ thứ ba là khoảng 9 giờ sáng, giờ thứ
sáu là khoảng 12 giờ trưa, giờ thứ chín là khoảng 3 giờ chiều và giờ thứ mười một
là khoảng 5 giờ chiều, như chúng ta nghe trong bài Tin Mừng Chúa nhật tuần này
khi ông chủ vườn nho ra mướn thợ vào làm từ “lúc vừa tảng sáng” (giờ thứ nhất),
rồi vào khoảng các giờ thứ ba, thứ sáu, thứ chín và thứ mười một (x. Mt
20,1.3.5.6)
Các
sách Tân Ước ghi lại nhiều thời khắc trong ngày theo cách tính thời gian của
người Do-thái, như một vài ví dụ sau đây :
Hai
môn đệ thánh Gio-an Tẩy giả đã đến xem chỗ Đức Giê-su ở, “và ở lại với Người
ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười”. (Ga 1,39)
Quân
lính đã đóng đinh Đức Giê-su vào giờ thứ ba (x. Mc 15,25).
“Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ
thứ chín. Vào giờ thứ chín, Đức Giê-su kêu lớn tiếng” (Mc
15,33-37).
Sau
lời rao giảng của các tông đồ vào ngày lễ Ngũ Tuần, có kẻ nói rằng : “Mấy ông
này say bứ rồi” (Cv 2,13). Nhưng thánh Phê-rô đã phủ nhận và bảo họ rằng :
“Không, những người này không say rượu như anh em nghĩ, vì bây giờ mới là giờ
thứ ba” (Cv 2,15).
Hai ý nghĩa của thời gian
Tân
Ước dùng hai hạn từ chỉ thời gian mang ý nghĩa khác nhau. Thứ nhất, hạn từ Hy-lạp chronos (χρόνος)
tương đương với từ Híp-ri là eth (עֵת) để chỉ thời
gian nói chung, không xác định mà ta có thể gọi là thời gian lượng số.
Đó là thời gian có trường độ, được tính theo giây phút, ngày giờ, tháng
năm… đắp đổi tiếp nối nhau.
Chúa
phán với ông Áp-ra-ham : “Vào độ này sang năm, Ta sẽ trở lại
thăm ngươi, và bà Xa-ra sẽ có một con trai” (St 18,14)
“ĐỨC
CHÚA phán với ông Giô-suê : ‘Đừng sợ chúng, vì ngày mai cũng vào giờ này,
Ta sẽ nộp thây của tất cả bọn chúng cho Ít-ra-en’” (Gs 11,6)
Trở
lại với bài Tin Mừng Chúa nhật 25 Thường niên, năm A, ông chủ vườn nho đã 5 lần
trong ngày ra mướn thợ vào làm vườn nho cho ông, vào lúc tảng sáng (tương
đương với giờ thứ nhất), rồi giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ chín và
giờ thứ mười một. Đó là những thời khắc tính theo đồng hồ,
tương đương với 6 giờ sáng, 9 giờ, 12 giờ trưa, 3 giờ chiều, và 5 giờ
chiều, giờ này đến sau giờ kia theo thứ tự thời gian.
Đức
Giê-su nói với người Do-thái : “Tôi còn ở lại với các ông ít thời gian nữa
thôi.” (Ga 7,33)
“Trong thời
gian chừng bốn mươi năm, Người đã dưỡng nuôi họ trong sa mạc” (Cv
13,18)
Hạn
từ thứ hai là kai-ros (καιρός), tương đương trong tiếng
Híp-ri là ze-mân (זְמָן) và mang ý nghĩa là thời buổi,
cơ hội, thời cơ mà ta có thể gọi là thời gian phẩm tính.
Ví dụ khi ma quỷ kêu với Đức Giê-su rằng : “Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện chúng
tôi can gì đến ông ? Chưa tới lúc mà ông đã đến đây làm khổ
chúng tôi sao ?” (Mt 8,29); hay như thánh Phao-lô xác quyết rằng : “Đây
là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ.” (2
Cr 6,2)
Dĩ
nhiên không phải có 2 thứ thời gian nhưng là 2 cách diễn tả thời gian: một loại
để đo đếm theo số lượng và loại kia hàm chứa một ý nghĩa đặc biệt.
Trở
lại với bài Tin Mừng Chúa nhật 25 Thường niên, năm A, ông chủ vườn nho đã 5 lần
trong ngày ra mướn thợ vào làm vườn nho cho ông, vào lúc tảng sáng (tương
đương với giờ thứ nhất), rồi giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ chín và
giờ thứ mười một. Đó là những thời khắc tính theo đồng hồ,
tương đương với 6 giờ sáng, 9 giờ, 12 giờ trưa, 3 giờ chiều, và 5 giờ
chiều, giờ này đến sau giờ kia theo thứ tự thời gian.
Đến
cuối ngày làm việc, ông chủ trả công cho mỗi người một đồng bất kể họ được mướn
vào giờ nào, và khó hiểu hơn nữa là người vào làm cuối cùng, lúc đã 5 giờ chiều,
cũng lãnh được một đồng và còn được nhận trước những người khác.
Như
thế, ý nghĩa của thời gian đã thay đổi từ số lượng nhiều ít thành cơ hội cho mọi
người có thể vào làm vườn nho và được nhận phần lương bổng do lòng nhân hậu của
ông chủ vườn nho.
Thời
gian là hồng ân Thiên Chúa ban cho mỗi chúng ta và muốn cho thời gian ấy trở
thành những cơ may cho chúng ta được cứu độ, như lời nhắn nhủ của thánh Phao-lô
: “Đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ.” (2 Cr
6,2)
Cầu nguyện
Ngàn năm Chúa kể là gì,
tựa hôm qua đã qua đi mất rồi,
khác nào một trống canh thôi !
Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng,
như cỏ đồng trổi mọc ban mai,
nở hoa vươn mạnh sớm ngày,
chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.
Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục,
mạnh giỏi chăng là được tám mươi,
mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,
cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi.
Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan. (Tv 90)
Nguồn: tgpsaigon.net