CHƯƠNG TRÌNH DƯỚI ÁNH SÁNG LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN NĂM A
BÀI 28: TƯỚC HIỆU THIÊN SAI
Nữ tu Maria Lê Thị Thanh Nga
và Nhóm Phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng
WGPSG
(23.08.2023) – “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”
(Mt 16,13-20). Tin Mừng
Chúa nhật 21 Thường Niên năm A mời gọi chúng ta suy nghĩ về cuộc đối thoại
giữa Đức Giê-su với các môn đệ, xoay quanh căn tính của Đức Giê-su trong mắt
người đương thời. Khi Đức Giê-su hỏi : “Người ta nói Con Người là
ai ?”, các môn đệ thưa : “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả,
kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các
vị ngôn sứ.” Riêng ông Phê-rô thưa : “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên
Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Rồi sau đó, Người cấm ngặt các môn đệ
không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô. Chúng ta sẽ tìm hiểu khái
quát danh tánh các nhân vật đã được Mát-thêu đề cập để dẫn đến lời tuyên tín
cuối cùng của ông Phê-rô : “Thầy là Đấng Ki-tô.”
Trước hết, “có kẻ
bảo Đức Giê-su là Gio-an Tẩy Giả”. Tin Mừng Luca 1,76 cho biết rõ ông
“là ngôn sứ của Đấng Tối Cao, đi trước Chúa, mở lối cho Người, và bảo cho
dân Chúa biết : Người sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội khiên”.
Kế đến “có kẻ bảo
Đức Giê-su là ngôn sứ Ê-li-a”. Vị ngôn sứ này được biết đến trong Cựu Ước
như “là vị ngôn sứ chẳng khác nào ngọn lửa, lời của ông tựa đuốc cháy bừng bừng …
Ông đã làm bao việc lạ lùng, ông thật là vinh quang hiển hách ! Ai có thể
tự hào được nên giống như ông ? Ông dùng lời của Đấng Tối Cao mà làm cho một
kẻ chết trỗi dậy, thoát khỏi tay tử thần và cõi âm ty” (Hc 48,1-5).
Rồi lại “có người
bảo Đức Giê-su là ngôn sứ Giê-rê-mi-a”, một ngôn sứ đã thi hành sứ mạng
trong một bối cảnh rất phức tạp của Ít-ra-en về mặt tôn giáo, chính trị và xã hội,
vào thế kỷ thứ VI trước CN. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị sỉ nhục, chế giễu và bị
ngược đãi “vì lời Đức Chúa” (Gr 20,8), nhưng ông cũng xác tín “lời
Chúa cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt” (Gr 20,9)
khiến ông thuyết phục dân chúng hồi tâm trở về, tin tưởng và sống tương quan
giao ước với Chúa cách mới mẻ.
Tóm lại, người
đương thời so sánh Đức Giê-su với ba vị này không phải không có lý do. Ngay
cả khi tất cả những so sánh trên là đúng, thì Đức Giê-su lại còn trổi vượt hơn
thế nữa, vì Đức Giê-su là Con Thiên Chúa Tối Cao và là Thiên Chúa thật. Và
bởi vì là Thiên Chúa, Đức Giê-su có quyền năng cứu chữa con người khỏi bệnh tật,
sự dữ và tử thần. Đức Giê-su chính là Ngôi Lời vĩnh cửu, là Đấng đã thiết
lập giao ước mới bằng chính máu mình. Người là Mặc khải trọn vẹn hoàn hảo trong
cách tuyên tín của Phê-rô : “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.”
Mời quý ông bà anh
chị em tìm hiểu đôi chút về ngữ nghĩa của danh xưng Ki-tô này.
1. Trong Cựu Ước
Trong bản văn Cựu Ước,
hạn từ “Mê-si-a” là phiên âm đơn giản của từ מָשִׁיחַ = māšîªḥ trong
tiếng Híp-ri, từ này có nghĩa là “được xức dầu”. Thuật ngữ “Đấng Mê-si-a”,
“Đấng được xức dầu” được áp dụng cho những ai đã được tuyển chọn : cho các
tư tế như Chúa truyền cho ông Mô-sê : “Ngươi cũng xức dầu cho
A-ha-ron và các con ông ; ngươi sẽ thánh hiến họ làm tư tế phục vụ Ta” (Xh
30,30) ; xức dầu cho vị thủ lãnh/hoàng tử/vua : “Người ta phong
vương và xức dầu cho hoàng tử (Sa-lô-môn), rồi vỗ tay hô
lên : ‘Vạn tuế đức vua !’” (2 V 11,12) ; xức dầu cho
các vua và ngôn sứ : “Ông (Ê-li-a) đã xức dầu tấn phong các vua để
họ cầm quyền xét xử, và xức dầu cho các ngôn sứ để họ nối nghiệp ông” (Hc
48,8).
Mỗi người trong
dân Ít-ra-en khi được xức dầu, dù là thủ lãnh, ngôn sứ, thầy tư tế hay vị
vua, đều là đại diện của Thiên Chúa, là trung gian của mối tương quan giao ước
giữa Thiên Chúa với dân Người.
Như vậy, Đấng
Mê-si-a là “Đấng được xức dầu của Thiên Chúa” hay còn gọi
là “Đấng Thiên Sai”. Đây là một nhân vật được trông đợi và hy vọng xuyên
suốt thời Cựu Ước. Niềm mong chờ Đấng Thiên Sai nảy sinh từ dân tộc
Ít-ra-en, trước nỗi thất vọng về các vua sau khi được xức dầu tấn phong, lên
ngôi trị vì mà không sống xứng đáng hoặc không có khả năng thực hiện vai trò
trung gian giữa Thiên Chúa với dân, không hướng dẫn dân chúng sống theo giao ước
và giáo huấn Chúa ban tặng, khiến cho toàn dân xa lìa Chúa, sống khốn đốn lầm
than dưới ách thống trị ngoại bang. Trong bối cảnh đó, những người
nghèo khổ, những người nô lệ trong cảnh lưu đày tha thiết chờ mong Vị Cứu
Tinh/Đấng Thiên Sai, với hy vọng rằng vị ấy sẽ thực thi công lý cho họ. Đã có
thời kỳ vua Ba Tư là Ky-rô được xem như Vị Cứu Tinh vì đã giải phóng dân
Do-thái ra khỏi cảnh lưu đày ở Ba-by-lon vào thế kỷ VI trước CN. Tuy nhiên, chắc
chắn rằng trước thời Ki-tô giáo, danh hiệu Mê-si-a được chỉ định một cách chính
xác là người thuộc dòng dõi “vua Đa-vít”, Vị Cứu Tinh người Do-thái hằng mong đợi.
Thật thú vị nếu chúng ta thu thập các hình ảnh và ẩn dụ khác nhau ngang qua lời
hứa về Đấng Mê-si-a trong các bản văn Cựu Ước :
Đấng Em-ma-nu-en : “Này đây người thiếu nữ sẽ
mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en” (Is
7,14). Bất chấp tai hoạ sẽ giáng xuống Ít-ra-en một ngày nào đó, ngôn sứ
I-sai-a loan báo Đấng “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” sẽ đến, “sẽ mở
rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương
quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững
bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời” (Is
9,6).
Chồi
non : Đấng
Mê-si-a cũng được biểu thị như một chồi non mọc lên từ gốc rễ Đa-vít. Hình
ảnh này thể hiện ý tưởng về một sự hồi sinh siêu nhiên, một sự tái sinh kỳ diệu : “Trong
những ngày ấy, vào thời đó, Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng
Công Chính để nối nghiệp Đa-vít ; Người sẽ trị nước theo lẽ công
bình chính trực” (Gr 33,15).
Người Tôi Tớ Đau
Khổ : Có 4 bài ca
về Người Tôi Tớ trong sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a mà đỉnh điểm là bài ca thứ
tư ở chương 52–53. Những bài ca này dựa trên hoàn cảnh lịch sử thời ấy, nhưng hầu
hết các nhà bình luận đều xem đó như một lời tiên đoán về cuộc sống, cái chết
và sự phục sinh khải hoàn của Đức Giê-su Ki-tô. Đặc biệt bài ca thứ tư (Is
52,13–53,12) đã mô tả một Người Tôi Tớ trọn hảo, người đã thinh lặng gánh lấy hết
tất cả tội luỵ thay cho toàn dân Ít-ra-en : “Bị ngược đãi, người cam chịu
nhục, chẳng mở miệng kêu ca ; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm
nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng. Người đã bị ức hiếp, buộc tội, rồi
bị thủ tiêu … Người đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội
nhân ; nhưng thật ra, người đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những
kẻ tội lỗi.”
Con Người : Tước hiệu này được đọc thấy trong
Đa-ni-en 7,13-14 : “Tôi đã thấy trong những thị kiến ban đêm, thì
kìa : như một Con Người đang đến cùng với mây trời. Người tiến
đến với Vị Kỳ Lão và chúng đem Người tới gần trước vị ấy. Quyền
thống trị, vinh dự và vương quyền được trao cho Người ; mọi dân
nước và ngôn ngữ đều phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là
quyền thống trị muôn đời, và vương quyền của Người sẽ chẳng bị diệt
vong.” Theo cách trình bày của Đa-ni-en trong dòng văn chương Khải Huyền,
thì Con Người cũng là tước hiệu của Đấng Mê-si-a, vì Đa-ni-en diễn đạt
niềm hy vọng vào Đấng Thiên Sai của người Do-thái giáo.
2. Trong Tân Ước
Bản văn Tân Ước diễn
dịch Mê-si-a māšîªḥ qua tiếng Hy-lạp bằng từ Χριστὸς = Christos, được
phiên âm trong tiếng Việt là Ki-tô. Danh từ này đã trở
thành một danh từ riêng ghép vào danh Giê-su, mà chúng ta thường đọc thấy trong
Tân Ước : Đức Giê-su Ki-tô, dịch sát nghĩa danh này là “Đấng được xức dầu,
Đấng cứu thoát”. Tuy nhiên, nhiều người đã không nhìn nhận Chúa Giê-su như
vậy, nhất là khi Người chịu chết trên thập giá.
Tin Mừng Mát-thêu
cho thấy, người đương thời với Đức Giê-su đã đưa ra các nhân vật nổi trội trong
Cựu Ước như ngôn sứ Ê-li-a, Giê-rê-mi-a, Gio-an Tẩy Giả để gán cho Đức Giê-su,
nhưng trong thực tế, thay mặt cho các môn đệ khác, khi ông Si-môn Phê-rô xác
quyết : “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, chúng ta thấy chỉ
có danh hiệu Đấng Ki-tô là vượt trội so với những danh hiệu nổi
bật đã được kể ra. Và Đức Giê-su đã nói : “Này anh Si-môn con ông
Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều
ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” Sau đó, Đức Giê-su ra lệnh
cho các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô.
Danh xưng Ki-tô quả
là một mầu nhiệm kín ẩn và các môn đệ chỉ hiểu thấu trong cuộc Thương Khó và Phục
Sinh của Đức Giê-su và làm chứng cách sống động trong lời rao giảng tiên khởi
Ke-ryg-ma : “Thưa đồng bào Ít-ra-en, xin nghe những lời sau đây. Đức
Giê-su Na-da-rét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với
anh em. Và để chứng thực sứ mạng của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm
những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em … Đức Giê-su ấy
đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết
đi ... Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại ;
về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay
uy quyền nâng Người lên” như trong Thánh vịnh đã ghi chép : “Bên
hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ
dưới chân Con.” Vậy toàn thể nhà Ít-ra-en phải biết chắc điều
này : Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã
đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô” (Cv 2,22-36).
Như vậy, những hình
ảnh ám chỉ khác nhau trong Cựu Ước như Chồi Non, Đấng Em-ma-nu-en, Người
Tôi Tớ đau khổ, Con Người đến trong vinh quang, là những hình ảnh báo
trước ơn cứu thoát mà Đấng được xức dầu thực hiện và hoàn tất nơi chính Đức
Giê-su, Ngôi Lời Thiên Chúa. Ngay phần mở đầu Tin Mừng, thánh Mác-cô đã không
ngần ngại khẳng định “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa”
(Mc 1,1). Và thánh Mát-thêu cũng xác quyết : “Đây là gia phả Đức Giê-su
Ki-tô, con cháu vua Đa-vít, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham.” Rồi vài dòng sau đó
: “Như thế, tính chung lại thì : từ tổ phụ Áp-ra-ham đến vua Đa-vít, là
mười bốn đời ; từ vua Đa-vít đến thời lưu đày ở Ba-by-lon, là mười bốn đời ;
và từ thời lưu đày ở Ba-by-lon đến Đức Ki-tô, cũng là mười bốn đời.” Mát-thêu
còn xác định : “bà Ma-ri-a là mẹ của Đức Giê-su, cũng gọi là Đấng
Ki-tô” (Mt 1,1-17).
Trong các Tin Mừng,
Đức Giê-su chỉ thật sự xác định chính mình là Đấng Ki-tô trong vài trường hợp :
- sau lời tuyên
xưng đức tin của Phê-rô : “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng
sống”, thì Người “cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người
là Đấng Ki-tô” (Mt 16,16 ; Mc 8,29) ;
- sau lời của người
phụ nữ Sa-ma-ri nói bên bờ giếng Gia-cóp : “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi
là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi
mọi sự.” Và Đức Giê-su nói : “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với
chị đây” (Ga 4,25-26) ;
- sau vụ bắt giữ Đức
Giê-su trong Vườn Cây Dầu, vị thượng tế đứng lên giữa hội đồng hỏi Đức
Giê-su : “Ông không nói lại được một lời sao ? Mấy người này
tố cáo ông gì đó ?” Nhưng Đức Giê-su vẫn làm thinh, không đáp một tiếng. Vị
thượng tế lại hỏi Người : “Ông có phải là Đấng Ki-tô, Con của Đấng đáng
chúc tụng không ?” Đức Giê-su trả lời : “Phải, chính thế.
Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà
đến …” (Mc 14,60-62).
Niềm hy vọng về Đấng
Thiên Sai đã được Thiên Chúa thực hiện cho dân Ít-ra-en qua sự xuất hiện của Đức
Ki-tô Giê-su và Nước Thiên Chúa giữa thế gian. Niềm hy vọng về Đấng Thiên Sai đến
từ Thiên Chúa chứ không phải từ con người, và chính Thiên Chúa đã tỏ rõ trong
việc hoàn thành kế hoạch cứu độ con người nơi Đức Ki-tô Giê-su, Đấng sẽ mãi mãi
là niềm hy vọng cho cả thế giới.
Hôm nay, mỗi người
Ki-tô hữu chúng ta cần xác tín rằng : Chúa Giê-su chính là Đấng
Ki-tô/Mê-si-a đích thực duy nhất vì Người đã hoàn thành sứ mạng của Chúa Cha
cách hoàn hảo. Tuy nhiên, Chúa Ki-tô Giê-su không phải là một vị vua
khải hoàn thống trị theo kiểu phàm nhân mong đợi, Người hiển trị muôn dân muôn
nước trên toàn cõi địa cầu chỉ bằng tình thương và lòng thành tín, bằng lòng
khoan dung và tha thứ không ngừng, để cuối cùng tội lỗi và sự dữ không còn lộng
hành trong vương quốc yêu thương của Người.
Thường chúng ta hay
đặt câu hỏi : Tại sao người Do-thái không tin Đức Ki-tô Giê-su đang
khi họ chờ đợi Vị Cứu Tinh ? Theo người Do-thái giáo, Vị Cứu Tinh thật
sự phải đáp ứng các tiêu chuẩn : xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít, phải là
vị vua mang lại hoà bình trên toàn cõi đất, quy tụ được tất cả những người
Do-thái trở về miền đất Ít-ra-en, xây dựng lại đền thờ Giê-ru-sa-lem, làm cho
nhân loại chỉ tôn thờ kính tin một Thiên Chúa. Vì Chúa Giê-su không đáp ứng tất
cả những yêu cầu này, nên người Do-thái khó chấp nhận Đức Giê-su như là Đấng
Mê-si-a.
Hôm nay, chúng ta
hãy tự chất vấn : “Đối với tôi, Chúa Ki-tô Giê-su là ai ?” Hãy dành
thời gian gẫm suy trong thinh lặng để trả lời, để nhận thức được những giới hạn
hoặc những hình ảnh sai lầm tôi đã có về Người. Chúa Thánh Thần đã ban ân sủng
cho ông Phê-rô và người phụ nữ Sa-ma-ri để họ nhận ra Chúa Giê-su, Đấng Thiên
Sai, nghĩa là Đấng Ki-tô, Đấng cứu thoát. Chúa Thánh Thần cũng muốn ban dư đầy
ân phúc ấy cho mỗi chúng ta, để chúng ta được cứu thoát. Ngày chúng ta
lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, bí tích Thêm Sức, chúng ta đã được xức dầu. Việc xức
dầu này làm cho mỗi người tín hữu nên giống với Chúa Giê-su Ki-tô “tư tế-ngôn
sứ và vua”, cho phép chúng ta tham gia vào sứ mạng loan truyền ơn cứu thoát
của Người đến tận cùng cõi đất.
3. Cầu nguyện
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa là Đấng Thiên Sai, là Vua muôn vua, là Chúa các chúa, là Thánh Tử Hằng Hữu,
được sinh ra chứ không phải được tạo thành : chúng con chúc tụng
Chúa !
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa là Thượng tế của Giao Ước Mới, là Thẩm Phán sẽ ngự đến xét xử trần gian,
là Con Người được siêu thăng cõi trời vinh hiển : chúng con ngợi khen
Chúa !
Xin Chúa thương dạy
chúng con luôn biết tin tưởng vững vàng, giữ lòng cậy dựa sắt son để được hưởng
nhờ ơn cứu thoát và sự sống đời đời. A-men.
Nguồn: tgpsaigon.net