CHƯƠNG TRÌNH DƯỚI ÁNH SÁNG LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN NĂM A
BÀI 27: NGƯỜI DO THÁI VỚI NGƯỜI SA-MA-RI VÀ DÂN NGOẠI
Linh mục Vinh Sơn Phạm Xuân Hưng, OP
và Nhóm Phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng
WGPSG
(16.08.2023) – Trong bài Tin Mừng
của Chúa nhật XX thường niên năm A, hẳn là độc giả cảm thấy khó hiểu về thái độ
của Đức Giê-su đối với người phụ nữ dân ngoại đến xin Người chữa cho con gái của
bà đang bị quỷ ám. Lúc đầu Đức Giê-su tỏ ra ghẻ lạnh và phân biệt đối xử khi
Người không đáp lời hoặc buông ra những câu kỳ lạ như : “Thầy chỉ
được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi” (Mt
15,24) và “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt
15,26). Nhưng ở cuối câu chuyện, Chúa lại khen bà ấy và chữa lành lập tức cho
con gái bà : “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được
vậy” (Mt 15,28).
Hẳn là Đức Giê-su
không ghẻ lạnh hay phân biệt đối xử với bất kỳ ai, nhất là những người nghèo
hèn, đau khổ. Xem ra Người muốn nhắc nhở các môn đệ và dân chúng về thái độ thù
ghét cố hữu giữa người Do-thái với người Sa-ma-ri và dân ngoại. Lời khen tặng
và việc chữa lành lập tức cho con gái người phụ nữ Ca-na-an là bài học sống động
về tình người và tình huynh đệ giữa mọi người.
Trong bài học hỏi
này, chúng ta cùng tìm hiểu những căn cớ của mối tương quan không tốt đẹp giữa
người Do-thái với người Sa-ma-ri và dân ngoại.
Các sách Tin Mừng
đã nhiều lần nói đến mối tương quan không được tốt đẹp hay thuận thảo giữa người
Do-thái với người Sa-ma-ri cũng như dân ngoại. Người Sa-ma-ri và dân ngoại thường
bị người Do-thái khinh dể và tránh tiếp xúc (x. Lc 17,17-18). Ngay cả khi sai
mười hai tông đồ đi rao giảng, Đức Giê-su cũng ra chỉ thị : “Anh em đừng
đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Sa-ma-ri” (Mt
10,5). Tuy nhiên, tác giả sách Tin Mừng thứ tư xem ra tế nhị hơn đối với người
Sa-ma-ri, khi kể lại câu chuyện Đức Giê-su xin người phụ nữ Sa-ma-ri nước uống ở
bờ giếng Gia-cóp (x. Ga 4,1-42). Từ những câu chuyện kể trên, chúng ta thử tìm
hiểu đôi chút về lịch sử người Do-thái cũng như của người Sa-ma-ri và dân ngoại,
được nói đến trong Kinh Thánh liên quan đến sự xuất hiện của họ, và đâu là mối
tương quan giữa họ với nhau trong lịch sử của dân Do-thái và chương trình cứu độ
của Thiên Chúa.
I. Người Do-thái
Tiếng Híp-ri là
Giơ-hu-đi (יְהוּדִי) ; tiếng Hy-lạp là Giu-đai-os (Ιουδαῖοϛ).
Người
Do-thái là danh từ chỉ một sắc tộc tôn giáo và cũng là một dân tộc có nguồn
gốc từ dân Ít-ra-en. Dân Ít-ra-en là con cháu của tổ phụ Gia-cóp vì ông còn có
tên là Ít-ra-en (x. St 35, 10). Ít-ra-en theo tiếng Híp-ri (יִשְׂרָאֵֽל)
có nghĩa là “người đấu với Thiên Chúa” (St 32,29). Ông Ít-ra-en có mười
hai con trai làm thành mười hai chi tộc, và trở thành một dân tộc (x. St
49,1-28). Đó là nguồn gốc của dân Ít-ra-en là dân được Thiên Chúa tuyển chọn
làm dân riêng của Người (x. Đnl 14,2 ; Xh 19,5). Thiên Chúa còn lập Giao Ước
với dân Ít-ra-en và Người trở thành “Thiên Chúa của Ít-ra-en” (x. Is
17,6 ; Gr 7,3 ; Ed 8,4), còn dân Ít-ra-en trở thành “dân của Thiên
Chúa” (x. Is 1,3 ; Am 7,8 ; Gr 12,14). Như vậy, dân Ít-ra-en
không chỉ là một dân thuộc về lịch sử chính trị như các dân tộc khác, mà còn là
một dân thánh được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng của Người. Dân Ít-ra-en
như là trung tâm của lịch sử thánh, để Thiên Chúa thực hiện ý định cứu rỗi của
Người cho toàn thể nhân loại.
Từ một dân tộc,
Ít-ra-en sau đó trở thành vương quốc Ít-ra-en được thống nhất dưới thời vua
Đa-vít (x. 2 Sm 2,4 ; 5,3). Đến thời vua Sa-lô-môn, vào khoảng thế kỷ thứ
10 tCN, khi vua Sa-lô-môn qua đời, vương quốc Ít-ra-en liền bị phân tranh (x. 1
V 12,16). Mười chi tộc hợp thành nước Ít-ra-en (còn gọi là Ép-ra-im hay
Sa-ma-ri) ở phía Bắc với kinh đô là Sa-ma-ri, và hai trung tâm phụng tự là
Bê-then và Đan (x. 1 V 12,28-31). Còn hai chi tộc Giu-đa và Ben-gia-min làm
thành nước Giu-đa ở phía Nam với kinh đô và Đền Thờ ở Giê-ru-sa-lem. Đến năm
721 tCN, nước Ít-ra-en ở phía Bắc bị đế quốc Át-sua xâm chiếm. Sau đó vào năm
587 tCN, nước Giu-đa ở phía Nam cũng rơi vào tay đế quốc Ba-by-lon và Đền Thờ
Giê-ru-sa-lem bị phá huỷ, còn dân bị đi lưu đày ở Ba-by-lon. Ít lâu sau vào năm
538 tCN, đến lượt đế quốc Ba-by-lon bị sụp đổ, Ky-rô vua đế quốc Ba-tư ra chiếu
chỉ cho dân Ít-ra-en được hồi hương và tái thiết Đền Thờ Giê-ru-sa-lem ở nước
Giu-đa. Khi trở về quê hương, họ đã xây dựng lại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem dù gặp
nhiều khó khăn và chống đối của dân Sa-ma-ri. Đến thế kỷ thứ 3 tCN, dân
Ít-ra-en lại bị xâu xé bởi các cường quốc Xy-ri, Ai-cập, Hy-lạp rồi Rô-ma. Và đến
năm 70 sau CN, Đền Thờ Giê-ru-sa-lem bị phá huỷ, dân Ít-ra-en rơi vào tay người
Rô-ma và bị người Rô-ma đàn áp bách hại, khiến họ phải tản mác khắp các xứ sở,
nhưng vẫn sống còn và luôn mong đợi Đấng Mê-si-a đến giải thoát.
Lướt qua lịch sử
dân Ít-ra-en trên đây, có thể nhận thấy danh từ “người Do-thái” được dùng để gọi
dân Ít-ra-en thuộc nước Giu-đa ở miền Giu-đê phía Nam (x. 2 V 14,21). Nhưng sau
thời lưu đày ở Ba-by-lon, thuật ngữ “người Do-thái” được dùng để chỉ tất cả con
cháu Gia-cóp và những ai theo đạo Do-thái (x. Nkm 1,2 ; 4,6), vì chỉ những người
Ít-ra-en sống sót sau thời lưu đày (tức là những người trước đó là dân nước
Giu-đa) mới giữ được danh tính Ít-ra-en, còn dân nước Ít-ra-en ở phía Bắc đã bị
tứ tán sau cuộc xâm lược của người Át-sua năm 721 tCN và bị hoà lẫn với các dân
tộc khác. Từ thực tế lịch sử này, sau thời lưu đày, sự xung đột giữa người
Do-thái ở Giu-đê và người Sa-ma-ri ở vùng Sa-ma-ri bắt đầu xảy ra.
II. Người
Sa-ma-ri
Tiếng Híp-ri
là Sô-mơ-rôn (שֹׁמְרוֹן) ; tiếng Hy-lạp là Sa-ma-ri-tês (Σαμαρῖτης).
Nguồn gốc người
Sa-ma-ri gắn liền với lịch sử dân Ít-ra-en. Theo niên biểu của lịch sử Ít-ra-en
trong Cựu Ước như đã nói trên, năm 721 tCN, nước Ít-ra-en ở phía Bắc bị đế quốc
Át-sua xâm chiếm. Vua Át-sua là Xác-gôn II đã đưa một số dân Ít-ra-en ở
Sa-ma-ri đi lưu đày ở Át-sua, và đem các dân ngoại từ các nơi khác đến Sa-ma-ri
thế chỗ người Ít-ra-en (x. 2 V 17,24). Các dân ngoại này đem theo thần linh của
họ, nhưng dần dần họ cũng tôn thờ cả Thiên Chúa của dân Ít-ra-en ở Sa-ma-ri. Họ
từ bỏ tín ngưỡng đa thần của họ và chấp nhận luật Mô-sê. Trong khi đó, những
người dân Ít-ra-en còn ở lại Sa-ma-ri phải sống chung đụng với các dân ngoại từ
các nơi khác đến. Điều này dẫn đến sự lai tạp tôn giáo giữa các dân ngoại với
người Ít-ra-en tại Sa-ma-ri (x. 2 V 17,24-40). Theo thời gian, người Ít-ra-en tại
Sa-ma-ri đã bị pha trộn với các dân ngoại qua hôn nhân, đồng thời cũng chịu ảnh
hưởng từ các tập tục và tôn giáo của dân ngoại, nên không còn là người Ít-ra-en
thuần chủng về mặt huyết thống cũng như không còn thuần khiết về tôn giáo nữa.
Chính nguồn gốc lịch
sử này đã dẫn đến sự xung đột giữa người Ít-ra-en và người Sa-ma-ri sau thời
lưu đày. Cụ thể năm 538 tCN, vua Ky-rô của đế quốc Ba-tư đánh chiếm Ba-by-lon
và cho dân Ít-ra-en được hồi hương về lại Giu-đê. Dân Ít-ra-en đã tổ chức tái
thiết tường thành và xây dựng lại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Dân Sa-ma-ri muốn được
góp phần xây dựng lại Giê-ru-sa-lem, nhưng người Ít-ra-en ở Giu-đê không chấp
nhận, vì cho rằng dân Sa-ma-ri không còn mang dòng máu Ít-ra-en nguyên tuyền nữa,
và xem người Sa-ma-ri là dân ngoại, thế là xung đột không ngừng xảy ra (x. Er
4,1-5). Những xung đột trên đã dẫn đến việc người Sa-ma-ri xây đền thờ của họ
trên núi Ga-ri-dim để thờ phượng Thiên Chúa. Sự kiện này càng đào sâu sự chia rẽ
giữa người Ít-ra-en và người Sa-ma-ri.
Vì những lý do lịch
sử trên đây, vào thời Đức Giê-su, người Do-thái không giao tiếp với người
Sa-ma-ri và họ thường tránh đi vào vùng đất người Sa-ma-ri (x. Ga 4). Hai bên
thường có sự nghi kỵ và xung đột nhau (x. Lc 9,51-53). Giới lãnh đạo Do-thái
còn dùng từ “người Sa-ma-ri” để nguyền rủa Đức Giê-su mà chất vấn rằng : “Chúng
tôi gọi ông là người Sa-ma-ri và là người bị quỷ ám thì chẳng đúng lắm sao ?”
(Ga 8,48).
Thế nhưng, Tin Mừng
Gio-an lại kể câu chuyện Đức Giê-su gặp một phụ nữ Sa-ma-ri để xin nước uống và
chủ ý bắt chuyện với chị (x. Ga 4,7-9), khiến các môn đệ phải ngạc nhiên (x. Ga
4,27). Cũng vậy, trong Tin Mừng Lu-ca, khi trả lời một thầy thông luật hỏi ai
là người thân cận của ông, Đức Giê-su kể một dụ ngôn đề cao một người Sa-ma-ri
vì đã đối xử nhân hậu với nạn nhân của kẻ cướp (x. Lc 10,25-37). Và trong câu
chuyện mười người phong hủi được Đức Giê-su chữa lành, mà chỉ có một người biết
trở lại tạ ơn Đức Giê-su, người đó lại là người Sa-ma-ri (x. Lc 17,11-19).
Trong chương trình
cứu độ, Thiên Chúa không loại trừ người Sa-ma-ri. Bằng chứng là khi sống lại,
Chúa Giê-su đã nhắc đến miền Sa-ma-ri khi trao sứ vụ truyền giáo cho các môn đệ
(x. Cv 1,8). Giáo Hội tiên khởi cũng đã đem Tin Mừng đến với người Sa-ma-ri (x.
Cv 8,1-8). Khi biết dân Sa-ma-ri đã đón nhận lời Thiên Chúa, ông Phê-rô và
Gio-an đã từ Giê-ru-sa-lem đích thân đến tận Sa-ma-ri cầu nguyện cho họ để họ
lãnh nhận Thánh Thần (x. Cv 8,14-17), nhờ đó sự chia rẽ giữa người Do-thái và
người Sa-ma-ri được giảm bớt, và Giáo Hội tại Sa-ma-ri phát triển tốt đẹp (x.
Cv 9,31).
Vậy còn các dân ngoại
thì sao, họ có được đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa hay không ? Chúng ta
tìm hiểu xem Kinh Thánh nói gì về họ.
III. Dân ngoại
Tiếng Híp-ri
là Gôi (ג֣וֹי) ; tiếng Hy-lạp là Et-nos (ἔθνος).
Đối với người Do-thái,
những người không cùng chủng tộc với họ, tức là không phải con cháu tổ phụ
Áp-ra-ham, thì bị coi là dân ngoại. Trong Cựu Ước, các dân ngoại thường thờ
các tượng thần và tà thần (x. Đnl 7,4-6). Họ không nhận biết Thiên Chúa nên bị
nguyền rủa (x. Xh 20,5), bị dân Ít-ra-en khinh thường và thậm chí coi họ là thù
địch. Trong thời chinh phục đất Ca-na-an, sự xung đột và chiến tranh giữa dân
Ít-ra-en và các dân ngoại liên tục xảy ra. Tuy nhiên, Thiên Chúa không muốn
loại trừ bất cứ dân nào ra khỏi chương trình cứu độ của Người, như ngôn sứ
I-sai-a đã loan báo, các dân ngoại sẽ nhận biết Thiên Chúa và sẽ tới
Giê-ru-sa-lem để học biết lề luật của Người (x. Is 2,2-4 ;
66,18-21). Vì thế, dân Ít-ra-en phải trở thành ánh sáng thu hút mọi dân nước
đến phụng thờ Thiên Chúa như ngôn sứ I-sai-a đã loan báo : “… Vì vậy,
này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận
cùng cõi đất” (Is 49,6 ; 42,6 ; 60).
Thế nhưng, đa phần
Ít-ra-en lại khước từ trách nhiệm làm ánh sáng cho dân ngoại. Câu chuyện ngôn sứ
Giô-na minh hoạ cho thái độ khước từ này, khi ông được sai đến với dân ngoại ở
Ni-ni-vê để rao giảng và kêu gọi họ sám hối. Vì thành kiến hẹp hòi với dân ngoại,
Giô-na đã bất tuân lệnh Chúa. Sau khi bị quăng xuống biển và được Chúa cứu, ông
mới miễn cưỡng rao giảng cho dân Ni-ni-vê. Ông còn tỏ thái độ bực tức khi Chúa
tỏ lòng thương xót và tha thứ cho họ nhờ đã sám hối (x. Gn 3,10–4,11).
Kết
Qua vài nét tìm hiểu
về nguồn gốc và lịch sử của dân Do-thái, dân Sa-ma-ri và dân ngoại được nói đến
trong Kinh Thánh, chúng ta nhận thấy một điều quan trọng, đó là từ muôn đời,
Thiên Chúa đã yêu thương tất cả mọi người, không riêng dân Do-thái, dân Sa-ma-ri,
mà còn cả các dân ngoại, trong đó có chúng ta, để hết thảy được trở thành con
cái của Chúa nhờ Đức Ki-tô (x. Ep 1,3-14). Người đã “muốn cho mọi người
được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4). Chính
vì vậy, Đức Giê-su đã hy sinh chịu chết trên thập giá và đã phục sinh là để cho
cả người Do-thái lẫn dân ngoại được phúc lành của ơn cứu độ, như Người đã hứa với
tổ phụ Áp-ra-ham xưa (x. St 12,2-3 ; Gl 3,6-14). Cái chết của Chúa Giê-su
đã hoà giải dân Do-thái với dân ngoại : “Người đã liên kết đôi bên,
dân Do-thái và dân ngoại thành một ; Người đã hy sinh thân mình
để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét” (Ep 2,11-14), để
từ nay trong Đức Giê-su Ki-tô “không còn phải phân biệt Hy-lạp hay
Do-thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ, tự do, nhưng
chỉ có Đức Ki-tô là tất cả và ở trong mọi người” (Cl 3,11).
Cầu nguyện
Thời cánh chung, núi đền thờ Chúa
đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao,
vươn mình trên hết mọi ngọn đồi.
Dân dân lũ lượt đưa nhau tới,
nước nước dập dìu kéo nhau đi.
Rằng : “Ðến đây, ta cùng lên núi Chúa,
lên đền thờ Thiên Chúa nhà Gia-cóp,
để Người dạy ta biết lối của Người
và bước theo đường Người chỉ vẽ.
Vì từ Xi-on, thánh luật ban xuống,
từ Giê-ru-sa-lem, lời Chúa phán truyền.
Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia
và phân xử cho muôn dân tộc.
Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày,
rèn giáo mác nên liềm nên hái.
Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau,
và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến.
Hãy đến đây, nhà Gia-cóp hỡi,
ta cùng đi, nhờ ánh sáng Chúa soi đường!” (Is 2,2-5)
Nguồn: tgpsaigon.net