Sáng thứ Sáu, ngày 10.03.2017, Cha Raniero Cantalamessa, O.F.M. Cap., giảng thuyết viên phủ Giáo Hoàng, đã có bài giảng tĩnh tâm Mùa Chay đầu tiên cho Giáo triều Roma năm nay. Bài giảng có chủ đề là “Chúa Thánh Thần đưa ta vào mầu nhiệm Chúa Kitô”. Sau đây là toàn văn Việt ngữ bài giảng của ngài:
Linh mục Raniero Cantalamessa, O.F.M. Cap.
Bài giảng tĩnh tâm Mùa Chay cho Giáo triều Rôma
Năm 2017 - Bài 1: CHÚA THÁNH THẦN ĐƯA TA VÀO MẦU
NHIỆM CHÚA KITÔ
1. "Người sẽ
làm chứng về Thầy"
Khi tôi đọc lời nguyện
đầu lễ Chúa Nhật thứ I Mùa Chay, có một điều đã đánh động tôi năm nay. Chúng ta
không cầu xin Chúa Cha giúp chúng ta thực hiện một số việc cổ điển của mùa này
: cầu nguyện, bố thí, chay tịnh. Phụng vụ đòi hỏi một điều duy nhất : làm cho
chúng ta "lớn lên trong sự hiểu biết mầu nhiệm Chúa Kitô". Tôi nghĩ rằng
đây thực sự là công việc tốt đẹp và quan trọng nhất trước mặt Thiên Chúa. Những
bài suy niệm tôi sẽ gợi ra trong Mùa Chay này nhằm phục vụ cho mục tiêu trên
đây.
Trong những bài này,
chúng ta suy niệm tín khoản thứ hai của kinh Tin Kính. Nói cách khác, chúng ta
sẽ cố gắng làm sáng tỏ cách mà Chúa Thánh Thần "đưa ta vào sự thật toàn vẹn"
về Đức Giêsu Kitô và mầu nhiệm vượt qua của Ngài, tức là về "hữu thể"
và "hành động". của Đấng Cứu Thế. Liên quan đến "hành động"
của Đức Kitô, phù hợp với phụng vụ Mùa Chay, chúng ta sẽ cố gắng đào sâu vai
trò của Chúa Thánh Thần trong sự chết và sống lại của Đức Kitô, và sau Ngài,
trong sự chết và sự sống lại của chúng ta .
Tín khoản thứ hai của
Kinh Tin Kính, trong hình thức đầy đủ của nó, tuyên xưng như sau:
"Tôi tin kính một
Chúa Giêsu Kitô, Con một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời.
Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh sáng bởi Ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi
Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức
Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành”.
Tín khoản trọng tâm
này của kinh Tin Kính phản ánh hai giai đoạn phân biệt nhau của đức tin. Nhóm từ
"Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô", đưa về lúc khởi đầu đức tin của
Giáo Hội, ngay sau lễ Phục Sinh. Những điều tiếp sau của tín khoản "Con Một
Thiên Chúa ..." phản ánh một giai đoạn muộn hơn, tiến triển hơn, sau cuộc
tranh cãi về lạc thuyết Ariô và Công đồng Nicêa năm 325. Chúng ta dành bài suy
niệm này cho phần đầu của tín khoản "Tôi tin kính một Chúa Giêsu
Kitô", và xem Tân Ước nói gì về Thần Khí là tác giả của sự hiểu biết chân
thực về Đức Kitô.
Thánh Phaolô quả quyết
rằng Đức Giêsu Kitô đã được "đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng,
xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần” (Rm 1,4), nghĩa là nhờ
hành động của Chúa Thánh Thần. Ngài cũng bảo "không ai có thể nói rằng: Đức
Giêsu là Chúa, nếu người đó không ở trong Thần Khí” (1Cr 12, 3), nếu người đó
không được soi sáng bên trong nhờ ánh sáng của Thần Khí. Ngài quy cho Chúa
Thánh Thần "sự hiểu biết mầu nhiệm Đức Kitô" đã được ban cho ngài,
như cho tất cả các thánh tông đồ và tiên tri (x. Ep 3,4-5); Ngài nói rằng các
tín hữu sẽ có thể "thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết
tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết” nếu họ "được
củng cố nhờ Thần Khí” (Ep 3,16-19).
Trong Phúc Âm Gioan,
chính Đức Giêsu đã loan báo công việc của Đấng Bảo Trợ đối với Ngài. Đấng ấy sẽ
lấy những gì của Ngài mà loan báo cho các môn đệ ; sẽ dẫn các môn đệ tới sự thật
toàn vẹn ; sẽ nói lại cho các môn đệ những gì đã nghe và loan báo cho các ông
biết những điều sẽ xẩy đến ; sẽ làm chứng về Ngài.. (x. Ga 16, 7-15). Kể từ đó,
đây sẽ là tiêu chuẩn để nhận ra ai được thần khí thật của Thiên Chúa tác động
chứ không phải một thần trí nào khác. Và thần khí thật của Thiên Chúa là thần
khí tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến và trở nên người phàm, thần khí ấy
bởi Thiên Chúa (x. 1Ga 4,2-3).
Một số người tin rằng
việc nhấn mạnh Chúa Thánh Thần ngày hôm nay có thể làm lu mờ công trình của Đức
Kitô, như thể công trình của Ngài là không đầy đủ hoặc cần cải thiện. Đó là một
sự hiểu lầm hoàn toàn. Thần Khí không bao giờ nói "Tôi", không bao giờ
nói ở ngôi thứ nhất, không đòi hỏi phải gây dựng công việc của mình, nhưng đơn
giản chỉ đề cập Đức Kitô. Đức Giêsu Kitô là Ðường, Sự Thật, Sự Sống ; Đấng Bảo
Trợ giúp hiểu tất cả điều đó !
Kết quả của việc Chúa
Thánh Thần đến vào ngày lễ Ngũ Tuần là sự soi sáng bất ngờ tất cả những gì Đức
Kitô là và đã làm. Phêrô kết thúc bài diễn từ ngày Ngũ Tuần bằng một định nghĩa
long trọng, mà ngày nay hẳn người ta sẽ gọi đó là bài diễn từ "urbi et
orbi" (cho thành phố Rôma và thế giới): "Toàn thể nhà Israel phải
biết chắc điều này : Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt
Người làm Đức Chúa (Kyrios) và làm Đấng Kitô” (Cv 2,36). Kể từ ngày đó, cộng đồng
đầu tiên bắt đầu đọc lại cuộc đời Đức Giêsu, sự chết và sống lại của Ngài, bằng
một cách khác ; mọi thứ trở nên rõ ràng, như thể tấm màn được cất đi (x. 2Cr
2,16). Mặc dù sống bên cạnh Ngài, nhưng nếu không có Thần Khí, họ không thể
thâm nhập mầu nhiệm sâu thẳm của Ngài.
Ngày nay, thần học
chính thống giáo và thần học công giáo gần với nhau về vấn đề tương quan giữa
công việc của Đức Kitô và công việc của Thần Khí. Nhà thần học Johannes
Zizioulas, trong một hội nghị ở Bologna vào năm 1980, một mặt đã bày tỏ những
dè dặt về khoa Giáo hội học của Vatican II vì, theo ông, "Chúa Thánh Thần
đi vào Giáo hội học sau khi lâu đài của Giáo Hội chỉ được xây dựng bằng các tài
liệu về Kitô học", nhưng mặt khác, ông công nhận rằng thần học chính thống
giáo cũng cần phải suy nghĩ lại mối quan hệ giữa Kitô học và Thánh thần học, để
không xây dựng khoa Giáo hội học chỉ dựa trên nền tảng Thánh thần học. Nói cách
khác, chúng ta, người La Tinh, được kích thích để đào sâu vai trò của Chúa
Thánh Thần trong đời sống của Giáo Hội và các anh em Chính thống giáo đào sâu
vai trò của Chúa Kitô và sự hiện diện của Giáo Hội trong lịch sử.
2. Sự hiểu biết
khách quan và sự hiểu biết chủ quan về Đức Kitô
Chúng ta hãy trở lại với
vai trò của Chúa Thánh Thần trong sự hiểu biết về Đức Kitô. Trong Tân Ước có
hai loại hiểu biết về Đức Kitô, hoặc hai lãnh vực mà Thần Khí thực hiện hành động
của mình. Có một sự hiểu biết khách quan về Đức Kitô, về hữu thể của Ngài, về mầu
nhiệm và con người của Ngài, và một sự hiểu biết chủ quan, chức năng và nội
tâm, có đối tượng là những gì Đức Giêsu "làm cho tôi" hơn là những gì
Ngài “là chính Ngài”.
Phaolô quan tâm hiểu
biết những gì Đức Giêsu Kitô đã làm cho chúng ta, vì hành động của Ngài và vì mầu
nhiệm vượt qua của Ngài ; còn Gioan thì quan tâm hơn đến những gì Đức Kitô là :
là Logos vĩnh cửu ngự bên Thiên Chúa, rồi đến thế gian làm người,
nhưng vẫn là một với Chúa Cha (Ga 10,30). Nhưng hai xu hướng này sẽ hiển nhiên
hơn trong những khai triển kế tiếp. Chúng ta nói vắn tắt hai xu hướng này, để
giúp chúng ta giữ lấy quà tặng mà Chúa Thánh Thần ban cho Giáo Hội ngày hôm nay
về vấn đề này.
Vào thời các Giáo Phụ,
Chúa Thánh Thần xuất hiện trước hết như là một Đấng bảo đảm cho truyền thống
tông đồ về Đức Giêsu, chống lại những cái mới của phái ngộ đạo. Theo thánh
Irênê, Giáo Hội đã nhận được hồng ân của Thiên Chúa là Thần Khí ; tất cả những
người tách khỏi sự thật do Giáo Hội rao giảng bằng các học thuyết sai lầm của
mình, đều không dự phần vào Giáo Hội. Tertullianô lập luận rằng Giáo Hội thời
tông đồ không thể sai lầm khi rao giảng chân lý. Suy nghĩ ngược lại có nghĩa là
"Chúa Thánh Thần, do Đức Kitô sai đến vì mục đích này, là Thầy dạy chân
lý, Đại Diện Đức Kitô và quản trị viên của Ngài, sẽ không làm tròn chức vụ của
mình".
Vào thời kỳ có những
tranh cãi lớn về tín lý, Chúa Thánh Thần được xem như là người bảo vệ sự chính
thống Kitô học. Tại các Công đồng, Giáo Hội chắc chắn được Thần Khí “linh hứng”
khi định ra sự thật về hai bản tính của Đức Kitô, sự hiệp nhất ngôi vị, và nhân
tính đầy đủ của Đức Kitô. Vậy rõ ràng Giáo Hội nhấn mạnh sự hiểu biết khách
quan, tín lý và giáo hội về Đức Kitô.
Xu hướng này nổi bật
trong thần học cho đến thời Cải Cách. Tuy nhiên có sự khác biệt. Những tín điều,
vốn là những vấn đề sinh tử vào thời điểm chúng được công thức hóa, là kết quả
của sự tham gia sống động của toàn thể Giáo Hội, một khi được thiết lập và truyền
đạt, có xu hướng mất đi sự nhạy cảm của chúng, trở thành giáo điều. "Hai bản
tính, một ngôi vị" là một công thức làm sẵn, hơn là kết quả của một quá
trình lâu dài và khó khăn. Trong suốt thời gian này, những kinh nghiệm đẹp đẽ về
sự hiểu biết Đức Kitô, một sự hiểu biết thân mật, cá nhân, đầy lòng mộ mến đối
với Ngài, chẳng hạn những kinh nghiệm của thánh Bênađô và Phanxicô Assisi,
không hề thiếu. Nhưng những kinh nghiệm này không ảnh hưởng nhiều đến thần học.
Ngay cả ngày hôm nay, người ta nói về chúng trong lịch sử linh đạo, không phải
trong lịch sử thần học.
Những nhà cải cách Tin
Lành làm đảo lộn hoàn cảnh và nói: "Biết Đức Kitô có nghĩa là nhận ra những
việc lành của Ngài, chứ không phải suy tư về những bản tính và sự nhập thể của
Ngài" (Melanchthon). Đức Kitô "cho tôi" đứng ở
vị trí đầu tiên. Chống lại sự hiểu biết khách quan, tín lý, là sự hiểu biết chủ
quan, thân mật ; chứng từ bên trong về Đức Giêsu do Chúa Thánh Thần trong lòng
mỗi tín hữu đi trước chứng từ bên ngoài của Giáo Hội về Đức Giêsu.
Khi sự canh tân thần học
trong đạo Tin Lành chính thức sau này có khuynh hướng biến thành sự "chính
thống chết chóc", thì các phong trào như Mộ đạo (Piétisme) trong giáo phái
Luthêrô và Mêthođích trong Anh giáo, sẽ xuất hiện để mang nó trở lại cuộc sống.
Đỉnh cao của sự hiểu biết về Đức Kitô, trong những môi trường này, trùng hợp với
thời điểm người tin hữu, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, ý thức rằng Đức Giêsu
đã chết “cho họ”, thực sự cho họ, và nhận ra Ngài là Đấng Cứu Độ cá nhân. Một
trong những người khởi xướng phong trào Mêthođích viết:
"Lần đầu tiên tôi
đã tin tưởng hết lòng;
tôi tin bằng một đức
tin thần linh,
và trong Chúa Thánh Thần,
tôi được có quyền
gọi Đấng Cứu Độ là của
tôi.
Tôi cảm thấy máu thục
hồi của Chúa tôi
trực tiếp trên tâm hồn
tôi".
Chúng ta bổ túc cái
nhìn sơ lược này về lịch sử bằng cách nói đôi chút về giai đoạn thứ ba trong
cách quan niệm về mối liên hệ giữa Chúa Thánh Thần và sự hiểu biết Đức Kitô, một
sự hiểu biết đặc trưng của thời Khai sáng, trong đó chúng ta là những người thừa
kế trực tiếp. Phương thức hiểu biết khách quan, tách rời, đã trở lại ; tuy
nhiên, nó không thuộc phạm trù hữu thể học nữa như trước đây, nhưng thuộc phạm
trù lịch sử. Nói cách khác, chúng ta không quan tâm đến việc biết Đức Kitô tự
mình như thế nào (sự tiền hữu, bản tính, ngôi vị của Ngài), cũng không phải Đức
Kitô là “cho tôi” như thế nào, nhưng quan tâm biết Ngài đã là thế nào trong thực
tại lịch sử. Đây là thời kỳ nghiên cứu xung quanh cái gọi là "Đức Giêsu lịch
sử"!
Ở mức này, Chúa Thánh
Thần không còn vai trò nào trong việc hiểu biết Đức Kitô nữa. "Chứng từ
bên trong" của Chúa Thánh Thần từ nay được đồng hóa với lý trí và tinh thần
con người. Chỉ có "chứng từ bên ngoài" là quan trọng. Và chứng từ
tông đồ của Giáo Hội không còn đáng kể nữa, chỉ duy nhất chứng từ của lịch sử,
được xác minh theo các phương pháp phê bình khác nhau. Giả định chung của nỗ lực
này là, để tìm ra Đức Giêsu thật, trước hết phải tìm kiếm bên ngoài Giáo hội,
giải thoát Ngài khỏi "những lớp vải bọc của tín điều thuộc Giáo Hội".
Chúng ta biết tất cả
các nghiên cứu này về Đức Giêsu lịch sử kết thúc ra sao : một thất bại. Nhưng
điều đó không có nghĩa là nó đã không mang lại nhiều kết quả tích cực. Về mặt
này, vẫn còn tồn tại một hiểu lầm cơ bản. Đức Giêsu Kitô - và theo sau Ngài là
những người khác, như thánh Phanxicô Assisi - không chỉ sống trong lịch sử, mà
còn tạo ra một lịch sử và bây giờ sống trong lịch sử mà ngài đã tạo ra, như một
âm thanh trong làn sóng mà nó gây ra. Các sử gia duy lý cố gắng tách Ngài khỏi
lịch sử mà Ngài đã tạo ra, để trả Ngài lại cho lịch sử chung và phổ quát, như
thể người ta có thể nhận thấy rõ hơn một âm thanh trong sự xác thực của nó, bằng
cách tách nó khỏi sóng âm thanh mang nó. Lịch sử mà Đức Giêsu đã khởi đầu, hay
làn sóng mà Ngài đã phát ra, là đức tin của Giáo Hội được Chúa Thánh Thần tác động.
Chỉ qua đó người ta mới trở về nguồn của nó.
Điều đó không loại trừ
tính hợp pháp của việc nghiên cứu thông thường về Ngài, nhưng cần phải nhận thức
rõ hơn về các giới hạn của nó, và phải thừa nhận rằng nó không làm khô cạn tất
cả những gì có thể biết về Đức Kitô. Cũng như hành vi cao quý nhất của lý trí
là thừa nhận rằng có cái gì đó vượt qua nó, hành vi trung thực nhất của một sử
gia là thừa nhận rằng có cái gì đó mà chỉ lịch sử thôi không thể đạt tới.
3. Sự hiểu biết cao
vời về Đức Kitô
Kết thúc tác phẩm cổ
điển của mình về lịch sử chú giải Kitô giáo, cha Henri de Lubac đã đưa ra một kết
luận khá bi quan. Theo ngài, những người hiện thời như chúng ta thiếu các điều
kiện cần thiết để hồi sinh một cách đọc thiêng liêng giống như các Giáo Phụ ;
chúng ta thiếu đức tin có đà tiến, thiếu ý thức về sự viên mãn và thống nhất mà
các ngài đã có đối với Kinh Thánh. Ngày nay, muốn bắt chước sự táo bạo của các
ngài trong việc đọc Kinh Thánh sẽ là một dạng tục hóa, nếu có thể nói được như
vậy, vì chúng ta thiếu tinh thần mà từ đó phát xuất ra những điều này. Tuy
nhiên, ngài đã không hoàn toàn đóng cửa hy vọng ; trong một tác phẩm khác, ngài
nói rằng "nếu chúng ta muốn tìm thấy lại cách giải thích Kinh Thánh theo
hướng thiêng liêng trong những thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội, trước hết chúng ta
phải tái tạo lại một phong trào thánh linh".
Điều mà Lubac chỉ ra về
cách hiểu Kinh Thánh theo hướng thiêng liêng càng áp dụng nhiều hơn cho sự hiểu
biết thiêng liêng về Chúa Kitô. Viết các khảo luận mới về Thánh thần học, các
khảo luận hiện đại hơn, thì không đủ. Nếu không có sự hỗ trợ của một kinh nghiệm
sống về Thần Khí, tương tự như cuộc sống kèm theo việc manh nha xây dựng thần học
về Chúa Thánh Thần ở thế kỳ IV, những gì chúng ta nói sẽ luôn ở bên ngoài vấn đề
thực sự. Chúng ta thiếu những điều kiện cần thiết để đưa mình lên ngang mức độ
của Đấng Bảo Trợ và hành động của Người : đà tiến, sự táo bạo và sự "sự
say sưa dịu dàng Thần Khí", mà hầu như mọi tác giả lớn của thế
kỷ này đều nói tới. Người ta không thể trình bày một Đức Kitô, được Thần Khí xức
dầu, nếu người ta không sống cách nào đó trong cùng một sự xức dầu như vậy.
Ngày nay, sự mới mẻ
tuyệt vời mà cha Lubac mong muốn được thực hiện. Trong thế kỷ vừa qua, một
"phong trào thánh linh" đã khai sinh và không ngừng mở rộng, tạo cơ sở
để đổi mới khoa Thánh thần học khởi đi từ kinh nghiệm Thần Khí và các đặc sủng
của Người. Tôi nói về hiện tượng Ngũ Tuần và đặc sủng. Trong suốt 50 năm đầu
tiên hiện hữu, phong trào này, phát sinh (giống như phong trào Mộ đạo và
Mêthođích nhắc ở trên) do phản ứng chống lại khuynh hướng duy lý và tự do của
thần học, đã tự ý bỏ qua thần học và, đến lượt mình, đã bị thần học bỏ qua (thậm
chí chế nhạo nữa).
Nhưng khi vào giữa thế
kỷ trước, nó đã xâm nhập vào các Giáo Hội truyền thống, được trang bị một
phương tiện thần học to lớn và nhận được sự hoan nghênh thuyết phục từ các phẩm
trật liên hệ, thì thần học không còn có thể bỏ qua nó nữa. Trong một cuốn sách
có tựa đề "Khám phá lại Thần Khí. Kinh nghiệm và thần học về Chúa Thánh Thần”,
các nhà thần học nổi tiếng nhất lúc đó, cả Công Giáo lẫn Tin Lành, đã thảo luận
về ý nghĩa của phong trào Ngũ tuần và đặc sủng này đối với việc đổi mới giáo
thuyết về Chúa Thánh Thần.
Vào lúc này, điều làm
chúng ta quan tâm chỉ là trên phương diện hiểu biết về Chúa Kitô. Người ta thấy
sự hiểu biết nào về Đức Kitô đang xuất hiện trong môi trường thiêng liêng và thần
học mới này ? Sự kiện có ý nghĩa nhất không phải là khám phá ra các viễn tượng
mới và phương pháp luận mới được triết lý của thời điểm này (thuyết cấu trúc,
phân tích ngôn ngữ...) gợi ra, nhưng là tái khám phá chân lý Kinh thánh sơ đẳng
: Đức Giêsu Kitô là Chúa ! Quyền làm chúa của Đức Kitô là một thế giới mới,
trong đó con người đi vào "dưới tác động của Chúa Thánh Thần".
Thánh Phaolô nói về một
sự hiểu biết Đức Kitô ở mức độ cao hơn, thậm chí cao cả, bao gồm việc nhận ra
Ngài và loan báo Ngài là "Chúa" (x. Pl 3,8). Lời công bố này, kết hợp
với niềm tin vào sự phục sinh của Đức Kitô, biến đổi một con người và cứu thoát
người đó: "Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng
Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm
10,9). Nhưng sự hiểu biết này chỉ có thể đến từ Chúa Thánh Thần: "Không ai
có thể nói rằng: "Đức Giêsu là Chúa", nếu người ấy không ở trong Thần
Khí” (1Cr 12,3). Dĩ nhiên, mỗi người có thể nói những lời này bằng đôi môi của
mình, dù không có Chúa Thánh Thần, nhưng điều đó sẽ không bao giờ là điều quan
trọng mà chúng ta vừa nói ; người đó sẽ không trở thành một người "được cứu".
Có gì đặc biệt trong lời
tuyên bố này khiến cho nó trở thành quan trọng? Người ta có thể giải thích từ
các phương diện khác nhau, khách quan và chủ quan. Sức mạnh khách quan của câu
"Đức Giêsu là Chúa" là do nó hiện tại hóa lịch sử, đặc biệt mầu nhiệm
vượt qua. Đây là kết luận rút ra từ hai biến cố : Đức Giêsu Kitô đã chết vì tội
lỗi chúng ta ; Ngài đã sống lại để làm cho ta được nên công chính ; vậy Ngài là
Chúa. "Vì Đức Kitô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng
như kẻ chết” (Rm 14,9). Các biến cố chuẩn bị nó như được chứa đựng trong câu kết
luận này, và trong đó nó đã trở nên hiện thực và hoạt động. Trong trường hợp
này chữ thực sự là "ngôi nhà của hữu thể" (M. Heidegger). Lời công bố:
"Đức Giêsu là Chúa" là hạt giống đã sinh ra tất cả khởi giảng và rồi
trở thành lời loan báo Kitô giáo.
Về phương diện chủ
quan - có nghĩa là về những gì phụ thuộc vào chúng ta - sức mạnh của lời công bố
này là do nó giả thiết một quyết định. Người công bố nó quyết định ý nghĩa của
cuộc đời mình. Như thể ông ta nói: "Ngài là Chúa của tôi ; tôi phục tùng
Ngài, tôi tự do công nhận Ngài là vị cứu tinh của tôi, thủ lãnh của tôi, chủ
nhân của tôi, người có tất cả các quyền đối với tôi. Tôi thuộc về Ngài nhiều
hơn tôi thuộc về bản thân mình, vì Ngài đã trả giá đắt mà chuộc tôi” (x. 1Cr 6,
19 tt).
Khía cạnh "quyết
định" này được ghi trong lời công bố Đức Giêsu là “Chúa" có một chiều
kích đặc biệt ngày nay. Một số người tin rằng có thể, thậm chí cần thiết, phải
từ bỏ luận đề về sự duy nhất của Đức Kitô, để cổ võ đối thoại giữa các tôn giáo
khác nhau. Thế mà, công bố Đức Giêsu là "Chúa" có nghĩa là công bố sự
duy nhất của Ngài. Không phải vô ích mà chúng ta tuyên xưng trong tín điều:
"Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô".
Thánh Phaolô viết:
"Mặc dù người ta cho là có những thần ở trên trời hay dưới đất – quả thật
thần cũng lắm mà chúa cũng nhiều – nhưng đối với chúng ta, chỉ có một Thiên
Chúa là Cha, Đấng tạo thành vạn vật và là cùng đích của chúng ta ; và cũng chỉ
có một Chúa là Đức Giêsu Kitô, nhờ Người mà vạn vật được tạo thành, và nhờ Người
mà chúng ta được hiện hữu” (1Cr 8,5-6).
Thánh Tông Đồ đã viết
những lời trên đây vào lúc đức tin Kitô giáo, tuy nhỏ bé và vừa mới khai sinh,
đang mở ra cho một thế giới bị thống trị bởi các phụng tự và tôn giáo quyền lực
và có uy tín. Sự can đảm phải có ngày hôm nay để tin rằng Đức Giêsu là
"Chúa duy nhất", không là gì so với sự can đảm cần thiết vào thời đó.
Nhưng "quyền năng của Thần Khí" chỉ được ban cho những ai công bố Đức
Giêsu là "Chúa", trong ý nghĩa đầy quyền năng nguyên thủy. Đó là một
vấn đề kinh nghiệm. Chỉ sau khi một nhà thần học hay một người loan báo đã quyết
định đặt cược mọi thứ về Đức Giêsu Kitô, "một Chúa duy nhất", nhưng
thực sự là tất cả, ngay cả khi có nguy cơ bị "đuổi ra khỏi hội đường",
thì chỉ lúc đó người này mới có kinh nghiệm về một sự chắc chắn mới, một quyền
năng mới, trong đời sống và thừa tác vụ của mình.
4. Từ Đức Giêsu
"nhân vật" đến Đức Giêsu "con người"
Việc khám phá Đức
Giêsu là "Chúa" thì, như tôi đã nói, là nét mới và ân sủng mà Thiên
Chúa ban cho Giáo Hội của Người hôm nay. Tôi nhận thấy khi tra vấn Truyền Thống
về tất cả các chủ đề khác và những lời của Kinh Thánh, tôi tìm thấy nhiều chứng
từ của các Giáo Phụ ; nhưng khi tôi cố tra vấn Truyền Thống về vấn đề này, thì
Truyền Thống im lặng trên thực tế. Ngay từ thế kỷ thứ ba, danh hiệu Chúa không
còn được hiểu theo nghĩa khởi giảng của nó ; bên ngoài khuôn khổ tôn giáo của
người Do Thái, nó không đủ để diễn tả hoàn toàn sự duy nhất của Đức Kitô.
Origen coi "Chúa" (Kyrios) là tước hiệu được sử dụng cho người còn
trong giai đoạn sợ hãi ; theo ông, tương quan Chúa-tôi tớ ở dưới tương quan Thầy-môn
đệ.
Chắc chắn chúng ta tiếp
tục nói về Đức Giêsu là "Chúa", nhưng tước hiệu này đã trở
thành danh xưng của Đức Kitô giống như những danh xưng khác, thậm chí là một
trong những yếu tố làm thành danh xưng đầy đủ của Đức Kitô: "Đức Giêsu
Kitô Chúa chúng ta". Nhưng nói "Đức Giêsu Kitô Chúa
chúng ta" là một chuyện, nói "Đức Giêsu Kitô là Chúa chúng ta!"
lại là một chuyện khác. Cách dịch đoạn thư Philíp 2,11, trong bản Phổ thông
(Vulgata) là một chỉ dẫn của sự thay đổi này: "Omnis lingua confiteatur
quia Dominus noster Iesus Christus in gloria est Dei Patris", “mọi miệng
lưỡi tuyên xưng rằng Chúa chúng ta Đức Giêsu Kitô ở trong vinh quang của Thiên
Chúa Cha”. Nhưng nói "Chúa chúng ta Đức Giêsu Kitô ở trong vinh quang của
Thiên Chúa Cha" là một chuyện, và nói "Đức Giêsu Kitô là Chúa, làm
vinh danh cho Thiên Chúa Cha" là chuyện khác. Bằng cách này,
nghĩa là cách dịch thịnh hành hiện nay, chúng ta không chỉ phát âm một danh
xưng, mà còn tuyên xưng đức tin.
Trong tất cả những điều
ấy, đâu là bước nhảy vọt về phẩm chất mà Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta hiểu
biết về Đức Kitô ? Bước nhảy vọt ấy ở trong sự kiện là lời công bố Đức Giêsu là
Chúa giúp chúng ta hiểu biết về Đức Kitô sống lại và hằng sống ! Không còn là một
Đức Kitô "nhân vật" nữa, mà là một Đức Kitô "con người" ;
không còn là một tập hợp các chủ đề, tín điều (và lạc giáo), không chỉ là đối
tượng thờ phượng và tưởng niệm, mà còn là một con người sống và hằng hiện diện
bằng Thần Khí của Ngài.
Sự hiểu biết thiêng
liêng và hiện sinh về Đức Giêsu là Chúa không cho phép chúng ta bỏ qua sự hiểu
biết khách quan, tín lý và giáo hội về Đức Kitô, nhưng làm cho nó có một sinh
khí mới. Theo thánh Irênê, nhờ Chúa Thánh Thần, chân lý được mạc khải,
"như một kho tàng quý giá lưu giữ trong chiếc bình có giá trị, luôn luôn
tươi trẻ và cũng làm tươi trẻ chiếc bình chứa đựng nó".
Trong bài suy niệm
sau, chúng ta sẽ dành cho phần thứ hai của tín khoản: "Được sinh ra mà
không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha”.
Cuối bài suy niệm này,
tôi thiết nghĩ không có quyết định nào tốt hơn quyết định mà người ta có thể đọc
ở đầu Tông thư Evangelii Gaudium của Đức Giáo Hoàng Phanxicô:
"Tôi mời gọi mọi
Kitô hữu ở khắp nơi, ngay lúc này, đi vào một cuộc gặp gỡ cá vị và mới mẻ với Đức
Giêsu Kitô, hay ít là mở lòng ra để cho Chúa Giêsu gặp gỡ mình ; tôi xin tất cả
anh chị em không ngừng làm điều này mỗi ngày. Không ai được nghĩ rằng lời mời gọi
này không phải dành cho mình” (số 3).
LM Micae Trần Đình Quảng
Chuyển ngữ từ: cantalamessa.org (10.03.2017)
Nguồn: simonhoadalat.com
1. See John D. Zizioulas, “Cristologia, pneumatologia e istituzioni ecclesiastiche: un punto di vista ortodosso,” in Cristianesimo nella storia, 2 (1981): pp. 111-127.
2.St. Irenaeus of Lyons, Against Heresies, 3, 24, 1-2, eds. Alexander Roberts et al. (South Bend, IN: Ex Fontibus, 2012), p. 356.
3.Tertullian, Prescription against Heretics, 28, 1 (Pickerington, OH: Beloved Publishing, 2015), p. 35; see also CC 1, p. 209.
4.Philip Melanchthon, The Loci communes [1521], trans. Charles Hill (Boston: Meador, 1944), p. 69; see also Corpus Reformatorum, ed. Henricus Ernestus Bindseil (Brunsvigae: C. A. Schwetschke, 1854), p. 85.
5.Charles Wesley, hymn, “Glory to God and Praise and Love,” in The United Methodist Hymnal, #58.
6.See Albert Schweizer, The Quest of the Historical Jesus, trans. William Montgomery (Mineola, NY: Dover, 2005), p. 397.
7.Blaise Pascal, Pensées, trans. A. J. Krailsheimer (New York: Penguin Classics, 1995), p. 54; #267, Brunschvicg edition.
8.Henri de Lubac, Medieval Exegesis: The Four Senses of Scripture, vol. 2, trans. E. M. Macierowski (Grand Rapids: Eerdmans, 2000), p. 63.
9.Henri de Lubac, History and the Spirit: The Understanding of Scripture According to Origen (San Francisco: Ignatius Press, 2007), p. 450.
10.See Claus Heitmann and Heribert Mühlen, eds., Erfahrung und Theologie des Heiligen Geistes (Munich: Kösel, 1974); see also Yves Congar, I Believe in the Holy Spirit, Part 2, trans. Geoffrey Chapman (New York: Crossroad Publishing, 1983), pp. 151ff; Jürgen Moltmann, The Spirit of Life, trans. Margaret Kohl (Minneapolis: Augsburg Fortress, 1992); Michael Welker, God the Spirit, trans. John F. Hoffmeyer (Eugene, OR: Wipf and Stock, 2013), p. 7ff.
11.A famous formulation by the philosopher Martin Heidegger in his “Letter on Humanism,” in Martin Heidegger: Basic Writings, ed. David Farrell Krell (New York: HarperCollins, 2008), p. 217.
12.See Origen, Commentary on the Gospel According to John 1, 201-203, trans. Ronald Heine, vol. 80, The Fathers of the Church (Washington, DC: Catholic University of America Press, 1989), p. 74; SCh 120, p. 158.
13.St. Irenaeus of Lyons, Against Heresies, 3, 24, 1, p. 355.