BÀI GIẢNG THỨ SÁU TUẦN THÁNH
CỦA VỊ GIẢNG THUYẾT PHỦ GIÁO HOÀNG
NĂM 1981: “ANH EM ĐÃ GIẾT ĐỨC GIÊSU NADARÉT”
Đây là bài giảng của Đức Hồng y Raniero Cantalamessa OFM
Cap, giảng thuyết Phủ Giáo Hoàng vào Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1981 với sự hiện diện
của Đức Giáo Hoàng và Giáo triều Roma. Mở đầu bài giảng, ngài nói:
Ngày
lễ Ngũ Tuần, Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một, nói với dân chúng một bài diễn
từ có thể tóm tắt trong ba câu. Nhưng trong ba cầu này, mỗi câu lại như một tiếng
sét ngang tai: “Anh em đã giết Đức Giẹsu Nadarét! […] Thiên Chúa đã làm
cho Người sống lại! […] Anh em hãy sám hối!” (x. Cv 2,23 tt)
Tôi
muốn thu thập ba câu này và làm chúng sống lại nơi anh chị em, hy vọng chúng chọc
thủng trái tim chúng ta, như đã chọc thủng trái tim của những người nghe chính
miệng các tông đồ nói. Ba ngàn người nghe những lời tố giác kinh khủng của
Phêrô chắc chắn không thuộc số những người đã đóng đinh trên đồi Canvê; có lẽ họ
cũng không thuộc nhóm những người đã đòi Philatô đóng đinh Đức Giêsu. Vậy tại
sao Phêrô nói họ đã giết Ngài? Bởi vì họ thuộc về dân đã giết Chúa. Bởi vì họ
đã không đón nhận tin mừng Đức Giêsu đem đến cho họ: “Triều đại Thiên
Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vao Tin Mừng.” (Mc 1,15) Bởi
vì có lẽ khi Đức Giêsu đi trên những đường phố ở Giêrusalem, họ đã hạ tấm rèm
che của hàng bé nhỏ của họ, để khỏi phiền phức.
Cho
tới đây, chúng ta gợi lại những sự việc này và cảm thấy khá bình thản. Chúng ta
dường như thấy tất cả những chuyện đó có liên hệ với những người sống ở
Palestin thời Đức Giêsu, chứ không liên hệ gì đến chúng ta. Chúng ta
cũng giống như vua Đavit, một hôm sau khi đã nghe tiên tri Nathan kể câu chuyện
về một tội tầy đình trong thành phố, đã kêu lên: “Kẻ nào làm điều ấy thật
đáng chết!” (2Sm 12,5).
Trong
những năm sau Thế chiến II, người ta rất say mê với vấn đề ai chịu trách nhiệm
về cái chết của Đức Kitô, vì trong nhiều sự kiện, có bi kịch mà dân Do thái đã
phải chịu. Sách vở và kịch nghệ về vụ án Đức Kitô có vô số. Những hệ quả quan
trọng đã có thể phát xuất từ giải đáp cho vấn đề này, liên hệ đến cuộc đấu
tranh giải phóng tại nhiều nơi trên thế giới, trong số những chuyện khác. Vấn đề
về cái chết của Đức Kitô trở thành một vấn đề chủ yếu mang tính lịch sử, và như
vậy là có nét trung tính. Nếu nó liên hệ đến chúng ta, thì chỉ là gián tiếp, đối
với những hệ quả có thể rút ra cho ngày hôm nay; không phải cách trực tiếp, đến
độ chúng ta có phần trong đó. Dầu sao, không phải với tư cách bị cáo, nhưng
đúng hơn với tư cách nguyên cáo.
Một
số người gán cho quyền lực tôn giáo tội làm cho Đức Giêsu phải chết, tức là cho
những người Do thái đương thời. Một số khác gán cho quyền lực chính trị, tức
cho người Rôma, và như vậy biến Đức Giêsu thành vị tử đạo cho cuộc đấu tranh giải
phóng. Cuối cùng một số khác tố cáo một trật cả hai quyền lực đó. Giống như
trong một vụ xử án mà mỗi người, với ít nhiều ý thức, lặp lại trong thâm tâm
câu nói của Philatô: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này” (Mt
27,24).
Thế
nhưng, ngày hôm đó, tiên tri Nathan đã chỉ thẳng vào Đavít mà nói: “Kẻ
đó chính là Đức vua!” Chính xác đó là điều Thiên Chúa nói với chúng
ta, khi chúng ta muốn biết xem ai là người đã giết Đức Giêsu: Kẻ đó, chính là
ngươi! Chính ngươi đã giết Đức Giêsu Nadaret’. Ngày hôm ấy, người đã ở đó. Người
đã cùng đám đông hò hét: Đóng đinh nó đi!” Ngươi đã ở bên Phêrô khi Phêrô chối
Ngài. Ngươi đã ở bên Giuđa khi Giuđa trao nộp Ngài. Ngươi đã ở bên quân lính
khi chúng đánh đòn Ngài. Ngươi đã thêm chiếc gai nhọn của ngươi vào mạo gai,
ngươi đã khạc nhổ thêm vào mặt Ngài. Sự chắc chắn này thuộc về trọng tâm chủ yếu
nhất của những gì chúng ta tin: “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta” (Rm
4,25). Từ xa xưa, tiên tri Isaia đã diễn tả trước chân lý này bằng kiểu nói kịch
tính như sau:
“Người đã mang lấy những bệnh tật
của chúng ta,
đã gánh chịu những đau khổ của
chúng ta.
Người đã bị đâm vì chúng ta phạm
tội,
bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm.
Người đã mang thương tích cho
chúng ta được chữa lành” (Is
53,4 tt)
Tất
cả chúng ta đều chịu trách nhiệm về cái chết của Ngài, vì chúng ta đều phạm tội,
và nếu chúng ta nói mình vô tội là chúng ta nói dối (x. 1Ga 1,10). Nhưng
nói “Đức Giêsu đã chết vì tội lỗi chúng ta” cũng có nghĩa là:
“Chúng ta đã giết Đức Giêsu!” Về những người lại phạm tội sau khi chịu phép Rửa
(tức chúng ta), thư Do thái nói rằng “họ đã tự tay đóng đinh Con Thiên
Chúa vào thập giá một lần nữa, và đã công khai sỉ nhục Người” (Dt
6,6).
Khi
nghe những lời tố giác kinh khủng: “Anh em đã giết Đức Giêsu Nadarét”,
3000 người nghe đau đớn trong lòng và hỏi Phêrô cùng các Tông Đồ khác: “Thưa
các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?” (Cv 2,37) Một nỗi lo sợ chiếm
lĩnh tâm hồn họ, và cũng chiếm lĩnh tâm hồn chúng ta lúc này, nếu chúng ta
không phải là gỗ đá. Làm sao không rụng rời khi nghĩ đến điều này: Thiên Chúa
đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Người Con Một duy nhất (x. Ga 3,16),
trong khi để đáp lại, chúng ta đã giết Người Con này! Chúng ta đã giết chết Sự
Sống! (x. Cv 3,15)
Bao
lâu chúng ta chưa trải qua khủng hoảng nội tâm này, những “sợ và run” này
(x. Pl 2,12), chúng ta không thật sự là những Kitô hữu đạt tới trưởng thành,
nhưng chỉ là những Kitô hữu phôi thai đang tìm tới ánh sáng. Bao lâu bạn chưa cảm
thấy, ít nhật một lần trong đời, thật sự hư mất, đáng bị phạt, như một người bị
đắm chìm đáng thương, bạn không biết máu Đức Kitô cứu bạn như thế nào; bạn
không biết mình nói gì khi bạn gọi Đức Giêsu là “Chúa Cứu” của bạn; nói cho
nghiêm túc, bạn thậm chí không thể biết những đau khổ của Đức Kitô, cũng không
biết khóc trên những đau khổ đó. Như thế hẳn là giả hình, vì chỉ người nào xác
tín thâm sâu là chính mình đã làm cho Dức Kitô phải khổ, mới thực sự biết những
đau khổ của Ngài. Đức Giêsu hẳn có thể nói với bạn, như Ngài đã nói với những
phụ nữ đạo đức ở Giêrusalem: “Đừng khóc thương ta; có khóc thì khóc cho
phận mình và tội lỗi của mình” (x. Lc 23,28).
***
Khủng
hoảng này có thể được giải quyết theo hai cách: hoặc theo cách của Giuđa, người
đã nói: “Tôi đã phạm tội nộp người vô tội”, và anh
ta đi thắt cổ (x. Mt 27,4 tt), hoặc theo cách của Phêrô, ra ngoài “khóc
lóc thảm thiết” (Mt 26,75). Cảm nghiệm được sức mạnh của sám hối, giờ
đây Phêrô có thể chỉ cho các anh em mình con đường cứu độ, khi ông mạnh mẽ kêu
lên: “Anh em hãy sám hối!” (Cv 3,19)
Thế
nhưng lời trên đây có nghĩa gì? Thực hiện nó như thế nào? Nó được thực hiện khi
người ta đi từ tình trạng quy tội sang tình trạng thú
tội; khi mà, sau lúc đã nghe ai nói: “Bạn đã giết Đức Giêsu Nadarét!”, bạn
đấm ngực và chân thành nói với chính mình: Phải, chính tôi đã giết Đức Giêsu
Nadarét! Sự tiến triển này chỉ tùy thuộc vào chúng ta: nó là công trình của
Chúa Thánh Thần, Đấng “chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi” (Ga
16,8). Một điều gì đó giống như phép lạ. Khi điều đó xẩy ra, cũng những hiện tượng
có thể quan sát thấy hôm đó trong thiên nhiên xẩy ra một cách thiêng liêng,
trong tâm hồn một con người. Tấm khăn che phủ tâm trí của anh ta bị rách; trái
tim đá của anh ta vỡ ra; nấm mồ trong đó anh ta bị giam giữ như tù nhân của tội
lỗi mở toang; cuối cùng anh ta là một con người tự do. Anh được tái sinh vào một
đời sống mới.
Nếu
chân thành và tự do, thú tội là một việc làm lớn lao biết bao, xứng với con người.
Nó cho phép Thiên Chúa là chính mình, nghĩa là “một Thiên Chúa tha thứ
các tội lỗi” (x. Mk 7.18). Khi đứng về phía Thiên Chúa chống lại chính
mình, con người đưa Thiên Chúa tới chỗ cũng làm như thế: đứng về phía con người,
chống lại chính mình, chống lại sự công chính riêng của mình – vì thương xót,
chứ không vì cần thiết. Quả thực, Thiên Chúa muốn minh chứng cho thấy Ngài
thương xót thế gian, nhưng không thể làm điều đó nếu con người chối bỏ chính đối
tượng thương xót của Thiên Chúa là tội lỗi của mình. Một “tấm lòng khiêm cung
tan nát” (x. Tv 51,19; Is 57,15), đó là điều Thiên Chúa khó có được nhất. Để có
được như thế, sự toàn năng của Ngài không đủ, còn phải có sự tự do của chúng
ta. Đó cũng là sự việc cao quý nhất, làm cho trái tim Thiên Chúa xúc động nhất.
Thiên Chúa phán: “Trời là ngai của Ta, và đất là bệ dưới chân Ta…Kẻ được
Ta đoái nhìn, đó là người nghèo khó, người có tâm hồn tan nát.” (Is
66,1-2)
Thế
nhưng chính đó lại là điều bất hạnh của chúng ta: chúng ta không thật sự và
hoàn toàn nhận biết tội của chúng ta. Chúng ta nói: “Thực ra, tôi đã làm chi xấu?”
Nhưng bạn hãy nghe tôi, vì lúc này tôi đang nói với tâm hồn tội lỗi của tôi, mà
cũng nói với tâm hồn tội lỗi của bạn. Bạn không thấy tội lỗi của mình sao? Hãy
biết rằng tội của bạn chính là đã không nhìn thấy tội của mình. Tội của bạn là
tự cho mình là công chính; là cho mình hoàn toàn đang sống tốt với Thiên Chúa
và với mọi người, ngay cả khi bạn nói mình là tội nhân. Chính vì đã mạnh mẽ tố
giác tội này nơi các người biệt phái mà Đức Giêsu lại trở lại với thập giá.
Khi
cho mình là công chính, cuối cùng bạn không còn hiểu thập giá của Đức Kitô,
cũng không vác nó nữa. Bạn cho là chính bạn và mọi người đang phải chịu một nỗi
đau buồn không tương xứng, quá lớn nên không đổ lỗi cho Thiên Chúa, Đấng cho
phép nó xẩy ra. Ôi, ước gì chúng ta hiểu được một lần điều Kinh Thánh nói
là “Có hạ nhục và làm khổ người ta, Thiên Chúa cũng chẳng vui vẻ gì” (x.
Ac 3,33), và trước nỗi gian truân của dân Người, trái tim Người thổn thức trong
Người và ruột gan Người bối rối (x. Hs 11,8). Khi ấy phản ứng của ta sẽ hoàn
toàn khác, và chúng ta, đúng hơn, sẽ kêu lên: “Lậy Cha, xin tha thứ cho chúng
con đã vì tội lỗi thúc bách mà đối xử tệ bạc với Con yêu dấu của Cha! Xin tha
thứ cho chúng con lúc này đang buộc Cha phải làm khổ chúng tôi để chúng con có
thể tự cứu mình, trong lúc Cha, giống như bất cứ người cha nào, và còn hơn đến
vô cùng, chỉ muốn dành "những điều tốt đẹp" cho con cái Cha! Xin tha
thứ cho chúng tôi vì đã buộc Cha phải tước đi niềm vui ban cho chúng tôi, ngay
từ đời này, niềm hạnh phúc mà vì đó Cha đã tác tạo nên chúng con.”
Khi
tôi còn bé, có một hôm tôi đã không nghe lời cha tôi khi đi chân không ở một
nơi mà ông đã khuyên tôi đừng đi. Một mảnh thủy tinh lớn đã đâm vào gan bàn
chân tôi. Lúc ấy đang có chiến tranh, và người cha đáng thương của tôi đã phải
liều mạng đưa tôi đến nhà thương quân đội đồng minh gần nhất. Trong khi người
ta cố lấy mảnh thủy tinh ra và săn sóc vết thương, tôi thấy cha tôi vặn tay tỏ
vẻ thất vọng và quay mặt về phía tường để khỏi nhìn thấy. Nếu khi trở về nhà,
tôi đã trách ông đã để cho tôi phải đau đớn như thế mà không làm gì cả, thì tôi
là thứ con cái nào đây? Tuy vậy, chính đó là điều chúng ta làm nhiều lần đối với
Thiên Chúa.
Thực
ra điều ngược lại mới đúng. Chính chúng ta mới làm cho Thiên Chúa phải khổ, chứ
không phải Thiên Chúa làm cho chúng ta đau khổ. Nhưng chúng ta đã làm cho chân
lý này biến tính, đến độ tự hỏi sau mỗi tai họa mới: “Thiên Chúa ở đâu? Sao
Thiên Chúa lại cho phép điều đó xẩy ra?” Đúng. Thiên Chúa hẳn cũng có thể cứu
chúng ta mà không cần thập giá, nhưng đó lại là chuyện khác; và Người biết rằng
một ngày kia chúng ta sẽ phải xấu hổ vì đã được cứu theo cách này, một cách thụ
động, không cộng tác gì vào hạnh phúc của chúng ta.
Tất
cả chúng ta đều đã phạm tội và bị tước đi vinh quang của Thiên Chúa (x. Rm
3,23); vì vậy lời của Phêrô là nói cho mọi người: “Anh em hãy sám hối!” (Cv
3,19). Sám hối: đó là lời cứu độ tuyệt hảo của ngày hôm nay. Sách Khải huyền chứa
đựng bẩy lá thư gửi cho các giáo đoàn ở Tiểu Á (x. Cv 2-3). Mỗi lá thứ đều kết
thúc bằng lời cảnh báo: “Ai có tai thì nghe điềuThần Khí nói với các HộiThánh” (Cv
2,7.11.17. 29; 3.6.13.22). Nếu chú ý đọc, chúng ta sẽ thấy trọng tâm của mỗi lá
thư đều có từ metanòeson, tuyệt đối ưu tiên, có nghĩa là: “Hãy sám
hối! Hãy ăn năn!” Ai có tai để nghe điều Thần Khí hôm nay nói với các Giáo hội,
đều biết rằng cũng chỉ là lời: hãy sám hối!
Ngày
9/10/1963, ở vùng Frioules, đêm hôm trước lúc xẩy ra chuyện vỡ đập Vajont gây
ra tai họa kinh khủng như chúng ta đều biết, người ta đã nghe thấy những tiếng
vỡ nứt phát ra từ hướng đó nhưng không ai để ý. Một điều tương tự cũng xẩy ra
nơi chúng ta, nếu chúng ta biết lắng nghe. Thế giới chúng ta xây dựng cho mình
bằng những bất công và phản loạn vô trách nhiệm chống lại các điều răn của
Thiên Chúa, thế giới đó cũng đang nứt vỡ. Có mùi khét trong không khí. Nếu
Gioan Tẩy Giả còn sống thì ông đã phải kêu lên: “Cái rìu đã đặt sát gốc
cây. Các anh hãy sám hối!” (x. Mt 3,10)
Thế
giới vô tín không thấy rõ nét lời đe dọa lơ lửng trên không này; nhưng họ phản ứng
hoàn toàn khác: xây những hầm trú chống bom nguyên tử! Có những quốc gia đầu tư
cho chương trình này một phần ngân sách đáng kể. Như thể, bằng cách đó, người
ta có thể giải quyết vấn đề. Người Kitô hữu chúng ta cũng đang đi tìm một hầm
trú chống bom nguyên tử, nhưng hầm trú chống bom nguyên tử của chúng ta, “con tầu
ông Noe” của chúng ta, chính là điều mà chúng ta đã nói, tức là sám hối tội lỗi
chúng ta. Người xây dựng cuộc đời trên đá tảng vững chắc là Thiên Chúa thì
không gì cũng như không ai có thể làm cho họ phải sợ hãi. Họ cùng với tác giả
Thánh vịnh ca lên:
“Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu,
là sức mạnh của ta.
Người luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ
khi ta phải ngặt nghèo.
Nên dầu cho địa cầu chuyển động,
núi đồi có sập xuống biển sâu
ta cũng chẳng sợ gì!” (Tv 46,2-3)
Đối
với thế giới không bị kiểm soát đe dọa hủy diệt chúng ta, tôi cảm thấy mình có
thể nói trong đức tin: để cho con phải chịu điều xấu, Chúa không có một phần
ngàn sức mạnh như con có để chịu đựng nó! Bởi vì “Với Đấng ban sức mạnh
cho tôi, tôi chịu được hết” (Pl 4,13). Đấng ấy đã nói: “Can đảm
lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33). Và tôi tin vào điều đó!
***
Giờ
đây, chúng ta đề cập lời khác trong lời rao giảng của Phêrô: “Nhưng
Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết.” (Cv 3,15) Khi cho Đức
Giêsu trỗi dậy từ cõi chết, Thiên Chúa đã biến đổi tội lớn nhất của chúng ta
thành lòng thương xót lớn nhất. Khi giết Đức Giêsu, chúng ta đã giết chính tội
lỗi của chúng ta mà Ngài đã mang lấy. Chỉ người nào đón nhận tận đáy lòng lời
sám hối, bây giờ mới có thể thưởng thức tràn trề ánh sáng và niềm vui ẩn chứa
trong lời loan báo phục sinh vui mừng này. Ai biết người ta cảm thấy thế nào
khi nói: “Tôi đã giết Đức Giêsu Nadaret”, người đó cũng biết “được tái
sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống
lại” (x. Pr 1,3) nghĩa là gì. Giống như một người tin chắc mình đã giết
một ai đó, phải chạy trốn, tuyệt vọng, nghĩ rằng từ đây không còn gì có thể cứu
anh ta ở thế gian này, và đột nhiên anh biết người anh tưởng là đã bị giết vẫn
đang sống, tha thứ cho anh, hơn nữa, còn đi tìm anh để kết thân với anh.
Chính
tội lỗi cũng không làm chúng ta sợ nữa. vì chúng ta không chỉ một mình mang nó.
Đức Giêsu “đã sống lại để chúng ta được nên công chính” (x. Rm
4,25), tức là để có thể mang lấy tội ta đổi lấy sự công chính của ta. Người sám
hối là người cùng với Đức Giêsu xuống địa ngục, “được dìm vào trong sự
chết của Ngài” (x. Rm 6,3), và kể từ nay, như được Đức Giêsu lôi kéo
và cùng với Ngài ra khỏi mồ, hướng tới đời sống mới: “Thiên Chúa giầu
lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa
ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô.” (Ep
2,4-5)
Có
thể bạn nghĩ rằng tin vui này không phải cho bạn, vì bạn đã thấy tấm màn xé ra
và mắt bạn không trào ra những giọt lệ thống hối. Đừng buồn bã cũng đừng thất vọng:
đấy chính là một ân huệ của Thiên Chúa, và Ngài có thể ban cho bạn một lúc nào
đó, hoặc ban dần dần, có lẽ vào lúc bạn ít mong chờ nhất. Bạn chỉ cần tiếp tục
nài van và ước ao ân huệ đó, đừng thấy mệt nhọc mà ngưng nghỉ, như chính tôi
cũng đang làm như vậy. Nếu bạn nhiệt thành muốn sám hối, tức là bạn đã sám hối
rồi! Hãy để bạn “được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống
động” (x. 1Pr 1,3); hãy bắt đầu sống như người được sống lại. Hãy nhìn
xem hàng ngàn người chung quanh bạn và tự nhủ: “Đây là những người anh chị em
tôi, tất cả đều là anh chị em tôi”. Hãy đi ra và nhìn với đôi mắt mới những người
bạn gặp gỡ, những người trong gia đình, trong cộng đồng, trong nơi làm việc, và
tự nhủ: “Đây là những anh chị em tôi, tất cả đều là anh chi em tôi!” “Tất cả đều
được sinh ra trong trái tim Đức Giêsu bị đâm thâu vì tội lỗi của ta!
Lúc
này, chính Đấng Phục Sinh đang nói với chúng ta. Đây là những lời đầy lòng tin
và phấn khởi, trong một buổi phụng vụ như đang cử hành đây, do Đức Giám mục của
một trong bẩy giáo đoàn Tiểu Á nói ra, cho những buổi đầu của Giáo hội:
“Chính
Tôi đã phá hủy sự chết, đã chiến thắng kẻ thù, đã làm cho con người rất vui
thích ở trên đỉnh trời. Nào, anh em hãy đến, tất cả mọi dòng giống nhân loại,
đang chìm sâu trong tội lỗi. Hãy nhận lãnh ơn tha thứ tội lỗi, vì Tôi là ơn tha
thứ của anh em. Chính Tôi là sự Vượt Qua cứu độ, là Con Chiên bị tế sát vì anh
em, là giá chuộc của anh em, là sự sống của anh em, là sự sống lại của anh em,
là ánh sáng của anh em, là vua của anh em. Tôi sẽ chỉ cho anh em thấy Cúa Cha” [Melitô
Sarđê, Sur la Pâque, 102-103].
Lm. Micae Trần Đình Quảng
Chuyển ngữ từ: Raniero Cantalamessa, Nous prêchons un
Christ crucifié, EdB, 2018, pp. 35-44
Nguồn: simonhoadalat.com