Đức Lêô XIV, Bài giảng Chúa nhật 7 Phục sinh năm C (01/6/2025) - Năm thánh của các gia đình, trẻ em, ông bà và người cao tuổi

Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 7 Phục sinh năm C (12/5/2013) - Thánh lễ phong thánh


Đức Lêô XIV, Bài giảng Chúa nhật 7 Phục sinh năm C (01/6/2025) - Năm thánh của các gia đình, trẻ em, ông bà và người cao tuổi

Chúng ta vừa nghe Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu, trong Bữa Tiệc Ly, cầu nguyện cho chúng ta (x. Ga 17,20): Ngôi Lời Thiên Chúa, đã trở nên người, nay đã gần đến cuối cuộc đời trần thế, vẫn luôn nghĩ về chúng ta, về những người anh em của Ngài, trở thành nguồn phúc lành, lời cầu nguyện và lời ca tụng Chúa Cha, nhờ sức mạnh của Thánh Thần. Và chúng ta, khi bước vào trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, sẽ tràn đầy sự ngạc nhiên và niềm tin, đồng thời cũng bị cuốn vào chính tình yêu của Ngài trong một công cuộc vĩ đại, liên quan đến toàn thể nhân loại.

Thật vậy, Đức Kitô cầu xin để tất cả chúng ta “nên một” (x. Ga 17,21). Đây là điều thiện hảo lớn lao nhất mà chúng ta có thể ước mong, bởi vì sự hiệp nhất phổ quát này thể hiện nơi các thụ tạo sự hiệp thông tình yêu vĩnh cửu, chính là bản chất của Thiên Chúa: như Chúa Cha là Đấng ban sự sống, Chúa Con là Đấng đón nhận, và Chúa Thánh Thần là Đấng sẻ chia sự sống ấy.

Chúa không muốn chúng ta, để trở nên hiệp nhất, bị hòa tan vào một khối vô danh, như một đám đông mơ hồ, nhưng Người mong chúng ta nên một: «Như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng nên một trong chúng ta» (x. Ga 17,21). Sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu cầu nguyện là một sự hiệp thông, được đặt nền trên chính tình yêu mà Thiên Chúa yêu thương – tình yêu mà từ đó sự sống và ơn cứu độ được trao ban cho thế giới. Và như thế, sự hiệp nhất trước tiên là một hồng ân, mà chính Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta. Thật vậy, từ trái tim nhân loại của Người, Con Thiên Chúa hướng về Chúa Cha mà thưa rằng:
«Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một, và để thế gian nhận biết rằng Cha đã sai Con và đã yêu thương họ như đã yêu thương Con» (x. Ga 17,23).

Chúng ta lắng nghe những lời này trong sự ngưỡng mộ: Chúa Giêsu đang mạc khải rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta như chính Người. Chúa Cha không yêu chúng ta ít hơn Con Một của Ngài, nghĩa là yêu thương vô biên. Thiên Chúa không yêu thương ít hơn, bởi vì Ngài yêu trước, yêu trước hết! Chính Chúa Kitô làm chứng điều này khi thưa với Chúa Cha: «Cha đã yêu con trước khi tạo thành thế gian» (x. Ga 17,24). Thật vậy, trong lòng thương xót của Người, Thiên Chúa luôn muốn ôm lấy mọi người trong vòng tay của mình, và chính sự sống của Người, được trao ban cho chúng ta trong Đức Kitô, làm cho chúng ta nên một, hiệp nhất với nhau.

Việc lắng nghe Tin Mừng hôm nay, trong dịp Năm Thánh dành cho các Gia đình và Trẻ em, cho các Ông Bà và Người cao tuổi, làm tâm hồn chúng ta tràn đầy niềm vui.

Anh chị em thân mến, chúng ta đã lãnh nhận sự sống trước khi mình kịp ước muốn nó. Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã dạy: «Mọi người đều là con cái, nhưng không ai trong chúng ta chọn được việc sinh ra» (Kinh Truyền Tin, ngày 1 tháng 1 năm 2025). Không chỉ vậy, ngay từ lúc chào đời, chúng ta đã cần đến người khác để sống – tự mình, chúng ta không thể tồn tại: chính người khác đã cứu sống chúng ta, chăm sóc cho thân xác và cả linh hồn chúng ta. Do đó, tất cả chúng ta sống nhờ vào một mối tương quan – một liên kết tự do và giải thoát, của tình người và sự chăm sóc lẫn nhau.

Đúng là đôi khi tình người này bị phản bội. Chẳng hạn, mỗi khi người ta nhân danh tự do để tước đoạt sự sống thay vì trao ban nó, để làm tổn thương thay vì cứu giúp. Tuy nhiên, ngay cả trước sự dữ, chia rẽ và bạo lực, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục cầu nguyện với Chúa Cha cho chúng ta, và lời cầu nguyện của Người như dầu xoa dịu các vết thương, trở thành lời loan báo tha thứ và hòa giải cho tất cả mọi người. Chính lời cầu nguyện ấy mặc khải ý nghĩa sâu xa nhất của những giây phút sáng ngời tình yêu thương giữa cha mẹ, ông bà, con cái. Và đó là điều chúng ta muốn loan báo cho thế giới: chúng ta ở đây để nên “một” như Chúa mong chúng ta “nên một”, trong các gia đình và tại nơi mình sống, làm việc, học tập: khác biệt mà nên một, đông đảo mà nên một, luôn luôn, trong mọi hoàn cảnh và mọi giai đoạn của cuộc đời.

Anh chị em thân mến, nếu chúng ta yêu thương nhau như thế, đặt nền tảng nơi Đức Kitô, Đấng là “Alpha và Omega”, “Khởi đầu và Tận cùng” (x. Kh 22,13), thì chúng ta sẽ là dấu chỉ bình an cho mọi người, trong xã hội và trên thế giới. Và chúng ta đừng quên: từ gia đình mà tương lai của các dân tộc được sinh ra.

Trong những thập niên gần đây, chúng ta đã nhận được một dấu chỉ vừa tràn đầy niềm vui vừa đầy suy tư: đó là việc Giáo hội tuyên phong Chân phước và Hiển Thánh cho các đôi vợ chồng, không phải riêng lẻ, nhưng cùng nhau, như các đôi bạn đời. Tôi nghĩ đến Louis và Zélie Martin, cha mẹ của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu; cũng như Chân phước Luigi và Maria Beltrame Quattrocchi, sống đời gia đình tại Rôma trong thế kỷ trước. Và cũng đừng quên gia đình người Ba Lan Ulma: cha mẹ và các con được hợp nhất trong tình yêu và tử đạo. Tôi đã nói rằng đây là một dấu chỉ đáng suy nghĩ. Thật vậy, khi nêu gương các đôi vợ chồng thánh thiện, Giáo hội đang nói với chúng ta rằng thế giới hôm nay cần đến giao ước hôn nhân để có thể nhận biết và đón nhận tình yêu của Thiên Chúa, và để vượt thắng – bằng sức mạnh tình yêu hiệp nhất và hòa giải – mọi thế lực gây chia rẽ các mối tương quan và xã hội.

Vì thế, với trái tim đầy lòng biết ơn và hy vọng, tôi xin nói với anh chị em – những người sống đời hôn nhân:

Hôn nhân không phải là một lý tưởng, nhưng là quy luật của tình yêu chân thật giữa người nam và người nữ: một tình yêu trọn vẹn, trung tín, sinh hoa trái (x. Thánh Phaolô VI, Thông điệp Humanae Vitae, số 9). Khi làm cho hai người trở nên một thân thể, tình yêu này cũng làm cho họ có khả năng – theo hình ảnh Thiên Chúa – trao ban sự sống.

Vì vậy, tôi khích lệ anh chị em hãy là gương mẫu sống động cho con cái mình, bằng cách sống đúng như những gì anh chị em mong muốn nơi chúng: dạy dỗ chúng sống tự do thông qua sự vâng phục, luôn tìm kiếm điều tốt nơi chúng và cách để phát triển điều đó.

Còn các con, hãy biết ơn cha mẹ mình: biết nói “cảm ơn” vì món quà sự sống, và vì tất cả những gì đi kèm theo đó mỗi ngày – đó là cách đầu tiên để giữ điều răn: “hãy thảo kính cha mẹ” (x. Xh 20,12).

Cuối cùng, với các ông bà và người cao tuổi thân yêu, tôi khuyên anh chị em hãy canh thức trên những người thân yêu, với sự khôn ngoan và cảm thông, với khiêm tốn và kiên nhẫn, những điều mà tuổi đời đã dạy cho anh chị em.

Trong gia đình, đức tin được truyền lại cùng với sự sống, từ thế hệ này sang thế hệ khác: được chia sẻ như lương thực trên bàn ăn và như tình cảm trong tim. Gia đình như thế trở thành nơi đặc biệt để gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng luôn yêu thương và muốn điều tốt nhất cho chúng ta.

Và tôi muốn nói thêm một điều cuối cùng.

Lời cầu nguyện của Con Thiên Chúa, Đấng luôn nâng đỡ niềm hy vọng của chúng ta trên hành trình cuộc sống, cũng nhắc chúng ta rằng một ngày kia, tất cả chúng ta sẽ nên “một” (unum – x. Thánh Augustinô, Bài giảng trên Thánh vịnh 127): nên một trong Đấng Cứu Độ duy nhất, được ôm ấp trong tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa.

Không chỉ chúng ta, mà còn cả cha mẹ, ông bà, anh chị em và con cái của chúng ta – những người đã đi trước chúng ta trong ánh sáng của lễ Vượt Qua vĩnh cửu – mà hôm nay chúng ta cảm nhận như đang hiện diện nơi đây, cùng với chúng ta, trong giây phút hân hoan này.

Nguồn: vaticannews.va/vi


Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 7 Phục sinh năm C (12/5/2013) – Thánh lễ phong thánh

Anh chị em thân mến,

Trong Chúa nhật 7 Phục sinh hôm nay, chúng ta quy tụ trong niềm hân hoan để cử hành một thánh lễ thánh thiện. Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã làm cho vinh quang của Người – vinh quang của Tình Yêu – chiếu sáng nơi các Thánh Tử đạo Otranto, nơi Mẹ Laura Montoya và Mẹ María Guadalupe García Zavala. Tôi xin chào tất cả anh chị em đã đến tham dự buổi cử hành này – từ Ý, Colombia, Mexico và các quốc gia khác – và tôi xin cảm ơn anh chị em!

Chúng ta hãy chiêm ngắm các vị thánh mới trong ánh sáng của Lời Chúa vừa được công bố. Đó là Lời mời gọi chúng ta trung thành với Đức Kitô, thậm chí đến mức tử đạo; nhắc nhở chúng ta về sự cấp thiết và vẻ đẹp của việc mang Đức Kitô và Tin Mừng của Người đến cho mọi người; và nói với chúng ta về chứng tá của đức ái, mà nếu thiếu nó thì ngay cả sự tử đạo và sứ vụ cũng mất đi hương vị Kitô giáo.

Sách Công vụ Tông đồ kể về Phó tế Stêphanô, vị Tử đạo tiên khởi, có viết rằng thánh nhân là người “đầy Thánh Thần” (Cv 6,5; 7,55). Điều này có nghĩa gì? Nghĩa là ngài tràn đầy Tình Yêu của Thiên Chúa, toàn bộ con người và cuộc sống của ngài được Thần Khí của Đức Kitô Phục Sinh soi dẫn, để ngài theo bước Đức Giêsu với sự trung thành trọn vẹn, đến mức hiến dâng chính mình.

Hôm nay, Giáo Hội đề nghị cho chúng ta tôn kính một đoàn binh các vị tử đạo, đã được cùng nhau kêu gọi đạt tới chứng tá tột đỉnh về Tin Mừng vào năm 1480. Khoảng 800 người, sống sót sau cuộc bao vây và xâm lăng của quân Ottoman ở thành Otranto, đã bị chém đầu gần thành phố ấy. Họ khước từ không chối bỏ đức tin và đã chịu chết trong lúc tuyên xứng Chúa Kitô phục sinh. Từ đâu họ tìm được sức mạnh để trung thành như thế? Thưa là chính nơi đức tin, làm cho họ nhìn xa hơn những giới hạn của cái nhìn con người, vượt xa hơn biên cương của đời sống trần thế, đức tin làm cho họ chiêm ngắm “các tầng trời mở rộng” như thánh Stephano đã nói - và Chúa Kitô sống động ở bên hữu Chúa Cha.

Các bạn thân mến, chúng ta hãy bảo tồn đức tin chúng ta đã nhận lãnh, và là kho tàng đích thực của chúng ta, chúng ta hãy canh tân lòng trung thành với Chúa, dù giữa những chướng ngại và không được thông cảm; Thiên Chúa không bao giờ để cho chúng ta thiếu sức mạnh và sự thanh thản. Trong khi chúng ta tôn kính các vị tử đạo thành Otranto, chúng ta hãy cầu xin Chúa nâng đỡ bao nhiêu tín hữu Kitô ngày nay và tại nhiều nơi trên thế giới đang còn phải chịu bạo lực và xin Chúa ban cho họ lòng can đảm trung thành và đáp lại sự ác bằng sự thiện.

Đức Thánh Cha nói tiếp bằng tiếng Tây Ban Nha và nhắc đến thánh nữ Laura Montoya mẫu gương truyền giáo, vị thánh đầu tiên của Giáo hội tại Colombia:

Chúng ta có thể rút ra ý tưởng thứ hai từ lời của Đức Giêsu mà chúng ta đã nghe trong Tin Mừng: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17,20).

Thánh Laura Montoya là “khí cụ” truyền giáo trước tiên như một giáo viên rồi như người mẹ tinh thần của các thổ dân, những người mà Mẹ mang lại hy vọng cho họ, đón tiếp họ với tình thương đã học từ Thiên Chúa và đưa họ đến cùng Chúa bằng một phương pháp sư phạm hữu hiệu, tôn trọng nền văn hóa của họ và không chống lại nền văn hóa ấy. Trong công trình truyền giảng Tin Mừng, Mẹ Laura thực sự trở nên mọi sự cho mọi người, như lời thánh Phaolô (Xc 1 Cr 9,33). Cả ngày nay, các con cái tinh thần của thánh nữ đang sống và mang Tin Mừng đến những nơi xa xăm nhất và túng thiếu, như một thứ tiền tuyến của Giáo Hội.

Vị thánh đầu tiên sinh ra tại đất nước Colombia tươi đẹp này dạy chúng ta hãy quảng đại với Thiên Chúa, và không sống đức tin một mình, như thế có thể sống đức tin một cách cô lập, nhưng biết thông truyền đức tin, mang niềm vui Tin Mừng bằng lời nói và chứng tá cuộc sống trong mọi môi trường chúng ta sống. Tại bất kỳ nơi nào chúng ta sinh sống, hãy chiếu tỏa cuộc sống Tin Mừng. Thánh nữ dạy chúng ta nhìn tôn nhan Chúa Giêsu phản ánh nơi tha nhân, vượt thắng sự dửng dưng và cá nhân chủ nghĩa, làm hao mòn cộng đồng Kitô và tâm hồn chúng ta, đón nhận mọi người không thành kiến, không cưỡng bách, nhưng với tình thương, trao ban những gì tốt đẹp nhất của chúng ta cho họ và nhất là chia sẻ với họ điều mà chúng ta có quí giá nhất, không phải là công trình của chúng ta, và điều mà chúng ta sở hữu, nhưng chỉ mình Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài.

Cuối cùng, một ý tưởng thứ ba. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha bằng những lời này: “Con đã tỏ cho họ biết danh Cha, và con sẽ còn tỏ cho họ biết, để tình yêu mà Cha đã yêu con ở trong họ, và con cũng ở trong họ” (Ga 17,26). Sự trung thành của các vị tử đạo đến mức chết và việc loan báo Tin Mừng cho mọi người đều bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu đã được đổ tràn vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần (x. Rm 5,5), và trong chứng tá mà chúng ta phải mang lại trong cuộc sống của mình cho tình yêu này.

trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu cầu nguyện với những lời này: “Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa” (Ga 17,26). Lòng trung thành của các vị tử đạo cho đến chết và việc công bố Tin Mừng cho mọi người ăn rễ sâu nơi tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu được ban xuống trong tâm hồn chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần (Xc Rm 5,5), và trong chứng tá mà chúng ta làm chứng về tình thương này trong đời sống hằng ngày của chúng ta.

Thánh nữ María Guadalupe García Zavala đã biết rõ điều đó. Khi từ bỏ một cuộc sống tiện nghi thoải mái - cuộc sống này và thái độ trưởng giả của tâm hồn mang lại bao nhiêu thiệt hại - khi từ bỏ cuộc sống tiện nghi như thế để theo tiếng gọi của Chúa Giêsu, thánh nữ dạy ta yêu mến sự thanh bần, để có thể yêu mến người nghèo và bệnh nhân hơn nữa. Mẹ Lupita đã quì xuống trên nền nhà thương trước những bệnh nhân và người bị bỏ rơi để phục vụ họ với lòng dịu dàng và cảm thương. Và điều này có nghĩa là động chạm đến thân xác Chúa Kitô. Cac bệnh nhân, người nghèo, người sắp chết là thân mình Chúa Kitô. Cả ngày nay con cái tinh thần của Mẹ cũng đang tìm cách phản chiếu tình thương của Thiên Chúa qua các hoạt động bác ái, không nề quản hy sinh và đương đầu với bất kỳ chướng ngại nào bằng dịu dàng, kiêm trì tông đồ và can đảm.

Vị tân thánh nữ người Mêhicô này mời gọi chúng ta hãy yêu mến như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta, và điều này có nghĩa là không co cụm vào mình, trong những vấn đề, các ý tưởng, tư lợi của mình, nhưng đi ra ngoài và gặp gỡ những người đang cần được quan tâm, cảm thông, giúp đỡ, để mang lại cho họ sự gần gũi nồng nhiệt của tình yêu Thiên Chúa, qua những cử chỉ tế nhị và yêu thương chân thành.

Lòng trung thành với Chúa Kitô và Tin Mừng của Chúa, để loan báo bằng lời nói và cuộc sống, làm chứng về tình yêu của Thiên Chúa bằng tình thương của chúng ta, bằng đức bác ái của chúng ta với tất cả mọi người: đó là những tấm gương sáng ngời và giáo huấn mà ba vị thánh được tôn phong hôm nay cống hiến cho chúng ta, và cũng gợi lên những câu hỏi cho đời sống Kitô của chúng ta: Tôi trung thành với Chúa Kitô như thế nào? Chúng ta hãy mang theo mình câu hỏi này trong ngày hôm nay. Tôi có khả năng làm cho thấy đức tin của tôi trong niềm tôn trọng, nhưng với lòng can đảm hay không? Tôi có chú ý đến tha nhân, tôi có nhận ra người đang ở trong tình trạng túng quẫn, tôi có thấy nơi mọi người là những anh chị em của tôi cần được yêu thương hay không? Chúng ta hãy cầu xin, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria và các thánh mới, xin Chúa làm đầy cuộc sống của ta bằng niềm vui tình thương của Ngài. Amen.

Nguồn: archivioradiovaticana.va