GIÁO PHẬN XUÂN LỘC
TÂM TÌNH MỤC TỬ THÁNG 8/2025
"Đức Maria, khuôn mẫu một đời hành hương…"
Quý Cha và quý Tu sĩ thân mến,
Đức Thánh Cha Phanxicô, trong sắc chỉ công bố Năm Thánh, ban hành ngày 09. 5. 2024, đã giáo huấn: ‘Đời sống Kitô hữu là một con đường cần những khoảnh khắc mạnh mẽ (Năm Thánh)… Hành hương là yếu tố cơ bản của mọi sự kiện Năm Thánh… Những người hành hương của hy vọng sẽ không bỏ lỡ việc bước đi trên những con đường cổ xưa và hiện đại để sống kinh nghiệm Năm Thánh một cách mãnh liệt’ (Spes non Confundit, n. 5). Cửa Năm Thánh được mở biểu tượng vòng tay Thiên Chúa qua Giáo hội giang rộng chào đón muôn dân trong chan hòa tình thương và ân phúc.
Niên lịch phụng vụ ấn định ngày 15 tháng tám, Giáo hội cử hành đại lễ Đức Mẹ Hồn Xác về Trời. Trong tinh thần Năm Thánh, đại lễ này khơi lên trong lòng chúng ta sự ngưỡng mộ thành tựu một đời ‘hành hương’ của Đức Mẹ. Bước đi của Mẹ trải suốt thời gian của lịch sử loài người: Từ vườn địa đàng, nơi đây, Đức Chúa đã phán với ‘con rắn tinh ranh’ (Kn 3:1): ‘Ta sẽ đặt hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa dòng giống ngươi và dòng giống người đàn bà. Dòng giống người đàn bà sẽ đạp đầu ngươi’ (Kn 3: 15)… Tới ‘Trời mới đất mới’ (Kh 21: 1), Mẹ xuất hiện. Mẹ là người đã hành hương qua ‘cửa trời’, ‘này một cửa mở ra trên trời’ (Kh 4:1), đến bên ngai Thiên Chúa… ‘Một dấu lạ vĩ đại hiện ra trên trời: một Bà có mặt trời bao quanh, chân trên mặt trăng, và đầu có triều thiên mười hai sao… Và Bà đã sinh con, một con trai, Đấng sẽ lấy trượng sắt chăn dắt các dân hết thảy. Và con Bà đã được cất bồng lên nơi Thiên Chúa, lên ngai của Người’ (Kh 12: 1.5).
Đức Hồng y Raniero Cantalamessa[1] đã đặt vào cho Đức Maria điều Thánh Phaolô nói với cộng đoàn Côrintô được thành tựu như ‘một bức thư, không được viết bằng mực nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa, không phải trên bia đá mà là trên bia lòng bia thịt’ (x. 2Cr 3: 2.3). Hiểu theo nghĩa này, Mẹ Maria quả thực là một bức thư của Thiên Chúa, bức thư đặc biệt và duy nhất, được viết trên tấm thân, trong trái tim đầy lòng tin, cậy, mến, trái tim một người Mẹ. Truyền thống đã tiếp nhận ý tưởng này khi nói về Đức Maria như ‘một cuốn sách vĩ đại’ mà soạn giả là Chúa Thánh Thần (Thánh Épiphane). Chúng ta đọc bức thư này của Thiên Chúa trên nền Kinh Thánh, nhờ các Giáo phụ, Truyền thống, thần học, nghệ thuật thánh và các thi nhân… Và nhân tố quan trọng nhất cần nhắc nhở chính là Chúa Thánh Thần… Chúng ta đọc Lời Chúa về Mẹ Maria bằng Chúa Thánh Thần.
Một
Giữa dòng lịch sử nhân loại, Mẹ hiện hữu vào thời điểm Chúa Cha đưa các lời hứa đến hoàn thành, Thánh Phaolô gọi là ‘thời viên mãn’, ‘Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật’ (Gal 4: 4).
Trong Tân Ước, Mẹ Maria tuy không được nói đến thường xuyên, nhưng Mẹ lại hiện diện trong ba thời điểm chính yếu làm thành Mầu nhiệm Kitô giáo: Nhập Thể, Vượt Qua và Ngũ Tuần. Đức Maria là người duy nhất trong mọi thụ tạo làm chứng nhân và là người tham dự cả ba biến cố đó.
Hai
Mầu nhiệm Nhập Thể khắc đậm biến cố Đấng Cứu Thế là ‘Lời đã thành xác phàm, và đã lưu trú nơi chúng tôi, và chúng tôi đã được ngắm vinh quang của Ngài, vinh quang như của Con một tự nơi Cha, tràn đầy ơn nghĩa và sự thật’ (Ga 1: 14).
Bức thư sống động của Thiên Chúa, Mẹ Maria, khởi đầu với một từ ngữ sâu xa đến nỗi hàm chứa tất cả đời sống của Mẹ: ‘Ân sủng’, ‘Vui lên, hỡi Đấng đầy Ân sủng!’. Ân sủng là chân tính sâu thẳm nhất của Mẹ Maria. Ân sủng là lời giải thích trọn vẹn về Mẹ Maria, về sự cao trọng và vẻ đẹp của Mẹ. Đầy Ân sủng là được Thiên Chúa yêu nồng nàn. ‘Hiện hữu, đó là được yêu’ (G. Marcel).
Đọc bức thư sống động là Mẹ Maria, ta khám phá ‘văn phong’ của Thiên Chúa. Tertulianô viết: ‘Không gì làm trí óc con người phải kinh ngạc sững sờ bằng sự đơn giản trong các công trình Thiên Chúa thực hiện trước mắt chúng ta, sánh với sự kỳ vĩ của những hiệu quả phát sinh từ đó’. Câu nói ám chỉ hiệu quả lớn lao của phép Rửa làm sáng tỏ những gì liên quan đến Mẹ Maria và Đấng Cứu Thế. Đây là cách hành động ‘không cân đối’ của Thiên Chúa, ‘không cân đối’ giữa điều thấy được từ bên ngoài và điều được thực hiện bên trong. Nhìn từ bên ngoài, Đức Maria là gì, nơi thôn làng của mình? Chẳng có gì đáng chú ý cả. Đối với họ hàng, với người đồng hương, Maria đơn giản là một thiếu nữ khiêm tốn, hẳn là dễ thương, nhưng không có gì đặc biệt khác thường… trong khi Người là Mẹ của Ngôi Lời nhập thể. Hai đặc tính trong ‘văn phong’ của Thiên Chúa: ‘đơn giản và kỳ vĩ’ được viết nên Đức Maria bằng sự kỳ vĩ Ân sủng với sự đơn giản tới mức tuyệt đối.
Điều cao cả xảy ra tại Nazareth, sau lời chào của sứ thần, đó là việc Đức Maria đã tin liên hệ vào lời đáp xin vâng. ‘Với lời đáp đó, Đức Maria như muốn thưa lên với Thiên Chúa: Này con đây, con là bản viết, xin văn nhân cứ viết điều Người muốn, xin Chúa của vạn sự dùng con theo như tôn ý của Người’ (Origène). ‘Đức Maria, là người đầy lòng tin và cưu mang Đức Kitô trong tâm hồn trước khi cưu mang trong lòng dạ’ (T. Augustinô).
Lòng tin của Mẹ Maria là ‘tin một mình với Thiên Chúa’, đến người bạn đời ‘công chính’ cũng không hay biết gì, toan định âm thầm ‘đi xa’. Nếu tin là ‘tiến bước trên một con đường mà tất cả các tấm bảng đều báo: lui lại, lui lại!’, nếu tin là ‘lênh đênh giữa trùng khơi, dưới chân là biển sâu thăm thẳm’, nếu tin là ‘thực hiện một động tác qua đó ta thấy mình như hoàn toàn bị quăng ném vào cánh tay của tuyệt đối’ như triết gia S. Kierkegaard trải nghiệm, thì chắc chắn Đức Maria là kẻ tin tuyệt vời, thực sự ở trong tình trạng bị ném vào cánh tay tuyệt đối. Mẹ đã tin trong sự cô đơn hoàn toàn. Nếu Chúa Giêsu nói với Toma: ‘Bởi thấy Thầy, con đã tin, phúc cho ai không thấy mà tin’ (Ga 20: 29) thì Đức Maria là người đầu tiên trong số những kẻ đã tin dù chưa được thấy.
Hành vi tin của Đức Maria thật đẹp, bởi đó là tiếng ‘vâng’ của tân nương ngỏ với tân lang trong hôn lễ, tiếng vâng diễn cảm trong tự do trọn vẹn. Tiếng ‘vâng’ không đơn thuần là một hành vi nhân linh mà còn là hành vi thần linh, hành vi được Chúa Thánh Thần khơi lên từ thẳm sâu tâm hồn Mẹ, nhân linh bởi bản tính, thần linh bởi Ân sủng. Thánh Augustinô khuyến khích: ‘Đức Maria đã tin và điều Người tin đã xẩy ra nơi Người. Chúng ta cũng hãy tin, ngõ hầu điều xẩy ra nơi Người cũng ích lợi cho chúng ta’.
Suy niệm về Đức Maria ‘đầy Ân sủng’ đưa chúng ta đến mầu nhiệm Truyền Tin. Suy niệm về Đức Maria ‘Kẻ đã tin’, dẫn đến mầu nhiệm Thăm Viếng. Từng ‘ngụm nước mát đầu nguồn’ này đưa chúng ta vào mầu nhiệm Đức Maria ‘Mẹ Thiên Chúa’.
‘Mẹ’ không phải là một tước hiệu như các tước hiệu khác thêm vào bên ngoài. ‘Mẹ’ là cái thật ‘hữu thể’, ăn sâu vào chính người Mẹ. ‘Làm Mẹ’ là biến cố xẩy đến một lần mãi mãi. Khi nói về Đức Maria, Kinh Thánh luôn làm nổi bật hai yếu tố chính, hội thành thực tại làm mẹ đích thực, trọn vẹn: ‘Và này, nơi lòng dạ, Người sẽ thụ thai và sinh con’ (Lc 1: 31). Giáo hội Latinh nhấn mạnh ý nghĩa ‘thụ thai’, gọi Mẹ là ‘Dei Genetrix’ và Giáo hội Hy lạp nhấn mạnh ý nghĩa ‘sinh hạ’, gọi Mẹ là ‘Theotokos’ (tikto nghĩa là tôi sinh hạ).
Đức Maria đi liền vào mầu nhiệm Thiên Chúa. ‘Các nghị phụ Công đồng Ephêsô không sợ gọi Đức Trinh Nữ là Mẹ Thiên Chúa, chắc chắn không phải vì bản tính của Ngôi Lời hay thần tính của Ngài phát xuất từ Đức Maria, mà thân xác thánh thiện của Ngài được sinh ra, một thân xác được phú ban một linh hồn có lý trí, và Ngôi Lời đã kết hợp với thân xác đó đến mức, cùng với thân xác đó làm thành một Ngôi vị duy nhất’ (Thánh Cyrille d’ Alexandrie).
Đức Maria là người đã neo chặt Thiên Chúa vào trần gian, vào nhân loại. Bằng mẫu tính thần linh và nhân linh trọn vẹn của Người, Người đã làm cho Thiên Chúa mãi mãi trở thành Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Ba
Chúng ta muốn theo chân Đức Maria trong mầu nhiệm Vượt Qua và để cho Người dẫn dắt chúng ta tới sự hiểu biết Đức Kitô sâu xa hơn.
Thánh Luca trình bày cuộc đời công khai của Đức Giêsu là một ‘cuộc đi lên Giêrusalem’. ‘Dầu là Con, Ngài đã phải đau khổ dãi dầu mà học cho biết vâng phục’ (Hr 5: 8). Đức Maria đã đi vào mầu nhiệm tự hủy[2] với Chúa Giêsu suốt cuộc đời.
Dịp đại lễ tại Giêrusalem, Mẹ đau khổ lạc mất Con ba ngày. Tại tiệc cưới Cana, Mẹ nghe những lời ‘còn khoảng cách’, ‘cứng cỏi’: ‘Này Bà, giữa Tôi và Bà, nào có việc gì?’ (Ga 2: 4). Những lần giữa đám đông, Mẹ có lẽ đã phải ra đi mà không gặp Con mình, đôi tai còn âm vang lời như thể ‘chối từ’ Mẹ, ‘Mẹ và anh em Ta là ai nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa’, ‘Phải hơn, phúc cho những ai nghe lời Thiên Chúa và noi giữ’. Mẹ như hạt lúa dần dần tự hủy. Hạt lúa có ‘tội lỗi’ gì để phải chết trong lòng đất? Không có tội gì cả, nó chết đi để nó sai hoa lắm quả. Hay như con tằm đã ‘phạm tội’ gì đến nỗi phải trải qua sự hủy mình đi? Chẳng có tội lỗi gì cả. Trước kia nó bò sát mặt đất, giờ đây trong điều kiện sống mới, nó bay cao trong ‘tự do chất ngất’.
Chúng ta tiếp tục hành hương cùng với Mẹ vào mầu nhiệm Vượt Qua với lời của tông đồ Chúa Giêsu yêu là người ‘đã trông thấy và người biết là đã nói thật’ (Ga 19: 35): ‘Đứng bên khổ giá Đức Giêsu có Mẹ Ngài, Đức Maria, vợ Clopas, và Maria người Magdala. Vậy Đức Giêsu thấy Mẹ Ngài, và môn đệ Ngài yêu đứng bên cạnh thì Ngài nói với Mẹ: ‘Hỡi Bà, này là con Bà’, đoạn lại nói với môn đồ: ‘Này là Mẹ con’. Và từ giờ đó, môn đồ đã lãnh Bà về nhà mình’ (Ga 19: 25-27). Đức Maria đã sống những năm cuối đời với Gioan, là môn đệ Chúa yêu. Môn đệ Chúa yêu nhận nhiệm vụ bổn phận thay người Con Mẹ yêu dấu… Sống dưới cùng một mái nhà với Mẹ, hẳn là Tin Mừng Gioan, người được tựa đầu vào ngực Chúa và người đã lãnh Mẹ về nhà mình, viết ra phải rất ‘nặng ký’ và điều Ngài đã nhận từ Chúa, từ Mẹ, Ngài truyền lại cho Giáo hội ‘Và Lời đã thành xác phàm’… Ngài đã trông thấy và biết mình nói thật…
Khi trình bày Đức Maria dưới chân Thập giá, Gioan đã đặt Đức Maria vào ngay trung tâm của mầu nhiệmVượt Qua. Mẹ có mặt trong cả sự thất bại chết chóc và cả trong sự tôn vinh của Con mình. ‘Đứng bên khổ giá, có Mẹ Ngài’ có nghĩa là Mẹ chứng kiến tất cả… tham dự trọn vẹn cuộc khổ nạn… nghe tiếng la hét ‘không phải hắn mà là Baraba!’, đã thấy ‘Ecce homo’ (Này là người), đã nhìn thấy thịt bởi thịt mình bị đòn roi đẫm máu, đã chứng kiến vòng gai đâm đầu Con, nghe tiếng búa nện và những lời lăng nhục ‘nếu mày là con Thiên Chúa’… Tất cả tấn thảm kịch… trước mắt thấy, tai nghe, tâm cảm của ‘người Mẹ’… Một đứa con bị tra tấn hành hạ trước người mẹ… ‘Đức Trinh nữ cũng tiến bước trong cuộc lữ hành đức Tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên Thập giá, là nơi mà theo ý Thiên Chúa, Người đã đứng ở đó. Đức Maria đã đau đớn chịu khổ cực với Con một của mình và dự phần vào hy tế của Con, với tấm lòng của một người mẹ hết tình ưng thuận hiến tế lễ vật do lòng mình sinh hạ’ (LG 58).
Thập giá là thời điểm chuyển từ giao ước cũ sang giao ước mới, từ các lời tiên tri sang thực tại. Đó là lúc mà ‘mọi sự được hoàn tất’ (Ga 19: 30). Phục sinh được chiêm ngắm như là điều đã hiện diện tiềm tàng và hoạt động trong giờ tử nạn của Đức Kitô. Phục sinh được hiểu trong căn nguyên, đó là sự vâng phục trong lòng mến của Chúa Con, vâng phục đến chết, cùng với lời hứa của Chúa Cha tôn vinh Chúa Con.
Đức Maria là Mẹ chúng ta qua hai hành vi: thụ thai và sinh hạ. Mẹ đã đón nhận, thụ thai chúng ta trong tiếng xin vâng ngày Truyền Tin. Dưới chân Thập giá là giờ sinh hạ chúng ta. Giáo hội đã sớm nhận ra Đức Maria nơi người đàn bà của Giao ước mới trong sách Khải Huyền. Giáo phụ Irênê đã nhận ra Mẹ là Eva mới, ‘Mẹ của chúng sinh’[3].
Đối với Gioan, giờ chết là giờ tôn vinh, giờ hoàn tất trọn vẹn Kinh Thánh. Ngay trước những lời liên quan đến Maria, Gioan nói đến tước hiệu ‘Vua dân Do thái’ ám chỉ nghĩa tiên tri và viên mãn của nó. Gioan nói tới tấm áo không đường may của Chúa, gợi lại tấm áo thầy Thượng Tế Cựu ước (Xh 28: 31). Sau đó Gioan nhìn lên Đức Giêsu, Người ‘phó thác Thần Khí’, tắt thở nhưng cũng là ban Thánh Thần. Cạnh sườn Chúa được khai mở khơi lên lời Ezekiel về nước hằng sống trào ra từ bên hông Đền Thờ Mới. Chúa Giêsu đã nói về thân mình Ngài, bị phá hủy và được dựng lại thành Đền Thờ Mới (x. Ga 2: 19tt). Do đó Mẹ Maria ở chân Thập giá mang văn mạch phổ quát, liên hệ với khuôn mặt người ‘đàn bà’ trong Khởi Nguyên 3: 15 và trong Khải Huyền chương 12. Người môn đệ đây không chỉ là Gioan, mà mọi môn đệ. Vai trò làm Mẹ này không bởi Đức Maria, nhưng bởi Lời Chúa, không dựa trên công phúc, nhưng trên Ân sủng. Tương tự như tương quan giữa Phaolô và tín hữu ‘Nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em trong Đức Giêsu Kitô’ (1Cr 4: 15) và còn phải gấp mấy để hiểu về Đức Mẹ sinh chúng ta dưới chân Thập giá ‘Này con cái của tôi, những kẻ tôi đã phải quặn đau mà sinh ra’ (Gl 4: 19).
Chúng ta khám phá một khía cạnh quan trọng, Đức Maria là người lữ hành trong tính chất cuộc sống đồng thời trong hành trình tâm linh. Mẹ như khách kiều cư lữ thứ trong thế giới này, không mái ấm, không nơi ở thực sự là của mình. Mẹ để cho Thiên Chúa ‘đặt định’ thời gian sinh con. Mẹ đón nhận tình cảnh Lời Chúa đặt mình vào sự cô đơn ‘không ai hiểu cho’ trước mặt mọi người. ‘Tỉnh giấc, Giuse đã đem Người về nhà mình’. Giờ đây lúc Con chết, Mẹ lại rơi vào cảnh đơn chiếc trong cuộc đời. Thiên Chúa yêu cầu Gioan đem Người về nhà mình và ‘Gioan từ giờ ấy, đã lãnh lấy Bà về nhà mình’. Đức Maria quả là người phụ nữ lênh đênh, không bám vào đâu cả, từ đầu đến cuối, theo sát Con là người không có nơi gối đầu. Mẹ hoàn toàn để cho Thiên Chúa quyết định cuộc đời vận mệnh mình.
Bốn
Biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống xẩy đến vào thời điểm lịch sử cứu độ đạt tới tột đỉnh. Nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, Chúa Giêsu đã nối kết con người vào Thiên Chúa mật thiết tới mức ‘Ngôi Hiệp’. Với mầu nhiệm Vượt Qua, Chúa Giêsu đã triệt hạ bức tường ngăn cách là tội lỗi.
Thánh Gioan đã chiêm nghiệm một lễ Hiện Xuống trên đồi Canvê. Khi Đức Kitô chết là lúc Người được tôn vinh. Thánh Gioan tường thuật: ‘Đức Giêsu gục đầu xuống, Ngài phó thác Thần Khí’ (19: 30). Thánh sử muốn nói lên hai sự thật: Một thuộc bình diện tự nhiên và lịch sử, một thuộc bình diện mầu nhiệm. Đức Giêsu trút hơi thở và ban Thần Khí. Nước và Máu chảy từ cạnh sườn bị đâm thực hiện lời hứa dòng sông tuôn chảy nước hằng sống trong lòng những người tin. Dòng nước ấy chỉ về Chúa Thánh Thần. Đức Kitô, Adam mới chìm trong giấc ngủ sự chết sinh ra từ cạnh sườn ‘Eva’ mới là Giáo hội. Chúa chết khởi đầu cuộc sáng tạo mới.
Tân Ước ít nói về Đức Maria bao nhiêu thì ta lại ngạc nhiên bấy nhiêu khi gặp lại Đức Maria đúng lúc, sau đồi Canvê là phòng tiệc ly, vào biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống. Tước hiệu ‘Mẹ Chúa Giêsu’ theo sau tên của Người làm thay đổi tất cả, đặt Đức Maria lên bình diện vượt trội. Thánh Thần, Đấng ngự xuống chính là ‘Thần Khí của Con Mẹ’, Đấng Phục Sinh.
Đức Maria là nguyên mẫu của Giáo hội cầu nguyện. Sau lễ Ngũ Tuần, Mẹ như đi vào tu viện, ẩn khuất trong thinh lặng sâu thẳm nhất. ‘Một cuộc đời ẩn giấu với Đức Kitô trong Thiên Chúa’ (x. Cl 3: 3). Cuộc đời các Thánh soi sáng phần nào cuộc đời Đức Maria. Thánh Augustinô nhận định các Thánh là những người đã được biến đổi ‘trọn vẹn thành niềm khao khát thánh thiện’. Khao khát triền miên, cả trong giấc ngủ ‘tôi ngủ nhưng lòng vẫn thức’ (Dc 5: 2). Thánh Gioan Thánh Giá viết bài thơ ngắn về linh hồn mòn mỏi khao khát được nhìn thấy Thiên Chúa. Mỗi khổ thơ kết thúc bằng điệp khúc: ‘Tôi chết vì tôi không chết’.
Thánh Luca nhấn mạnh sự cầu nguyện để đón nhận Chúa Thánh Thần. Các Tông đồ cầu nguyện khi tuyển chọn người thay thế Giuđa. Thầy Hananya cầu nguyện cho Phaolô được sáng mắt và đầy Thánh Thần. Giáo hội tiên khởi luôn đồng tâm ‘chuyên cần với lời giáo huấn, với việc bẻ bánh và cầu nguyện’ (Cv 2:42). Thiên Chúa hứa ban ơn lành và trên hết là Thánh Thần cho những ai kiên trì nguyện cầu.
Cần kiên trì trong những bước thăng trầm của cầu nguyện. Têrêsa Avila từng nỗ lực trong chia trí: ‘Trí tuệ nhớn nhác, vẩn vơ, đến nỗi nó giống như một người điên dữ tợn, không ai kìm được, vì thế tôi bất lực, không thể cầm trí trong khoảng thời gian đọc một kinh Tin Kính’. Thánh Terêsa Hài Đồng Giêsu từng gặp tình trạng khô khan và cầu nguyện bằng cách đọc thật chậm kinh Lạy Cha. Giáo phụ sa mạc Antôn Cả học cầu nguyện theo cách một ẩn sĩ dừng công việc đứng lên cầu nguyện rồi lại ngồi xuống dệt chiếu. Isaac người Syrie chia sẻ tuyệt vời: ‘Khi lòng dạ đã chết và không còn có lấy một lời kinh hay lời khẩn nguyện nào, thì chớ gì Thiên Chúa có thể gặp thấy chúng ta đang phủ phục, sấp mặt xuống đất mãi mãi’.
Có khi cầu nguyện như cuộc chiến đấu với Thiên Chúa, với Giacop đòi thắng Thiên Chúa, nhưng với Chúa Giêsu sấp mình thuận ý Cha.
Theo chân các Tông đồ, chúng ta không thể rao giảng cách kết quả nếu ‘không đi qua nhà tiệc ly’. Thượng phụ Ignatius Latakia (1921-2012) nhận định: ‘Không có Thánh Thần, Thiên Chúa sẽ vẫn ở thật xa; Đức Kitô vẫn ở trong quá khứ; Tin Mừng là chữ chết; Giáo hội đơn thuần là một tổ chức; quyền bính chỉ là sự thống trị; công cuộc truyền giáo chỉ là tuyên truyền; Phụng vụ chỉ đơn thuần là kỷ niệm; Cuộc sống các Kitô hữu chỉ là một thứ luân lý của những kẻ nô lệ… Nhưng trong Thánh Thần, thế giới trỗi dậy và rên siết trong cơn đau sinh hạ Nước Chúa; con người chiến đấu chống lại xác thịt; Đức Kitô Phục Sinh hiện diện; Tin Mừng làm sự sống nảy mầm; Giáo hội là dấu chỉ của hiệp thông Ba Ngôi; Quyền bính phục vụ cho sự giải thoát; Công cuộc truyền giáo là một lễ Hiện Xuống; Phụng vụ là một tưởng niệm và là một sự thực hiện đi trước; Cuộc sống Kitô hữu là một cuộc sống được Thần hóa’.
Đức Maria dù được đầy Ân sủng, từ khi khởi đầu làm người trong lòng thân mẫu, vẫn lãnh nhận Thánh Thần nhiều lần: lúc Truyền Tin, dưới chân Thập giá, và nơi phòng Tiệc Ly. Thánh Công đồng dạy: Đức Maria ‘một tạo vật mới do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác thành’ (LG 56).
Đức Maria là người được đặc sủng lớn lao nhất vì nơi Người, Thánh Thần đã thực hiện hành vi tuyệt vời nhất đó là khơi dậy nơi Đức Maria, không phải một lời khôn ngoan, một lời tiên báo, mà là chính sự sống của Đấng Messia. Thánh Ambrosiô giải thích việc sinh con của Đức Maria là công trình của Thánh Thần… vì thế, Thần Khí mà chúng ta biết là tác giả việc Nhập Thể của Chúa là Thần Khí ‘sáng tạo’. Cho đến Gioan Tẩy giả, Lời Thiên Chúa ‘đến’ trên các tiên tri, theo nghĩa Lời trở thành một thực tại ‘hoạt động’ nơi họ, dù đã ‘ăn’, đã nhét đầy lòng cuộn sách ghi Lời Chúa (x. Gr 15.16; Ed 3: 1tt; Kh 10: 8tt). Còn nơi Đức Maria, Lời không chỉ đến trong một khoảnh khắc, nhưng bởi phép Chúa Thánh Thần, Lời đã lưu ngụ nơi Người; Lời không chỉ trở thành thực tại hoạt động, mà đã trở thành xác phàm (Ga 1: 14) nơi Người. Thánh sử Luca đặt Đức Maria trong mối liên hệ sâu xa với Thánh Thần trong mầu nhiệm Nhập Thể và trong ngày lễ Hiện Xuống, đã trình bày Đức Maria là một người của Thần Khí đến mức tuyệt hảo. Nơi Đức Maria, đặc sủng làm Mẹ được kết hợp cách độc nhất vô nhị với đặc sủng trinh khiết.
Đức Maria là hình bóng của một Giáo hội Thần Khí và đặc sủng, Giáo hội, xét trong toàn thể, như là ‘Bí tích phổ quát của ơn cứu độ’. Công đồng Vaticanô II cho chúng ta biết: ‘Bởi lòng tin và vâng phục, Đức Maria đã sinh chính Con Chúa Cha nơi trần gian, mà không hề biết đến người nam, nhưng được Chúa Thánh Thần rợp bóng...Và Giáo hội, khi chiêm ngưỡng sự thánh thiện huyền diệu của Đức Maria, noi gương đức ái của Người và chu toàn Thánh Ý Chúa Cha, Giáo hội cũng được làm mẹ. Nhờ đón nhận Lời Thiên Chúa trong lòng tin: Giáo hội sinh hạ những người con được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và được sinh bởi Thiên Chúa để họ lãnh nhận một đời sống mới và bất diệt’ (LG 63.64). Thánh Ambrosiô viết: ‘Giáo hội thánh thiện là Trinh nữ do sự trinh khiết của mình, là Mẹ do con cái được sinh ra’. Thánh Augustinô nói: ‘Giáo hội giống Đức Maria trong mọi sự’.
Năm
Kinh Thánh mời gọi chúng ta yêu mến Thiên Chúa bằng hai mối tình khác nhau, dù chúng phát xuất từ cùng một Thánh Thần: Tình hiền tử (amour filial) và tình hiền thê (amour sponsal). Tình ‘hiền tử’ là tình được diễn tả bằng sự vâng phục Thánh Ý. Tình ‘hiền thê’ là mối tình bao hàm sự chọn lựa. Người ta không bao giờ chọn lựa ‘cha mẹ’ mình nhưng chồng hay vợ thì chọn nhau. Yêu mến Thiên Chúa bằng tình ‘hiền thê’ là chọn Chúa, mỗi lần đều chọn lại một cách ý thức, chọn Chúa trong tất cả để Chúa là tất cả của mình.
Chỉ mình Đức Kitô là con đường đích thực dẫn về nhà Cha và để đến được với Đức Kitô, Mẹ Maria là con đường,qua Mẹ, Chúa Thánh Thần dẫn chúng ta đến cùng Đức Kitô.
Thánh Bênađô (1090-1153) chia sẻ kinh nghiệm:
“Nếu con bước đi có Mẹ Maria dẫn đường, con không lạc lối. Nếu Mẹ bảo trợ con, con không sợ gì. Nếu Mẹ ở với con, con không sa ngã. Nếu Mẹ che chở con, con được cứu độ.
Trong nguy nan, trong gian khổ, trong nghi ngờ… hãy nghĩ đến Maria, hãy kêu cứu Maria…
Xin cho Danh Mẹ đừng rời khỏi miệng bạn, đừng rời khỏi lòng bạn.
Và để được lời cầu bầu của Mẹ, hãy noi gương cuộc đời Mẹ.
Nếu bạn bước theo Mẹ, bạn sẽ không lạc lối. Nếu bạn cầu xin Mẹ, bạn sẽ không thất vọng. Nếu bạn nghĩ đến Mẹ, bạn sẽ không lầm đường.
Nếu Mẹ nắm tay bạn, bạn sẽ không vấp ngã. Nếu Mẹ bảo vệ bạn, bạn sẽ không sợ hãi. Nếu Mẹ dẫn dắt bạn, bạn sẽ không mỏi mệt. Nếu Mẹ chúc phúc cho bạn, bạn sẽ đạt tới đích”.
Anh chị em thân mến,
Các Thiên Thần nói với Gioan: ‘Lại đây Ta sẽ chỉ cho ngươi thấy Tân Nương, Hiền Thê của Chiên Con’ (Kh 21: 9). Hiền Thê nơi Giêrusalem mới đây là Giáo hội khải hoàn vàMẹ Maria là chi thể tuyệt hảo của Giáo hội.
Đức Maria nơi trần thế như dấu chỉ của những gì mà Giáo hội hiện tại ‘phải trở nên’, giờ đây trên Giêrusalem mới, Mẹ là dấu chỉ của Giáo hội ‘sẽ hoàn thành’.
Giáo hội chan chứa mến yêu hướng về Đức Maria: ‘Ngày nay Mẹ Chúa Giêsu đã được vinh hiển hồn xác lên trời, là hình ảnh và là khởi thủy của Giáo hội sẽ hoàn thành đời sau; cũng thế, dưới đất này, cho tới ngày Chúa đến, Người chiếu sáng như dấu chỉ lòng cậy trông vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành (LG 68).
† Gioan Đỗ Văn Ngân
Giám mục hiệp hành với anh chị em
Nguồn: giaophanxuanloc.net
[1] Tâm tình mục tử theo sát suy tư của Đức Hồng y qua tác phẩm Đức Maria, Tấm Gương cho Giáo Hội’, dg Athanase Nguyễn Quốc Lâm, Bayard, nxb Tôn giáo, 2022, HochiMinh.
[2] Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolo II, Thông điệp Mẹ Đấng Cứu Thế
[3] Thánh Irênê là môn đệ của Thánh Policarpe, và vị này là môn đệ của Gioan.