SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA
NHÂN NGÀY THẾ GIỚI CẦU NGUYỆN CHO ƠN GỌI
LẦN THỨ 45, NĂM 2008
ƠN GỌI PHỤC VỤ GIÁO HỘI TRUYỀN GIÁO
Ngày 03 tháng 12 năm 2007, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã
ký Sứ điệp nhân Ngày Thế giới cầu nguyện cho Ơn gọi lần thứ 45 năm 2008 với chủ
đề: “Ơn gọi phục vụ Giáo Hội truyền giáo”. Sau đây là toàn văn Sứ điệp:
Anh chị em thân mến
!
1. Tôi đã chọn đề
tài “Ơn gọi phục vụ Giáo Hội truyền giáo” cho Ngày Thế Giới cầu cho các
ơn gọi sẽ được cử hành ngày 13/4/2008. Chúa Giêsu phục sinh đã ủy thác cho các
Tông Đồ mệnh lệnh: “Vậy các con hãy đi giảng dạy tất cả các dân các nước, rửa tội
cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19), và Ngài hứa
với họ: “Này đây Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Giáo Hội là thừa sai trong toàn bộ và trong mỗi phần tử của mình. Nếu, do bí
tích Rửa tội và Thêm sức, mỗi tín hữu Kitô được kêu gọi làm chứng tá và rao giảng
Tin Mừng, thì chiều kích truyền giáo càng được gắn liền với ơn gọi Linh Mục một
cách đặc biệt và thâm sâu hơn. Trong giao ước với Israel, Thiên Chúa đã ủy thác
sứ mạng làm ngôn sứ và tư tế cho những người được Ngài tuyển chọn, kêu gọi và gửi
tới toàn dân nhân danh Ngài. Ví dụ Chúa đã làm như thế với Môsê: Giavê nói với
ông: “Giờ đây ngươi hãy đi ! Ta sai ngươi đến gặp Pharaô. Ngươi hãy đưa dân Ta
ra khỏi Ai Cập… sau khi ngươi đã đưa dân ra khỏi Ai Cập, các ngươi sẽ phụng sự
Thiên Chúa trên núi này” (Xh 3,10.12). Chúa cũng làm như vậy với
các ngôn sứ.
2. Những lời hứa với
các Tổ Phụ chúng ta đã được thể hiện viên mãn trong Chúa Giêsu Kitô. Về vấn đề
này, Công đồng chung Vatican 2 đã quả quyết: “Vì thế, Chúa Con đã đến. Ngày được
Chúa Cha sai đi, nơi Người, trước khi tạo thành vũ trụ, Chúa Cha đã chọn và tiền
định cho chúng ta trở nên dưỡng tử… Vì thế, để chu toàn ý Chúa Cha, Đức Kitô đã
khai mạc Nước Trời trên mặt đất này và đã mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm Nước ấy,
và đã cứu chuộc bằng sự vâng phục của Người” (Lumen gentium, 3). Và
trong đời sống công khai, khi rao giảng tại Galilea, Chúa Giêsu đã chọn các môn
đệ như những cộng tác viên thân tín của Ngài trong sứ vụ thiên sai. Ví dụ,
trong dịp hóa bánh ra nhiều, khi Ngài nói với các Tông Đồ: “Chính các con hãy
cho họ ăn đi” (Mt 14,16), qua đó Ngài khích lệ các ông hãy đảm
trách nhu cầu của đám đông mà Ngài muốn cho họ lương thực để ăn no nê, nhưng đồng
thời Ngài cũng mạc khải “lương thực trường tồn cho đời sống vĩnh cửu” (Ga 6,27).
Chúa động lòng thương đối với dân chúng, vì trong khi rảo quanh các thành thị
và làng mạc, Ngài gặp thấy những đám đông mệt mỏi và kiệt lực, “như những chiên
không có người chăn” (x. Mt 9,36). Từ cái nhìn yêu thương ấy nảy
sinh lời Chúa mời gọi các môn đệ: “Vậy các con hãy xin chủ mùa gặt để Người sai
thợ đến trong mùa gặt của Người” (Mt 9,38), và Ngài sai Nhóm 12 trước
tiên đến 'với các chiên lạc Nhà Israel', với những lời dặn dò kỹ lưỡng. Nếu
chúng ta dừng lại để suy niệm về trang này của Tin Mừng theo thánh Mathêu, thường
được gọi là ”diễn văn truyền giáo”, chúng ta nhận thấy tất cả các khía cạnh nói
lên đặc tính hoạt động truyền giáo của một cộng đồng Kitô, muốn trung thành với
mẫu gương và giáo huấn của Chúa Giêsu. Việc đáp lại tiếng gọi của Chúa bao hàm
sự đương đầu, một cách thận trọng và đơn sơ, với mọi nguy hiểm và cả những cuộc
bách hại nữa, vì “một môn đệ không cao trọng hơn Thầy, một đầy tớ không trọng
hơn chủ” (Mt 10,24). Được nên một với Thầy, các môn đệ không còn
đơn độc trong khi rao giảng Nước Trời, vì chính Chúa Giêsu hành động trong họ:
“Ai đón nhận các con là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã
sai Thầy” (Mt 10,40). Và ngoài ra, trong tư cách là những chứng
nhân đích thực, ”có quyền năng từ trên cao” (Lc 24,49),
họ rao giảng cho mọi dân ”sự hoán cải và sự tha thứ tội lỗi” (Lc 24,47).
3. Chính vì được
Chúa sai đi, Nhóm Mười Hai mang danh hiệu là ”Tông Đồ”, được sai đi, rảo bước
trên các nẻo đường thế giới, loan báo Tin Mừng như những chứng nhân về cái chết
và sự sống lại của Chúa Kitô. Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu Corinto:
“Chúng tôi – nghĩa là các Tông Đồ – rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đanh” (1Cr 1,23).
Trong tiến trình truyền giảng Tin Mừng này, sách Công Vụ các Tông Đồ cũng
dành một vai trò rất quan trọng cho các môn đệ khác, những người có ơn gọi thừa
sai nảy sinh từ những hoàn cảnh do Chúa Quan Phòng thiết định, nhiều khi đau
thương, như sự trục xuất khỏi lãnh thổ của họ vì là môn đệ Chúa Giêsu (x.
8,1-4). Chúa Thánh Linh cho phép biến thử thách ấy thành cơ hội hồng phúc, và
rút ra từ đó một điều lợi ích để danh Chúa được rao giảng cho dân ngoại và cộng
động Kitô được mở rộng. Như thánh Luca đã viết trong sách Công Vụ,
đó là những người nam nữ “hiến dâng cuộc sống cho chính nghĩa Đức Giêsu Kitô
Chúa chúng ta” (15,26). Người đầu tiên trong mọi người khác, được chính Chúa
kêu gọi để trở thành Tông Đồ thực sự, chắc chắn là thánh Phaolô thành Tarso. Tiểu
sử thánh Phaolô, nhà truyền giáo lớn nhất trong mọi thời đại, làm nổi bật, dưới
mọi khía cạnh, mối liên hệ giữa ơn gọi và sứ mạng truyền giáo. Bị những đối
phương tố cáo là không được phép thi hành việc tông đồ, thánh nhân thường nại tới
ơn gọi đã nhận lãnh trực tiếp từ Chúa (x. Rm 1,1 ; Gl 1,11-12.15-17).
4. Ngay từ đầu,
cũng như sau đó, yếu tố “thúc đẩy” các Tông Đồ (x. 2Cr 5,14) vẫn
luôn là “Tình yêu Chúa Kitô”. Trong tư cách là những đầy tớ trung thành của
Giáo Hội, ngoan ngoãn đối với hoạt động của Chúa Thánh Linh, vô số các thừa
sai, qua các thế kỷ, đã theo vết của các môn đệ đầu tiên. Công đồng chung
Vatican 2 đã nhận xét: “Tuy nghĩa vụ truyền bá đức tin thuộc về bất kỳ môn đệ
nào của Chúa Kitô theo khả năng của họ, nhưng Chúa Kitô không ngừng kêu gọi từ
đám đông các môn đệ của Ngài những người mà Ngài muốn, để họ ở với Ngài và để
sai họ đi rao giảng cho muôn dân (x. Mc 3,13-15)” (Ad Gentes,
23). Thực vậy, tình yêu Chúa Kitô phải được thông truyền cho anh chị em bằng
gương lành và lời nói, bằng trọn cuộc sống. Như vị Tiền Nhiệm Đáng kính của tôi
Gioan Phaolô 2 đã viết: “Ơn gọi đặc biệt của các thừa sai ad
vitam trọn đời vẫn duy trì trọn vẹn giá trị: ơn gọi này là mẫu mực sự
dấn thân truyền giáo của Giáo Hội, Giáo Hội luôn cần sự hiến thân quyết liệt và
trọn vẹn, cần những động lực mới mẻ và táo bạo” (Thông điệp Redemptoris
missio, 66).
5. Trong số những
người hoàn toàn dấn thân phục vụ Tin Mừng đặc biệt có những linh mục được kêu gọi
ban phát Lời Chúa, cử hành các bí tích, đặc biệt là Thánh Thể và Hòa giải, hiến
thân phục vụ những người bé mọn nhất, các bệnh nhân, người đau khổ, người nghèo
và những người đang trải qua những giờ phút khó khăn tại những vùng trên trái đất,
nơi mà đôi khi có nhiều người ngày nay vẫn chưa được thực sự gặp gỡ Chúa Giêsu
Kitô. Các thừa sai rao giảng lần đầu tiên cho họ về tình yêu cứu độ. Các thống
kê cho thấy rằng con số những người được rửa tội hằng năm vẫn gia tăng nhờ hoạt
động mục vụ của các linh mục ấy, những người hoàn toàn hiến thân cho phần rỗi của
anh chị em. Trong bối cảnh đó, cần đặc biệt ghi ơn các “linh mục fidei
donum (hồng ân đức tin), đang quảng đại và tận tụy khéo léo xây dựng cộng
đoàn và rao giảng Lời Chúa cho họ, bẻ Bánh Sự Sống, mà không dè xẻn năng lực
trong việc phục vụ công cuộc truyền giáo của Giáo Hội. Cần cảm tạ Chúa vì bao
nhiêu linh mục đã chịu đau khổ đến độ hy sinh mạng sống để phụng sự Chúa Kitô..
Đó là những chứng tá cảm động có thể gợi hứng cho bao nhiêu người trẻ bước theo
Chúa Kitô và hiến thân cho tha nhân, và nhờ đó tìm được sự sống đích thực”
(Tông huấn Sacramentum caritaris, 26). Vì vậy, qua các linh mục của
Ngài, Chúa Giêsu hiện diện giữa con người ngày nay, cho đến những góc trời xa
xăm hẻo lánh nhất.
6. Trong Giáo Hội vẫn
luôn có nhiều người nam nữ, được Chúa Thánh Linh thúc đẩy, quyết định sống Tin
Mừng một cách quyết liệt, tuyên xưng các lời khấn khiết tịnh, thanh bần và vâng
phục. Hàng ngũ các tu sĩ nam nữ ấy, thuộc về vô số các dòng tu chiêm niệm và hoạt
động, vẫn còn “giữ một phần rất quan trọng trong việc truyền giảng Tin Mừng cho
thế giới” (Ad Gentes, 40). Nhờ kinh nguyện liên lỉ và chung, các tu sĩ sống
đời chiêm niệm không ngừng chuyển cầu cho toàn thể nhân loại ; các tu sĩ sống đời
hoạt động, với những hoạt động bác ái đa diện, đang mang lại cho mọi người chứng
tá sinh động về tình yêu và lòng từ bi của Thiên Chúa. Vị Tôi Tớ Chúa Phaolô VI
đã nói về các vị tông đồ ấy của thời đại chúng ta rằng: “Do sự thánh hiến tu
trì của họ, họ là những người thiện nguyện tuyệt hảo và tự do từ bỏ mọi sự, để
ra đi rao giảng Tin Mừng cho đến tận bờ cõi trái đất. Họ có tinh thần biến báo
và hoạt động tông đồ của họ thường có sắc thái đặc sắc, một thiên tài khiến người
khác phải ngưỡng mộ. Họ quảng đại: họ thường ở tiền tuyến trong sứ mạng truyền
giáo và chấp nhận những rủi ro nguy hiểm nhất cho sức khỏe và cho cả mạng sống
của họ nữa. Đúng vậy, Giáo Hội mang ơn họ rất nhiều” (Tông huấn Evangelii
nuntiandi, 69).
7. Ngoài ra, để
Giáo Hội có thể tiếp tục thi hành sứ mạng Chúa Kitô đã giao phó và không thiếu
các nhà truyền giảng Tin Mừng mà thế giới đang cần, điều cần thiết là, trong
các cộng đồng Kitô, cần phải liên tục giáo dục đức tin cho các trẻ em và người
lớn, cần duy trì ý thức sinh động về trách nhiệm truyền giáo nơi các tín hữu và
về sự liên đới với các dân tộc trên thế giới. Hồng ân đức tin mời gọi tất cả
các tín hữu Kitô cộng tác vào công cuộc truyền giảng Tin Mừng. Cần nuôi dưỡng ý
thức ấy bằng việc giảng thuyết và huấn giáo, phụng vụ và huấn luyện liên tục về
cầu nguyện ; ý thức ấy cũng tăng trưởng nhờ thực thi việc đón tiếp, bác ái và
tháp tùng thiêng liêng, cũng như bằng một dự án mục vụ, trong đó có phần quan
tâm đến các ơn gọi.
8. Ơn gọi linh mục
thừa tác và đời sống thánh hiến chỉ triển nở trong một thửa đất được vun trồng
kỹ lưỡng về mặt thiêng liêng. Thực vậy, những cộng đồng Kitô nào sống khẩn
trương chiều kích truyền giáo trong mầu nhiệm Giáo Hội, sẽ không bao giờ co cụm
vào mình. Sứ vụ truyền giáo, như chứng tá về tình yêu của Chúa, đặc biệt trở
nên hữu hiệu khi được chia sẻ trong cộng đồng, “để cho thế gian tin” (x. Ga 17,21).
Ơn gọi là hồng ân mà Giáo Hội hằng ngày phải cầu xin Chúa Thánh Linh. Giống như
thuở ban đầu, quây quần quanh Đức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương các Tông Đồ, Cộng đồng
Giáo Hội đang học hỏi nơi Mẹ cách thức cầu xin Chúa cho có thêm nhiều tông đồ mới,
biết sống nơi mình niềm tin và tình yêu cần thiết cho sứ vụ truyền giáo.
9. Trong lúc tôi gửi
những suy tư này đến tất cả các cộng đồng Giáo Hội, để họ đón nhận làm của mình
và nhất là gợi hứng từ đó để cầu nguyện, tôi khích lệ sự dấn thân của tất cả những
người đang hoạt động trong tin tưởng và quảng đại để phục vụ ơn gọi và tôi
thành tâm gửi Phép lành đặc biệt của tôi đến các nhà đào tạo, các giáo lý viên
và tất cả mọi người, đặc biệt là các bạn trẻ đang tiến bước trong hành trình ơn
gọi.
Vatican, ngày 3
tháng 12 năm 2007
BÊNÊĐICTÔ XVI, Giáo Hoàng
LM Trần Đức Anh OP chuyển ngữ
(Radio Vatican 22/02/2008)
Nguồn: simonhoadalat.com