Dẫn nhập

1. Một nghĩa địa khổng lồ

2. Bốn động từ đẹp dành cho người di dân

3. Thực tế khác lý tưởng

Tạm kết


Dẫn nhập

Tuần trước, Hội đồng Liên hiệp quốc (UN) mừng sinh nhật lần thứ 80. Có rất nhiều nhà lãnh đạo thế giới đã phát biểu về nhiều chủ đề khác nhau: hòa bình, chiến tranh, biến đổi khí hậu, hợp tác, công bằng, trí tuệ nhân tạo, và cả vấn đề di dân. Nếu ai theo dõi những phát biểu này đều cảm nhận một thực tế nhức nhối của thế giới từ nhiều năm trở lại đây: Di dân (migration). Tiếng Việt thường dịch là người nhập cư, chỉ những người từ một quốc gia khác chuyển đến sinh sống tại đất nước mới. Đặc biệt, có nhiều người nhập cư theo con đường tị nạn (refugee), nghĩa là người bị buộc phải rời bỏ đất nước của mình vì sợ bị bách hại, chiến tranh, xung đột, bạo lực hay thiên tai, và không thể hoặc không muốn quay trở lại quê hương vì sự an toàn.

Là một linh mục, tôi cảm thấy bối rối khi nghe những phát biểu của các chính trị gia tại UN về vấn đề này. Bối rối bởi vì có nhiều quan điểm ủng hộ lẫn phản đối thực trạng này. Do đó, bài viết dưới đây tôi muốn tìm đến quan niệm của Giáo hội nói về di dân. Tôi nói là Giáo hội vì có thể là tiếng nói riêng của Đức Giáo hoàng hay của một thành phần trong Vatican.

1. Một nghĩa địa khổng lồ

Ai theo dõi thời sự đều thấy hiện tượng di dân trên thế giới đã và đang diễn ra với quy mô chưa từng có. Hàng chục triệu người đang rời bỏ quê hương vì chiến tranh, xung đột, đói nghèo, biến đổi khí hậu và nhiều lý do khác. Mỗi ngày vài năm về trước, các bản tin quốc tế đều nhắc đến những đoàn người tị nạn vượt biên giới, những người di cư tìm kiếm cuộc sống an toàn và tốt đẹp hơn. Đáng buồn thay và cũng dễ hiểu về hành trình của họ thường xuyên gắn liền với hiểm nguy và bi kịch. Thảm kịch đến nỗi Vatican gọi biển Địa Trung Hải là “một nghĩa địa khổng lồ - a massive tomb”[1]. Tất cả đều muốn vượt đại dương để đến châu Âu hoặc Hoa Kỳ. Những sinh mạng mất đi trên biển cả này chỉ là một phần của câu chuyện, bởi những người nhập cư thành công vào bến bờ bên kia cũng có quá nhiều vấn đề.

Có nhiều người cho rằng vì Đức Phanxicô từng là người nhập cư, nên ngay từ đầu giáo triều của mình, ngài đã bày tỏ mối quan tâm đặc biệt đến vấn đề này. Ngài tự tin gọi tình cảnh hàng triệu người “trốn chạy khỏi chiến tranh, bách hại, thiên tai và nghèo đói” là một “dấu chỉ thời đại”, mà chính ngài đã cố gắng giải thích với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần[2]. Ngài đã thực hiện nhiều chuyến thăm người di dân tại Ý cũng như vài nơi khác. Suốt 13 năm, Đức Phanxicô đã đánh thức lương tâm thế giới trước thảm kịch này. Chẳng hạn, không lâu sau khi được chọn làm Giáo hoàng, ngài đau xót thốt lên: “Những người nhập cư chết trên biển, trên những con thuyền từng là phương tiện chở hy vọng nhưng đã trở thành phương tiện chở sự chết. Đó là cách mà các tít báo đã đưa tin. Khi tôi lần đầu tiên nghe về thảm kịch này cách đây vài tuần, và nhận ra rằng điều đó xảy ra quá thường xuyên, nó cứ trở đi trở lại trong tôi như một cái gai đau đớn trong tim. Vì thế, tôi cảm thấy mình phải đến đây hôm nay, để cầu nguyện và bày tỏ dấu chỉ sự gần gũi của tôi, nhưng cũng để đánh động lương tâm chúng ta, kẻo thảm kịch này lại tái diễn. Xin đừng để nó tái diễn nữa!”[3] Tiếc là thảm kịch này vẫn luôn diễn ra bởi quá nhiều nguyên nhân.

Nghĩa địa ấy cũng diễn ra ngay trên đất liền. Khi số di dân ngày càng tăng, dường như thái độ của xã hội càng thờ ơ trước hoàn cảnh của họ. Đức Phanxicô cảnh báo về “nền văn hóa tiện nghi” làm chúng ta thờ ơ trước tiếng kêu cứu của người khác, sống trong “những chiếc bong bóng xà phòng” ảo tưởng và phớt lờ nỗi đau bên ngoài[4]. Thái độ dửng dưng ấy thật nguy hiểm. Ngài cho rằng khi chúng ta đánh mất lòng trắc ẩn, những thảm kịch nhân đạo như cuộc khủng hoảng di dân sẽ còn tiếp diễn. Ngược lại, sự cấp bách của vấn đề di dân chính là lời mời gọi nhân loại “tái khám phá những khía cạnh cốt yếu của nhân tính và đời sống Kitô hữu”, cụ thể là lòng thương xót, liên đới và trách nhiệm với anh chị em gặp hoạn nạn[5].

Trước thực trạng đó, Đức Giáo hoàng Phanxicô, Giáo hội Công giáo và nhiều quốc gia nhìn nhận vấn đề di dân không đơn thuần là bài toán chính trị - xã hội. Trước hết, đây là vấn đề nhân bản và luân lý. Giáo hội quan tâm đến điều này vì mỗi người di cư cũng là con người có nhân phẩm cao quý và các quyền cơ bản bất khả xâm phạm. Giấy trắng mực đen trong Kinh thánh còn lưu lại: “Ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; ngươi phải yêu nó như chính mình, vì các ngươi đã từng là ngoại kiều tại đất Ai Cập” (Lv 19,34). Trong Tân ước cũng thế, chính Chúa Giêsu và Thánh Gia xưa kia cũng từng lánh nạn sang Ai Cập, chia sẻ thân phận của người tị nạn. Có lẽ vì hai lý do thần học này nên thái độ đức tin đúng đắn trước người di dân phải là thái độ đón tiếp trong yêu thương như đón chính Chúa Kitô: “Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước Ta” (Mt 25,35). Cũng có lẽ vì lý do này nên Đức Phanxicô nhìn nhận: Đây là một trách nhiệm lớn lao mà Giáo hội muốn chia sẻ với tất cả các tín hữu và mọi người thiện chí, những người được kêu gọi đáp ứng những thách đố của thời đại di dân hiện nay với lòng quảng đại, sự nhanh nhẹn, khôn ngoan và nhìn xa trông rộng, tuỳ theo khả năng của mỗi người.”[6]

2. Bốn động từ đẹp dành cho người di dân

Để cụ thể hóa trách nhiệm trên, Đức Thánh Cha Phanxicô đề xuất bốn “động từ” làm kim chỉ nam cho mục vụ di dân: đón tiếp, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập[7]. Đón tiếp nghĩa là mở rộng cánh cửa an toàn, hợp pháp cho người di cư và tị nạn. Đây là vấn đề tế nhị đầu tiên đối với các nước tiếp nhận người nhập cư. Tuy vậy, Đức Phanxicô đề nghị trước hết hãy “mở các hành lang nhân đạo cho những người tị nạn dễ bị tổn thương”[8]. Những người tị nạn chạy trốn chiến tranh cần được đón nhận thay vì bị ép quay về nơi nguy hiểm. Nhiều nước đã làm điều này tương đối tốt ngay khi chiến sự xảy ra. Tuy nhiên, càng về sau, nhiều vấn đề khác bắt đầu phát sinh. Dù sao Đức Phanxicô cũng luôn nhấn mạnh nguyên tắc “lấy con người làm trọng tâm”, đòi hỏi đặt an toàn, nhân phẩm của người di cư lên trên lợi ích an ninh quốc gia[9]. Ít là về ngắn hạn, chúng ta có thể hiểu điều này, nhưng về lâu dài, có lẽ các chính phủ cần những giải pháp tận căn hơn!

Động từ thứ hai là bảo vệ, trước là gìn giữ các quyền và nhân phẩm cho người di dân, dù họ có giấy tờ hợp pháp hay không[10]. Điều này cũng rất tế nhị vì từ quê nhà, người nhập cư cần được cung cấp thông tin trung thực, tránh rơi vào bẫy buôn người. Trên đất khách, về lý thuyết, họ được tiếp cận các dịch vụ thiết yếu. Nhất là trẻ em di cư cần được bảo đảm quyền quốc tịch và không bao giờ bị giam giữ chỉ vì tình trạng nhập cư, vì đây là luật theo “Công ước Quốc tế về Quyền Trẻ em cung cấp một nền tảng pháp lý mang tính phổ quát cho việc bảo vệ những người di cư chưa thành niên.”[11]

Từ thứ ba cũng không kém phần quan trọng: Thăng tiến. Nước sở tại cần tạo điều kiện cho người di dân phát huy tiềm năng, đóng góp cho cộng đồng sở tại. Giáo hội (và vài nước ở châu Âu) nhìn nhận người di cư không phải gánh nặng nhưng là nguồn lực quý giá: “Lịch sử cho thấy sự đóng góp của người di cư và tị nạn có tính nền tảng cho tăng trưởng xã hội và kinh tế. Điều đó vẫn đúng cho đến hôm nay”[12]. Thực vậy, với dân số trên đà già nua, châu Âu cũng như ở Mĩ, lao động trẻ, lòng nhiệt thành và khát vọng của người nhập cư có thể làm giàu cho những cộng đồng biết đón nhận. Ngược lại, nếu bị gạt bên lề, tài năng ấy sẽ mai một, gây thiệt thòi cho cả hai phía. Về lâu dài, cả hai đều cần giúp nhau vươn lên, phát triển và đóng góp cho sự thịnh vượng của nước sở tại.

Cuối cùng, hội nhập nghĩa là giúp người di cư tham gia trọn vẹn vào đời sống xã hội và Giáo hội, đồng thời tôn trọng bản sắc văn hóa của họ. Đức Phanxicô lưu ý đây không phải là sự đồng hóa cưỡng ép khiến người nhập cư phải quên đi căn tính của mình[13]. Cũng như bất kỳ lãnh vực nào, khi nói đến hội nhập là quá trình từ hai phía: người nhập cư mở lòng với văn hóa sở tại, còn cộng đồng địa phương mở rộng cánh cửa cho sự đa dạng. Khi đó, “sự hiện diện của người di cư, tị nạn vừa là một thách đố lớn, vừa là một cơ hội to lớn cho sự trưởng thành văn hóa và tâm linh của mọi người.”[14]

Với bốn động từ trên, Giáo hội cụ thể là Giáo hoàng Phanxicô khẳng định rằng “không ai bị loại trừ” khỏi kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa; Nước Trời là một thành đô mở rộng cửa “đón nhận mọi dân tộc” (x. Is 60,11). Một xã hội công bằng, huynh đệ không chấp nhận việc đóng cửa hay kỳ thị người di dân, bởi lẽ sự bao gồm những người dễ bị tổn thương là điều kiện thiết yếu để tất cả được hưởng trọn vẹn phẩm giá.

3. Thực tế khác lý tưởng

Có lẽ rất nhiều người đồng ý với đường hướng tốt đẹp mà Đức Phanxicô đề ra trên đây. Nhất là trong tư thế người nhập cư, ai ai cũng vỗ tay tán thành. Tuy nhiên, thế giới đang chứng kiến trào lưu dân túy dân tộc chủ nghĩa nổi lên ở nhiều nơi, những lời dạy của Giáo hội Công giáo chỉ mang tính ngôn sứ. Không ít quốc gia coi người nhập cư như mối đe dọa, thậm chí “xem họ là nguyên nhân của mọi tệ nạn xã hội”. Hẳn nhiên Giáo hội cũng thừa nhận nỗi sợ hãi này là có thật. Tuy nhiên, khi nền văn hóa vứt bỏ” chiếm thế thượng phong, thì số phận “người khác, người xa lạ, người ngoại quốc” càng bị đe dọa. Mức độ này có thể đẩy đến thái độ “phân biệt chủng tộc”, nhiều người nhập cư đã cảm nhận.

Thực tế là ai cũng thấy vấn đề di dân toàn cầu không chỉ đơn thuần là câu chuyện nhân đạo. Nhất là vài năm trở lại đây, chúng ta chứng kiến những căng thẳng chính trị và xã hội. Là người ở châu Âu, đi đâu tôi cũng thấy, cũng nghe tranh luận gay gắt về biên giới, chủ quyền, an ninh và bản sắc văn hóa. Không ít chính phủ đối mặt áp lực phải thắt chặt chính sách nhập cư. Lý do họ đưa ra liên quan đến tội phạm hoặc cạnh tranh công ăn việc làm từ thành phần nhập cư. Chính bối cảnh chính trị này khiến tôi hơi hoang mang: Liệu lập trường của Giáo hội Công giáo về người nhập cư có hoàn toàn chính xác?”

Một mặt, Giáo hội xác tín rằng Tin mừng đòi hỏi phải lên tiếng cho người yếu thế. Có thể tiếng nói này phật lòng vài chính trị gia. Đức Thánh cha Phanxicô đã nhiều lần phản bác quan điểm kỳ thị, bài ngoại, ngài bác bỏ “những tuyên truyền gieo rắc hoang mang” về di dân, đồng thời kêu gọi xây dựng các chính sách di cư dựa trên lòng nhân và công bằng[15]. Có lần ngài nói: “Ước gì Địa Trung Hải không bao giờ còn là một sân khấu của chết chóc và phi nhân. Xin Chúa soi sáng tâm trí và con tim của mọi người, khơi dậy nơi họ những tâm tình huynh đệ, liên đới và hiếu khách.”[16] Dù sao tiếng nói của Giáo hội cũng đã, đang và sẽ góp phần giải quyết vấn đề này một cách hiệu quả hơn.

Bên cạnh đó, Giáo hội cũng ý thức rằng việc giải quyết vấn đề di dân đòi hỏi nỗ lực chung của toàn xã hội. Lòng tốt cá nhân thôi chưa đủ, mà cần các quốc gia phối hợp xây dựng khung pháp lý và chính sách hợp lý. Tại châu Âu, Tòa thánh ủng hộ Hiệp ước Di dân và Tị nạn mới nhằm phân bổ công bằng trách nhiệm tiếp nhận người tị nạn giữa các nước, thay vì để gánh nặng chỉ đè lên vai một vài nước biên giới Địa Trung Hải[17]. Đồng thời, Giáo hội kêu gọi các quốc gia phát triển cần hỗ trợ nhiều hơn cho các nước nghèo. Lời kêu gọi này xuất hiện rất nhiều lần trong những bài phát biểu từ các nhà lãnh đạo đến từ các nước nghèo. Ngoài ra, nhiều chính trị gia cũng đồng ý rằng thế giới cần đầu tư vào hòa bình, phát triển bền vững để giảm nguyên nhân gốc rễ gây ra di cư (như chiến tranh, biến đổi khí hậu). Đây là cách tiếp cận toàn diện và dài hạn mà Giáo hội đóng góp vào diễn đàn chính sách toàn cầu.

Sau cùng, Giáo hội còn đưa ra một lời mời gọi bác ái không biên giới. Người di dân có lẽ là một trong những tiếng kêu cứu vang lên mạnh nhất. Đồng hành với người di dân chính là đáp lại tiếng kêu giúp ấy với nhiều tình yêu. Chẳng hạn, khi di dân tìm đến giáo xứ, họ hy vọng tìm thấy nơi đó một người mẹ ân cần. Khi làn sóng di cư dâng trào, Giáo hội muốn hiện diện như người Samari nhân hậu, dám cúi xuống chăm sóc người bị bỏ rơi bên vệ đường. Tôi nghĩ sứ mạng của Giáo hội trong vấn đề di dân, suy cho cùng, chính là sứ mạng loan báo tình yêu. Ít là chúng ta nhắc cho thế giới nhớ rằng mỗi người di cư đều là anh chị em, đều đáng được yêu thương và tôn trọng. Đơn giản thế thôi! Nhưng điều đơn giản này lại đang gặp rất nhiều ý kiến trái chiều từ các quốc gia trong Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc vừa qua.

Tạm kết

Có lẽ quý độc giả cũng có chính kiến của riêng mình về vấn đề này. Là người Công giáo, trước tôi tin vào giáo huấn của Giáo hội. Dù đôi khi có những trào lưu hấp dẫn tôi phủ nhận người nhập cư, nhưng về căn bản, người nhập cư là anh chị em của tôi. Nghĩa vụ đón nhận, bảo vệ hoặc giúp đỡ vẫn mời gọi chúng ta. Để kết thúc, tôi tự nhắc nhở mình hai điều:

(1) Chính trị thường có những khuynh hướng khiến tôi khó phân biệt đâu là đúng, đâu là sai. Thực vậy, nghe những bài phát biểu vừa qua, chúng ta thấy mỗi chính trị gia đều có lý lẽ của riêng mình. Dù sao, thực tại chiến tranh và di cư vẫn cứ diễn ra, với những con người đau khổ cụ thể.

(2) Nếu không làm được nhiều, tôi cầu nguyện cho những nhà lãnh đạo biết lắng nghe tiếng kêu cứu của người nghèo. Chưa bao giờ thế giới hồi hộp trước nguy cơ chiến tranh thế giới thứ ba. Chưa bao giờ dòng người di cư lại dài bất tận như hai thập niên trở lại đây. Chưa bao giờ có những xung khắc mạnh mẽ về chính trị, chính sách trong vấn đề nhập cư. Ước sao Liên Hiệp Quốc thể hiện đúng với tên gọi của mình: Hợp nhất các quốc gia để có thể sống trong hòa bình, thịnh vượng và công bằng.

Mong thay!

Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

Tài liệu tham khảo:

- Đức Phanxicô, Diễn văn dành cho Ngoại giao đoàn cạnh Toà thánh, Benediction Hall, 09/01/2023, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/duc-thanh-cha-phanxico-dien-van-danh-cho-ngoai-giao-doan-canh-toa-thanh-49126

- Đức Phanxicô, Sứ điệp ngày Thế giới Di dân và Tị nạn lần thứ 104, 14/01/2018, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cua-duc-thanh-cha-phanxico-nhan-ngay-the-gioi-di-dan-va-ti-nan-lan-thu-104-nam-2018-31623

- Đức Phanxicô, Bài giảng tại “Arena” Sports Camp, Salina Quarter, 08/7/2013, The Holy See, tại https://www.vatican.va/content/francesco/en/homilies/2013/documents/papa-francesco_20130708_omelia-lampedusa.html

- Đức Phanxicô, Sứ điệp ngày Thế giới Di dân và Tị nạn lần thứ 105 năm 2019, 29/9/2019, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-ngay-the-gioi-nguoi-di-dan-va-ti-nan-lan-thu-105-nam-2019-do-khong-chi-la-ve-nhung-nguoi-di-cu-50867

- Đức Phanxicô, To welcome, to protect, to promote and to integrate (Address to Participants in the International Forum on “Migration and Peace”, 21 February 2017.)

- United Nations. Convention on the Rights of the Child (CRC). Adopted by the UN General Assembly, November 20, 1989. https://www.ohchr.org/en/instruments-mechanisms/instruments/convention-rights-child

- Đức Phanxicô, Sứ điệp của Đức Thánh cha Phanxicô nhân ngày Thế giới Di dân và Tị nạn lần thứ 108, 25/9/2022, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cho-ngay-the-gioi-di-cu-va-ti-nan-lan-thu-108-45983

- Đức Phanxicô, Pope Francis urges action to save migrants in North African deserts, tại https://www.vaticannews.va/en/pope/news/2023-07/pope-urges-action-save-migrants-desert-address-climate-change.html



[1] Đức Phanxicô, Diễn văn dành cho Ngoại giao đoàn cạnh Toà thánh, Benediction Hall, 09/01/2023, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/duc-thanh-cha-phanxico-dien-van-danh-cho-ngoai-giao-doan-canh-toa-thanh-49126

[2] Đức Phanxicô, Sứ điệp ngày Thế giới Di dân và Tị nạn lần thứ 104, 14/01/2018, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cua-duc-thanh-cha-phanxico-nhan-ngay-the-gioi-di-dan-va-ti-nan-lan-thu-104-nam-2018-31623

[3] Đức Phanxicô, Bài giảng tại “Arena” Sports Camp, Salina Quarter, 08/7/2013, The Holy See, tại https://www.vatican.va/content/francesco/en/homilies/2013/documents/papa-francesco_20130708_omelia-lampedusa.html

[4] Như trên

[5] Đức Phanxicô, Sứ điệp ngày Thế giới Di dân và Tị nạn lần thứ 105 năm 2019, 29/9/2019, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-ngay-the-gioi-nguoi-di-dan-va-ti-nan-lan-thu-105-nam-2019-do-khong-chi-la-ve-nhung-nguoi-di-cu-50867

[6] Đức Phanxicô, Sứ điệp ngày Thế giới Di dân và Tị nạn lần thứ 104, 14/01/2018, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cua-duc-thanh-cha-phanxico-nhan-ngay-the-gioi-di-dan-va-ti-nan-lan-thu-104-nam-2018-31623

[7] Đức Phanxicô, To welcome, to protect, to promote and to integrate (Address to Participants in the International Forum on “Migration and Peace”, 21 February 2017.)

[8] Đức Phanxicô, Sứ điệp ngày Thế giới Di dân và Tị nạn lần thứ 104, 14/01/2018, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cua-duc-thanh-cha-phanxico-nhan-ngay-the-gioi-di-dan-va-ti-nan-lan-thu-104-nam-2018-31623

[9] Như trên

[10] Như trên

[11] Convention on the Rights of the Child – CRC, được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 20/11/1989, điều Điều 22.

[12] Đức Phanxicô, Sứ điệp của Đức Thánh cha Phanxicô nhân ngày Thế giới Di dân và Tị nạn lần thứ 108, 25/9/2022, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cho-ngay-the-gioi-di-cu-va-ti-nan-lan-thu-108-45983

[13] Như trên

[14] Như trên

[15] Đức Phanxicô, Pope Francis urges action to save migrants in North African deserts, tại https://www.vaticannews.va/en/pope/news/2023-07/pope-urges-action-save-migrants-desert-address-climate-change.html

[16] Như trên

[17] Đức Phanxicô, Diễn văn dành cho Ngoại giao đoàn cạnh Toà thánh, Benediction Hall, 09/01/2023, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/duc-thanh-cha-phanxico-dien-van-danh-cho-ngoai-giao-doan-canh-toa-thanh-49126