WHĐ (05.01.2018) – Hôm thứ Hai 21 tháng Tám 2017, Toà thánh đã công bố Sứ điệp của Đức Thánh Cha
Phanxicô cho “Ngày thế giới Di dân và Tị nạn” lần thứ 104, sẽ được tổ chức vào ngày 14 tháng Giêng 2018 với chủ đề “Đón
tiếp, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập người di dân và người tị nạn”. Sứ điệp
được Đức Thánh Cha ký ngày 15 tháng Tám 2017, ngày Lễ trọng mừng kính Đức Mẹ
Lên Trời.
Sau đây là toàn văn Sứ điệp:
SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA
NHÂN NGÀY THẾ GIỚI DI DÂN VÀ TỊ NẠN
LẦN THỨ 104 – NĂM 2018
(Chúa nhật, 14.01.2018)
“Đón tiếp, bảo
vệ, thăng tiến và hội nhập người di dân và người tị nạn”
Anh chị em thân mến,
“Các ngươi hãy đối xử với người khách lạ ngụ nhờ xứ các
ngươi như một người bản hương trong các ngươi; các ngươi hãy yêu thương họ như
chính mình, vì các ngươi cũng đã là khách ngụ cư nơi đất Ai Cập: Ta là Đức
Chúa, Thiên Chúa của các ngươi” (Lv 19,34)
Trong suốt những
năm đầu thi hành sứ vụ giáo hoàng, tôi đã nhiều lần bày tỏ mối quan tâm đặc biệt
về tình trạng đáng buồn của nhiều người di dân và người tị nạn trốn chạy chiến
tranh, khủng bố, thiên tai và nghèo đói. Tình trạng này chắc chắn là một ‘dấu chỉ
của thời đại’, mà tôi đã cố gắng giải thích, nhờ ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp,
suốt từ khi tôi đến thăm Lampedusa vào ngày 8 tháng Bảy 2013. Khi thành lập bộ
mới, Bộ Thăng tiến sự phát triển con người toàn diện, tôi muốn có một
phân bộ đặc biệt –hiện do chính tôi đứng đầu– để thể hiện mối quan tâm của Giáo
hội đối với người nhập cư, người tị nạn và các nạn nhân của nạn buôn người.
Mỗi người khách lạ gõ cửa nhà chúng ta là một cơ hội để chúng ta gặp Chúa Giêsu Kitô, Đấng đồng
hoá mình với những người khách lạ được tiếp đón hay bị chối từ trong mọi thời (Mt 25,35-43).
Chúa uỷ thác cho tình yêu từ mẫu của Giáo hội từng con người bị buộc phải rời bỏ
quê hương mình để đi tìm một tương lai tốt đẹp hơn.[1]
Tình liên đới này phải được thể hiện cách cụ thể ở mọi giai đoạn của hành trình
di dân – từ lúc ra đi, trong suốt cuộc hành trình, đến nơi và trở về. Đây là một trách nhiệm lớn lao mà Giáo hội muốn chia sẻ với tất cả các tín hữu và mọi
người thiện chí, những người được
kêu gọi đáp ứng những thách đố của thời đại di
dân hiện nay với lòng
quảng đại, sự nhanh nhẹn, khôn ngoan và nhìn xa trông rộng, tuỳ theo khả năng của mỗi người.
Về vấn đề này,
tôi muốn khẳng định lại rằng “đáp ứng chung của chúng ta có thể được
trình bày bằng bốn động từ: đón
tiếp, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập”.[2]
Theo hoàn cảnh hiện nay, đón tiếp trước hết
là cung cấp nhiều lựa chọn hơn cho người di dân và người tị nạn để họ đến được
các quốc gia tiếp nhận một cách an toàn và hợp pháp. Điều này đòi hỏi một dấn
thân cụ thể để gia tăng và đơn giản hoá tiến trình cấp thị thực nhân đạo và
đoàn tụ gia đình. Đồng thời, tôi hy vọng rằng có nhiều quốc gia sẽ thông qua
các chương trình tài trợ tư nhân và cộng đồng, và mở các hành lang nhân đạo cho
những người tị nạn đặc biệt yếu thế. Hơn nữa, cũng nên cấp thị thực tạm thời đặc
biệt cho những người trốn chạy các cuộc xung đột ở những nước láng giềng. Việc
tuỳ tiện trục xuất tập thể những người nhập cư và người tị nạn không phải là giải
pháp thích hợp, nhất là khi người dân được đưa trở lại các quốc gia không có sự
bảo đảm tôn trọng nhân phẩm và những quyền cơ bản của con người”.[3] Một
lần nữa, tôi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cung cấp cho người di cư và
người tị nạn nơi ở ban đầu đầy đủ và xứng đáng. “Các chương trình tiếp nhận phổ
biến rộng rãi, đã được thực hiện ở nhiều nơi, dường như muốn cổ võ việc gặp gỡ
cá nhân, giúp công việc phục vụ được tốt hơn và đem lại thành công nhiều hơn”[4].Nguyên
tắc lấy con người làm trung tâm, mà vị tiền nhiệm kính yêu của tôi, Đức giáo
hoàng Bênêđictô XVI vẫn nhấn mạnh,[5]
đòi buộc chúng ta phải luôn đặt ưu tiên cho sự an toàn của cá nhân trước an
ninh quốc gia. Vì thế, cần bảo đảm rằng các nhân viên kiểm soát biên giới phải
được huấn luyện cách đúng đắn. Tình trạng của người di dân, người xin tị nạn và
người tị nạn đòi buộc họ phải được bảo đảm an toàn cá nhân và tiếp cận với các
dịch vụ cơ bản. Vì phẩm giá nền tảng của mỗi con người, chúng ta phải nỗ lực
tìm ra những giải pháp thay thế cho việc giam giữ những người nhập cảnh vào một
quốc gia mà không được phép.[6]
Động từ thứ hai – bảo vệ – có thể được hiểu là một loạt các
bước nhằm bảo vệ quyền lợi và phẩm giá của người di dân và người tị nạn, bất kể
tình trạng pháp lý của họ.[7] Sự
bảo vệ ấy bắt đầu tại quốc gia xuất phát và bao gồm việc cung cấp thông tin
đáng tin cậy và được xác minh trước khi người ấy ra đi, cũng như lo liệu cho họ
được an toàn, tránh các hoạt động tuyển dụng bất hợp pháp.[8] Điều
này phải được tiến hành ở mức tối đa có thể tại quốc gia tiếp nhận, bảo đảm cho
họ có đủ trợ giúp về mặt lãnh sự, có quyền luôn giữ lại các giấy tờ cá nhân, được
tiếp cận với công lý một cách công bằng, được mở một tài khoản ngân hàng cá
nhân và một mức tối thiểu để sống.
Khi được nhìn nhận và đánh giá một cách xứng đáng, tiềm năng
và kỹ năng của người di cư, người xin tị nạn và người tị nạn sẽ là nguồn lực thực
sự cho các cộng đồng đón nhận họ.[9] Đó
là lý do tại sao tôi hy vọng rằng, tại các quốc gia đón tiếp, người di dân có
thể được quyền tự do đi lại, cơ hội làm việc, và tiếp cận các phương tiện truyền
thông, trong sự tôn trọng phẩm giá của họ. Đối với những người quyết định hồi
hương, tôi muốn nhấn mạnh nhu cầu phát triển các chương trình tái hội nhập về mặt
xã hội và nghề nghiệp. Công ước Quốc tế về Quyền Trẻ em cung cấp cơ sở pháp lý
chung cho việc bảo vệ di dân vị thành niên. Không được giam giữ chúng dưới bất
kỳ hình thức nào vì chúng là người di dân, và phải bảo đảm cho chúng được tiếp
cận thường xuyên với giáo dục tiểu học và trung học. Tương tự, khi chúng đến tuổi
thành niên, phải bảo đảm cho chúng được quyền ở lại và tiếp tục học tập. Cần có
các chương trình chăm sóc và nuôi dưỡng tạm thời dành cho những trẻ vị thành
niên không có người lớn đi kèm và trẻ vị thành niên xa gia đình.[10]
Quyền quốc tế về quốc tịch phải được công nhận và chứng nhận cho tất cả các trẻ
em ngay khi chúng được sinh ra. Tình trạng không quốc tịch mà đôi khi người nhập
cư và người tị nạn rơi vào có thể dễ dàng tránh được bằng việc thông qua “luật
về quốc tịch phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế”[11].
Quy chế di dân không được giới hạn quyền tiếp cận các chương trình chăm sóc sức
khoẻ và chương trình trợ cấp, cũng như việc chuyển các khoản đóng góp của họ nếu
họ hồi hương.
Thăng tiến chủ yếu là một nỗ lực quyết
tâm để bảo đảm rằng tất cả những người di dân và người tị nạn – cũng như các cộng
đồng đón tiếp họ – đều có quyền thể hiện tiềm năng của mình như những con người,
trong mọi chiều kích làm thành nhân loại mà Đấng Sáng Tạo đã dự định.[12]
Trong những chiều kích ấy, chúng ta phải nhìn nhận giá trị đích thực của chiều
kích tôn giáo, bảo đảm cho tất cả các ngoại kiều ở bất cứ quốc gia nào có quyền
tự do tín ngưỡng và thực hành tôn giáo. Nhiều người di dân và người tị nạn có
những khả năng phải được nhìn nhận và đánh giá một cách thích đáng. Vì “việc
làm tự bản chất của nó là để liên kết các dân tộc”[13],
nên tôi khuyến khích nỗ lực quyết tâm nhằm thúc đẩy việc tiếp nhận người di cư
và người tị nạn về mặt xã hội và nghề nghiệp, bảo đảm cho mọi người – cả những
người xin tị nạn – được làm việc, được học ngôn ngữ và có quyền công dân, cũng
như được cung cấp thông tin đầy đủ bằng tiếng mẹ đẻ của họ. Đối với di dân vị
thành niên, phải có quy định về việc chúng tham gia lao động để ngăn ngừa tình
trạng bót lột và những rủi ro đối với việc lớn lên và phát triển bình thường của
chúng. Năm 2006, trong bối cảnh di dân, Đức Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh gia đình
là “một nơi và là nguồn mạch của nền văn hoá sự sống và cũng là một yếu tố để hội
nhập các giá trị” ra sao.[14]
Phải luôn khuyến khích sự toàn vẹn của gia đình, bằng cách ủng hộ việc đoàn tụ
gia đình – bao gồm cả ông bà, các cháu và anh chị em – mà không đòi hỏi về khả
năng tài chính. Người di cư, người xin tị nạn và người tị nạn khuyết tật phải
được trợ giúp nhiều hơn. Tôi nhìn nhận rằng cho đến nay có nhiều quốc gia đã có
những nỗ lực đáng ca ngợi về mặt hợp tác quốc tế và viện trợ nhân đạo, và tôi
hy vọng rằng việc cung cấp các trợ giúp này cũng xét đến những nhu cầu (như trợ
giúp y tế, xã hội và giáo dục) của các nước đang phát triển phải tiếp nhận một
số lớn người di cư và người tị nạn. Tôi cũng hy vọng rằng các cộng đồng địa
phương dễ bị tổn thương và phải đối mặt với những khó khăn về vật chất cũng nằm
trong số những người được hưởng trợ giúp.[15]
Động từ cuối cùng – hội nhập – liên quan đến các cơ hội phong phú
hoá qua việc giao thoa văn hóa nhờ sự hiện diện của người di dân và người tị nạn.
Hội nhập không phải là “đồng hóa để đẩy người nhập cư đến chỗ xoá bỏ hay quên
đi bản sắc văn hoá riêng của họ. Nhưng, việc giao tiếp với người khác phải dẫn
tới chỗ khám phá được ‘bí quyết’ của họ, cởi mở với họ để đón nhận các mặt đúng
đắn của họ và như thế góp phần vào việc hiểu biết lẫn nhau nhiều hơn. Đây là một
tiến trình lâu dài nhằm định hình xã hội và văn hoá, làm cho chúng ngày càng trở
nên phản ánh những ơn huệ đa dạng mà Thiên Chúa ban tặng cho con người.[16]
Tiến trình này có thể được đẩy nhanh bằng cách cấp quyền công dân mà không đòi
hỏi về mặt tài chính hoặc ngôn ngữ, và hợp pháp hoá đặc biệt cho người di dân để
họ có thể xin cư trú dài hạn tại quốc gia mà họ đến. Tôi nhắc lại rằng cần phải
thúc đẩy một nền văn hoá
gặp gỡ bằng mọi cách có thể – bằng cách gia tăng cơ hội trao đổi văn hoá, cung cấp tư liệu và phổ
biến những thực hành tốt nhất về hội nhập, đồng thời xây dựng các chương trình
để chuẩn bị cho các cộng đồng địa phương tham gia tiến trình hội nhập. Tôi muốn
nhấn mạnh trường hợp đặc biệt của những người buộc phải rời bỏ quốc gia mà họ
đã đến vì khủng hoảng nhân đạo. Phải bảo đảm cho những người này được trợ giúp
đầy đủ trong các chương trình hồi hương và tái hội nhập cách hiệu quả tại đất
nước họ.
Theo truyền
thống mục vụ của mình, Giáo hội luôn sẵn sàng dấn thân thực hiện mọi sáng kiến được gợi ra trên đây. Nhưng để đạt được kết quả mong muốn, không
thể không có sự đóng góp của
các cộng đồng chính trị và xã hội dân sự, tuỳ theo trách nhiệm của riêng họ.
Tại Hội nghị thượng
đỉnh của Liên hiệp quốc tổ chức ở New York vào ngày 29 tháng Chín 2016, các nhà lãnh đạo trên thế giới đã bày tỏ mong muốn có hành động dứt
khoát trong việc trợ giúp người di dân và người tị nạn để cứu mạng và bảo vệ quyền lợi của họ, bằng
cách chia sẻ trách nhiệm này trên toàn cầu. Để đạt được mục
tiêu này, các quốc gia đã cam kết soạn thảo và thông qua, trước cuối
năm 2018, hai Hiệp ước Toàn cầu, một về người tị nạn và một về người di dân.
Anh chị em thân mến, về những tiến trình đang được thực hiện này, những tháng sắp tới là cơ
may cho chúng ta để ủng hộ và trợ giúp các hành động cụ thể mà tôi đã mô tả bằng
bốn động từ ở trên. Tôi
mời anh chị em tận dụng mọi cơ hội để chia sẻ sứ điệp
này với tất cả các cá nhân trong giới chính trị và xã hội có liên quan (hoặc những người muốn tham gia)
trong tiến trình dẫn đến việc thông qua hai Hiệp ước Toàn cầu.
Hôm nay, 15 tháng Tám, chúng ta mừng lễ Đức Mẹ Hồn xác lên
trời. Chính Mẹ Thiên Chúa đã cảm nghiệm nỗi nhọc nhằn của cảnh lưu vong (Mt
2,13-15), đã yêu thương đồng hành với Con của Mẹ trên đường đến Calvê, và nay lại
được chia sẻ vinh quang muôn đời của Người. Chúng ta phó thác cho lời chuyển cầu
từ mẫu của Mẹ Maria niềm hy vọng của tất cả những người nhập cư và những người
tị nạn trên toàn thế giới cũng như những ước nguyện của các cộng đồng đón tiếp
họ, để nhờ đáp lại lệnh truyền tối thượng của Chúa, tất cả chúng ta sẽ học được
cách yêu thương người khác, người xa lạ, như chính bản thân chúng ta.
Thành phố Vatican, ngày 15 tháng Tám 2017
Đại lễ Đức Mẹ Maria Hồn xác lên trời
PHANXICÔ
Chuyển ngữ: Minh Đức
[3] X. Phát biểu của Quan sát viên Thường trực của Toà thánh tại Khoá
họp thứ 103 của Hội đồng IOM, 26 tháng Mười Một 2013.
[6] X. Phát biểu của Quan sát viên Thường trực của Toà thánh tại Khoá
họp thứ 20 của Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc, 22 tháng Sáu 2012.
[8] X. Hội đồng
Toà thánh Chăm sóc mục vụ cho Người di dân và lữ hành, Huấn thị Erga Migrantes Caritas Christi, 6.
[9] X.
Bênêđictô XVI, Diễn văn với các Tham dự viên Hội nghị Thế giới lần thứ 6 về Chăm sóc mục vụ cho
Người di dân và lữ hành, 9 tháng Mười Một 2009.
[10]
[11] Hội đồng
Toà thánh Chăm sóc mục vụ cho Người di dân và lữ hành và Hội đồng Toà
thánh Cor Unum, Đón tiếp Chúa Kitô nơi người Tị nạn và Những người bị buộc phải di cư, 2013, 70.
[15] X. Hội đồng
Toà thánh Chăm sóc mục vụ cho Người di dân và lữ hành và Hội đồng Toà
thánh Cor Unum, Đón tiếp Chúa Kitô nơi người Tị nạn và Những người bị buộc phải di
cư, 2013, 30-31.
[16] Gioan
Phaolô II, Sứ điệp cho Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn (2005).