Kinh nghiệm từ Giáo Hội tại Trung Quốc: Kiên trì trong đối thoại
I. Những thất bại trong quá khứ
Những thất bại trong quá khứ của 4 cuộc gặp gỡ
giữa Kitô giáo và văn hóa Trung Quốc (TQ) còn để lại nhiều hậu quả tiêu cực trong hiện tại.
1. Thế kỷ VII, những Kitô hữu phái Nestorius
đưa Kinh thánh vào TQ và đã cố gắng thích nghi với văn hóa cũng như phong tục
tôn giáo thời bấy giờ. Tuy nhiên, vì những biến cố lịch sử tại TQ, sau gần 2 thế
kỷ, Giáo hội Nestorien đã bị xóa sổ hoàn toàn.
2. Thế kỷ XIII, các tu sĩ Phan Sinh lại đưa
Kitô giáo vào TQ và cũng đã cố gắng thích nghi Giáo hội với văn hóa của người
Mông Cổ, là dân đang nắm quyền cai trị TQ lúc bấy giờ. Nhưng do cuộc lật đổ chính
trị tiếp theo, Giáo hội Mông Cổ đã biến mất khi triều đại nhà Minh trục xuất những
người Mông Cổ ra khỏi lãnh địa TQ.
3. Đến thế kỷ XVII, các tu sĩ Dòng Tên là những
người tiên phong đối với việc kính trọng văn hóa và tôn giáo TQ. Nhưng những gì
anh em Dòng Tên đánh giá cao và chấp nhận trong nền văn hóa TQ, lại bị các tu
sĩ Đa Minh và những phòng bộ truyền giáo khác xem như mê tín dị đoan. Thay vì đối
thoại, thì một cuộc đối đầu giữa xã hội dân sự và văn hóa, đã lan rộng ở trong
lòng Giáo hội cũng như giữa Giáo hội và TQ. Sự đối kháng này đã khiến cho hoàng
đế Kangxi rút lại chiếu chỉ khoan dung và kết án đức tin Công giáo là “ngoại
lai” và “không thích ứng với TQ”. Việc hoàng đế trục xuất các nhà thừa sai là
“trái đắng” của của đối đầu này.
4. Thế kỷ XIX và XX. Trong thời kỳ này, các
quyền lực đô hộ đã khai thác sự yếu đuối của TQ, dẫn đến chiến tranh nha phiến
(1840). Giáo hội lại dính líu đến việc soạn thảo các Hiệp ước bất bình đẳng giữa
TQ và các thế lực cai trị thuộc địa. Chính Giáo hội cũng ở dưới sự kiểm soát của
chế độ Bảo hộ Pháp quốc. Vì thế, Giáo hội bị đồng hóa với thế lực đế quốc, điều
mà người ta thường lặp lại chống Giáo hội trong cuộc Cách mạng Văn hóa
(1966-1976) và vẫn còn cho đến ngày nay. Nếu TQ không tính trả thù sự lăng nhục
mà Anh và Pháp đã bắt họ phải chịu, thì họ lại thả lỏng việc chống lại Giáo hội,
nhất là trong hai dịp:
– Cuộc nổi loạn “Quyền Phỉ” (révolte des
Boxers), năm 1900: hàng ngàn người Công giáo và hàng chục nhà thừa sai bị sát hại.
– Cuộc Cách mạng Văn hóa (1966-1976): việc
bách hại và cướp phá Giáo hội được thực
hiện để trả đũa lại những gì đã diễn ra
trong thế kỷ XIX. Tương quan giữa Giáo hội và Nhà Nước chỉ có thể là “đối
kháng” và “khủng hoảng”.
Quay lưng lại với thái độ đối kháng và kiên
trì trên đường đối thoại là thách đố đối với Giáo hội cũng như Nhà Nước trong
hoàn cảnh hiện tại.

Quang cảnh một thánh lễ tại Nhà thờ Chính tòa thánh Inhaxiô, Thượng Hải
II. Cánh cửa đối thoại mở ra
1.
Vatican II
Từ Công đồng chung này, Giáo hội trở thành
người tiên phong cổ võ đối thoại.
Năm 1937, khi Staline tìm cách tiêu diệt Giáo
hội, Đức Giáo hoàng Piô XI đã viết thông điệp Đấng Cứu độ thần linh (Divini
Redemptoris), trong đó hoàn cảnh buộc ngài dùng những từ ngữ cứng rắn mang tính
kết án. Vài năm sau, một hoàn cảnh tương tự diễn ra tại TQ, trước và sau thời
Cách mạng Văn hóa. Đức Giáo hoàng Piô XII cũng dùng những từ kết án trong Ad apostolorum principis (Trước mộ hoàng
tử của các Tông đồ), ngày 29.6.1958, 10 ngày sau khi chính quyền TQ cho truyền
chức hai giám mục không có phép của Đức Giáo hoàng. Điều này diễn ra trong bầu
khí đối đầu giữa các quốc gia gọi là “chiến tranh lạnh”.
Tuy nhiên, những hoàn cảnh mới nảy sinh. Năm
1963, với thông điệp Pacem in terris,
Đức Giáo hoàng Gioan XXIII nhấn mạnh đến sự cởi mở của Giáo hội Công giáo đối với
các ý thức hệ trên thế giới.
Đến năm 1964, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đề cập
nhiều đến từ “đối thoại” trong thông điệp Ecclesiam
suam. Lần đầu tiên từ này xuất hiện trong tài liệu chính thức của Giáo hội,
làm nên khởi điểm của một trang mới trong lịch sử của Giáo hội.
2. Đối thoại là một yếu tố then chốt của Phúc âm
hóa
Đây là một ý thức mới của Giáo hội về sứ mạng
của mình. Phúc âm hoá không chỉ là rao giảng Tin Mừng, mà còn giả thiết một chiều
kích cốt yếu của việc giảng thuyết này, đó là muốn lắng nghe và tôn trọng những
người đón nhận sứ điệp. Đồng thời, Giáo hội cũng nhận thức rằng những thính giả
của mình không chỉ là bằng hữu mà còn cả những người đối nghịch với Giáo hội nữa.
Họ có thể khước từ sứ điệp Tin Mừng và còn đối kháng.
Tuy nhiên, sự đối kháng này không dẫn tới
xung đột và đổ vỡ, trái lại, điều ấy mời gọi cả hai phía cùng tìm cách vượt qua
tình trạng đối đầu, tìm cách sống và làm việc chung nhằm đến thiện ích của mọi
người, mà không đánh mất đi căn tính riêng của mình. Hoa trái của cuộc đối thoại
này này là cuộc sống chung hòa bình, tạo điều kiện cho một sự tiến bộ thực sự.
3. 40 năm cổ võ đối thoại với TQ
Đối thoại với Cộng hòa Nhân dân TQ là bận tâm
của bao triều đại Giáo hoàng, bắt đầu với Phaolô VI, được Gioan Phaolô II tiếp
nối và hiện nay là Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II
đã cố tránh tất cả các tình trạng đối đầu. Ngài ghi nhận rằng TQ chưa được lời
xin lỗi từ các đế quốc Anh, Pháp, Nhật cũng như những gì Giáo hội có thể đã xúc
phạm đến TQ trong thế kỷ XIX. Dù Giáo hội bất đồng với TQ về vấn đề tự do tôn
giáo, nhưng Giáo hội vẫn từ khước thái độ đối đầu. Tuy nhiên, TQ vẫn thinh lặng,
không muốn đi xa hơn vào cuộc đối thoại.
Tháng 1.2007, lần đầu tiên trong lịch sử, Đức
Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã triệu tập một cuộc tham khảo để xác định những vấn đề của TQ và những chuyên
viên vẫn đồng thuận với thái độ duy trì đối thoại và tránh đối kháng với TQ. Đức
Bênêđictô XVI đã nêu rõ quan điểm này trong thư gởi Giáo hội TQ, ngày
30.6.2007.
4. Đối thoại trong Giáo hội và với chính quyền
là một công việc tế nhị và đòi hỏi
3 từ-chìa khóa trong chỉ dẫn mục vụ của Đức
Thánh Cha là:
– Dấn thân đối thoại
– Cổ võ sự hòa giải
– Xây dựng sự hiệp nhất
Để thực
hiện điều này, các Kitô hữu sống ngoài TQ cần:
– Duy trì đối thoại với cả hai cộng đoàn Giáo
hội (chính thức và thầm lặng)
– Lắng nghe cả hai bên với ước mong hiểu biết
“trong bác ái và sự thật” (in caritate et veritate).
– Chúng ta không thể mong những Kitô hữu TQ
ra khỏi thái độ đối kháng một cách nhanh chóng sau nhiều năm dài bị bách hại và
sách nhiễu. Những quấy nhiễu mà họ phải gánh chịu thường củng cố thái độ đối
kháng này.
– Những điểm liên quan đến căn tính của đức
tin Kitô giáo thì dứt khoát không thể thương lượng.
Đối thoại vẫn là thái độ chủ yếu được Đức Thánh Cha khuyến khích trong thư Mục vụ,
tuy nhiên ngài cũng đề cập đến yếu tố “đương đầu ngay trong cuộc đối thoại”.
5. Ở lại trong đối thoại là thách đố đối với TQ
và Giáo hội
Sự đối đầu trong 3 thế kỷ của quá khứ đã để lại
dấu ấn tiêu cực là thiếu tin tưởng lẫn nhau.
Nếu chính quyền có thái độ hợp lý hơn để giải quyết những vấn đề của Giáo hội, họ sẽ
tìm được trong Giáo hội một đối tác để xây dựng một xã hội hòa hợp hơn.
Tiếc thay, việc nhấn mạnh đến sự đối kháng đến
từ nước ngoài lại tạo thêm cớ cho các nhà chức trách địa phương tiếp tục bách hại.
Ước mong sao những ai còn chọn thế đối đầu đừng
ngăn trở những người theo Đức Thánh Cha, dấn bước trên con đường đối thoại và hợp
tác. Hãy góp phần nâng đỡ những dự án Phúc âm hóa đang diễn ra và đừng chặn con
đường này.
Đối thoại là đề nghị của Giáo hội và chính
quyền vô thần không thể từ chối đề nghị này nếu muốn làm cho vấn đề tự do tôn
giáo được thế giới nhìn nhận. Việc chính
quyền dân sự nhìn nhận Kitô giáo và sự hiệp nhất trong Giáo hội sẽ tạo nên một
bước tiến lịch sử, làm cho cuộc gặp gỡ thứ năm giữa Kitô giáo và TQ được sinh hoa kết quả.
[Tóm lược P. Jeroom Heyndrickx, cicm,
Christianisme en
Chine: la persévérance dans le dialogue,
trong EDA, số 505 (16.4.2009)]