Giáo Hội Công giáo Việt
(2)
4. BỐI CẢNH NHỮNG NĂM 1960
ĐẾN 1980
Thư Chung Mùa Chay 1960: Phản ứng cuả các
Giám Mục miền
Trước tình
hình giáo dân miền Bắc di cư, các giáo phận miền Nam đã mở rộng vòng tay đón
tiếp, hỗ trợ cuộc sống vật chất, an ủi và chia sẻ cuộc sống tinh thần. Nhiều họ
đạo gốc Bắc đã mọc lên ở khắp nơi, từ đồng bằng miền Tây, cao nguyên miền Đông
cho tới duyên hải miền Trung, lên đến tận Tây Nguyên miền núi. Công cuộc
truyền giáo vẫn nương theo đà di dân mà mở rộng.
Các Giám Mục
miền
Ý nghĩa của
Sứ mạng Tin Mừng trong thư chung này là củng cố Đức Tin: người tín hữu phải
được nuôi dưỡng và tăng trưởng tối đa
bằng những giá trị lành mạnh của luân lý Công giáo, để vươn cao nơi trần gian
như lúa tốt phải cao hơn, lớn hơn, mạnh hơn để đè bẹp cỏ lùng đang vươn lên
trong đồng ruộng (x. Mt 13, 24-30).
“Năm
Vàng” của Giáo Hội Công Giáo Việt
Trong khi
Giáo hội Công giáo Việt Nam trải qua những biến cố sôi động đó thì Đức Giáo
Hoàng PIO XII qua đời, và Đức Giáo Hoàng GIOAN XXIII đắc cử ngày 28 tháng 10
năm 1958. Ngài mở đầu một kỷ nguyên mới cho Giáo Hội Công giáo toàn cầu. Ngày
25/01/1959 Ngài tuyên bố mở Công Đồng Vaticanô II. Một tin chấn động hoàn cầu
và thế giới Công giáo.
Riêng với
Giáo Hội Công giáo Việt Nam, ngày 24/11/1960, Đức Giáo Hoàng GIOAN XXIII ban
sắc chỉ VENERABILIUM NOSTRORUM thiết lập Hàng Giáo Phẩm (Hierarchia
Episcopalis) tại Việt Nam. Tin vui đó được coi là biến cố rất vĩ đại, đầy
ủi an mà Chúa thương đổ xuống trên con cái của hằng trăm ngàn vị tuẫn đạo, và
giờ đây còn đang đón nhận biết bao thử thách.
Với sắc chỉ
này, Giáo Hội Công giáo Việt
Vài
nhận định về Sắc Chỉ
– Mặc
nhiên công nhận công lao vô cùng to lớn của các vị thừa sai ngoại quốc trong sứ
mạng Loan Báo Tin Mừng cho dân tộc Việt Nam, đặc biệt trong việc tổ chức, đào
tạo Kitô hữu Việt Nam trở thành những thánh tử đạo, những Tông đồ nhiệt thành.
– Các tín hữu
Việt
– Giáo Hội Việt
– Việc phân chia
giáo phận mới giúp thúc đẩy hơn việc
truyền giáo. Bởi vì đó cũng là phân chia và xác định trách nhiệm của sứ mạng
Tông Đồ.
– Sắc Chỉ cũng
đặc biệt lưu ý việc đào luyện thanh niên có ơn gọi. Do đó càng thúc đẩy mạnh mẽ
việc truyền giáo.
– Sắc Chỉ vẫn
thúc đẩy dân Chúa tại Việt
Đức
Giáo Hoàng Gioan XXIII ca ngợi cộng đồng dân Chúa tại Việt
Đức Giáo Hoàng muốn xác định
những ưu điểm của giáo dân Việt Nam trong công cuộc sống đạo và truyền giáo,
nên Ngài đã gửi thông điệp 14/1/1961 để khích lệ tinh thần cộng đồng dân Chúa
Việt Nam: “Còn giáo dân Việt Nam phải nhìn nhận trong cái danh dự cao quý này
không những một bằng chứng nâng cao giá trị cho những truyền thống Công giáo cố
hữu ở đây, truyền thống đã được đánh dấu bằng máu các thánh tử đạo ... Từ nay
hầu hết các địa phận ở Việt Nam sẽ do các Giám Mục bản quốc quản trị. Sự kiện
đó minh chứng một cách hùng hồn sự trưởng thành và khả năng của hàng giáo sĩ
... Những huấn dụ, những chỉ thị do các vị Giáo Hoàng ban bố qua các thông điệp
truyền giáo đã có hiệu quả dồi dào và đã được khắp nơi tuân theo một cách trung
thành” (x. HGPCGVN 1960 - 1995, tr. 145-15). Sự quan tâm của Đức Giáo
Hoàng GIOAN XXIII còn thể hiện qua việc nâng đền thờ La Vang (22/8/1961) và nhà
thờ chánh toà Saigon (13/11/1962) lên Vương Cung Thánh Đường. Và tới ngày 18/1/1963
lập giáo phận Đà Nẵng tách ra từ giáo phận Quy Nhơn thuộc Giáo Tỉnh Huế (x.
Niêm Giám 1964 – Việt Nam Công giáo, trang 178).
Nhìn
lại bối cảnh sinh hoạt của Giáo Hội tại miền Bắc
Khi Toà Thánh thiết lập Hàng
Giáo Phẩm Việt
Gian nan là thế, nhưng rất
may mắn là “Đức Cha Khuê có một bộ tham mưu trẻ, có năng lực ở bên cạnh. Công
việc hàng đầu: lúc nào cũng là củng cố đức tin trước thời đại đầy thử thách …
Nhà in Têrêxa do Cha Trần Văn Mai làm giám đốc, còn bao nhiêu giấy tốt, đều cho
in Sách Kinh Bổn. Toà Giám Mục Hà Nội dự định làm sao cho mỗi gia đình trong
địa phận cũng như ở các nơi đều ít ra có một bộ sách Kinh Bổn. Nhà in còn trù
liệu in tất cả các sách đạo bằng tiếng Việt, nhất là các sách tháng Đức Bà,
tháng Trái Tim, tháng các Linh Hồn, để mọi người có sẵn trong tầm tay ít là
thức ăn cần thiết cho đức tin. Sách tóm Bốn Phúc Âm cũng là sách đứng ưu tiên
hàng đầu. Sở dĩ lúc đó không đặt ưu tiên vào bộ Thánh Kinh, một là vì không đủ
kinh phí, hai là lúc này chưa có bộ Thánh Kinh hoặc Tân Ước được phổ biến rộng
rãi, giáo dân còn ít đọc Sách Thánh”.
“Lịch Công giáo năm 1956 được
in bằng thứ giấy đẹp nhất, tốt nhất. Làm thế vì nghĩ rằng, sau này không biết
có in được lịch nữa không, hoặc có giấy mà in không. Nên lần này có thể là in
lịch cuối cùng, phải in rất kỹ rất bền để dùng cho các năm sau”
Đức Cha Khuê còn soạn một bộ
giáo lý dưới hình thức câu hỏi – thưa. Ngài chỉ thị các nhà thờ, vào ngày Chúa
Nhật, phải đọc một đoạn trước khi giảng. (Đức Cha Phaolô Lê Đắc Trọng: những
câu chuyện về một thời, tập II, Hà Nội 2007, trang 72-73).
Trong lúc hàng giáo sĩ chuẩn
bị những “thức ăn cần thiết nhất cho đức tin”, thì giáo dân vẫn sống đạo
theo cung cách xa xưa của cha ông, kinh vãn chuỗi hạt là những “món ăn”
hàng đầu trong các buổi cầu nguyện mà vắng bóng Linh Mục. Thường khi là cả năm
mới được dự một thánh lễ, nhưng nhà thờ họ vẫn leo lét ngọn đèn chầu. Ấy là
công lao vất vả của ông trùm, hàng tuần đạp xe cả mấy chục cây số, cung nghinh
Thánh Thể cho giáo đoàn chịu lễ mỗi sáng Chúa Nhật và duy trì ngọn đèn chầu cho
các buổi kinh hạt sáng chiều … có những họ đạo hàng mấy chục năm chưa nhìn thấy
Giám Mục của mình, Đức Cha (Giuse Nguyễn Quang Tuyến, Giám Mục Bắc Ninh),
trong chuyến thăm viếng mục vụ tháng 2/1999, đã ban phép Thêm Sức cho những
cộng đoàn mà giáo dân tuổi từ 8 đến 80, đã “gỡ rối” cho hàng trăm đôi vợ
chồng chưa hề lãnh nhận bí tích Hôn Phối mà nay đã con đàn cháu đống. Bà con
bảo nhau, gọi nhau, từ vùng sâu vùng xa, cơm nắm muối vừng về gặp Giám Mục (Vũ
Sinh Hiên: Quê Hương và Hội Thánh – Từ những chuyến đi, Saigon, 1999).
Người ta vẫn nhắc lại đó đây
hình ảnh những chứng nhân đức tin đã dấn thân chịu đựng những thử thách gay
gắt, căng thẳng nhất để như hạt giống thối đi cho hôm nay Hội Thánh tại miền
Bắc được sinh hoa kết quả. Đó là những câu truyện về một số Đức Cha mà một thời
người ta đã gọi là Giám Mục “chui” vì được thụ phong âm thầm lặng lẽ, hoặc
trong cảnh trốn tránh vì gặp nhiều khó khăn từ phía nhà cầm quyền, như Đức Cha
Khuất Văn Tạo (Bắc Ninh), Đức Cha Đa Minh Đinh Đức Trụ (Thái Bình),
Đức Cha Giuse Phạm Năng Tĩnh (Bùi Chu), Đức Cha Bùi Chu Tạo (Phát
Diệm), Đức Cha Phêrô Phạm Tần (Vinh), Đức Cha Vinh Sơn Phạm Văn Dụ (Lạng
Sơn), Đức Cha Gioan Baotixita Trần Hữu Đức (Vinh) ….. (x. Công
giáo Trên Quê Hương Việt Nam, Chương 28 & 29, Tập II của Lm. JMT Nguyễn Thế
Thoại, xuất bản 2001). Nhiều vị trên đây đã không thể rời Toà Giám Mục để
đến với đoàn chiên mà chỉ cư trú trong Toà Giám Mục hằng 10, 20, 30 năm. Ngoài
ra còn phải kể đến rất nhiều Linh Mục, thầy Giảng hoặc nam nữ tu sĩ và giáo dân
đã đồng lao cộng khổ với các Giám Mục của mình trong nhiệm vụ tông đồ như đã mô
tả trên. Đó là những chứng nhân đức tin, những hạt giống nẩy mầm của Giáo Hội
miền Bắc.
Còn đối với
đoàn chiên đã ra đi thì các Giám Mục miền Bắc đã tìm ra hướng sinh hoạt tương
đối ổn định cho họ. Mỗi giáo phận đều có một trụ sở mà vị đại diện của giáo
phận ấy coi sóc, mỗi giáo phận cũng tổ chức một ủy ban quản trị tài sản của
giáo phận mình gồm 4 thành viên. Thêm vào đó, các Dòng tu hoặc chủng viện của
các giáo phận cũng sinh hoạt và có tuyển sinh hằng năm. Riêng các chủng viện từ
niên khóa 1960-1961 ngưng tuyển sinh để dần dần sát nhập vào chủng viện của
giáo phận địa phương miền
Dù ngay cả khi Đất Nước đã
được thống nhất liền một dải vào năm 1975, thì vẫn còn đó cảnh tù tội mà không
có bản án, cảnh quản chế của nhiều Linh Mục, của các cụ trùm, ông quản giáo,
anh ca trưởng v..v… Đến thời kỳ đổi mới (1986), sau Đại Hội VI của Đảng Cộng
Sản cầm quyền, sinh hoạt của Giáo Hội hai miền Nam – Bắc tạm thời được dễ chịu
dần dần, tuy mức độ xử lý sinh hoạt tôn giáo nặng nhẹ mỗi nơi mỗi khác, tuỳ
theo trình độ và tâm tính của cán bộ địa phương.
Gặp lại nhau, Giáo Hội miền
Nam xin chân thành ngả nón trước ý chí kiên cường, lòng trung thành của Giáo
Hội miền Bắc đối với Thiên Chúa, đối với Hội Thánh. Lại càng thán phục hơn nữa
khi chỉ 30 năm, Giáo Hội miền Bắc đã mau lẹ tiếp thu những phát triển của Hội
Thánh toàn cầu, khiến hôm nay “mặt bằng” đức tin và hiểu biết của hai
miền, giáo sĩ cũng như giáo dân, đã có chung một tiếng nói, một đồng cảm dành
cho Nhà Chúa.
Bối
cảnh sinh hoạt của Giáo Hội tại miền
Tại miền Nam tính từ dưới vĩ
tuyến 17, năm 1954, Giáo Hội đã tiếp nhận khoảng hơn 800.000 tín hữu gồm đủ mọi
thành phần từ Giám Mục, Linh Mục đến các tu sĩ và giáo dân (x. Công giáo
Trên Quê Hương Việt Nam, Chương 29, Tập II của Lm. JMT Nguyễn Thế Thoại, xuất
bản 2001). Công việc trước mắt là ổn định nơi ăn chốn ở cho con số giáo dân
khổng lồ này, công việc không chỉ riêng là của nhà cầm quyền mà là của cả giới
lãnh đạo Giáo Hội nữa. Hàng loạt các giáo xứ được thiết lập từ miền Trung tới
đồng bằng sông Cửu Long. Con nhà có đạo di cư bỏ nhà cửa ruộng nương lại sau
lưng, nhưng vẫn muốn giữ “căn cước” của mình. Giáo dân Tam Toà lại lập giáo xứ
Tam Toà, giáo dân Phát Diệm lại lập giáo xứ Phát Diệm, thành ra hôm nay, khi
Đất Nước đã liền một dải mà có hai giáo xứ cùng tên ở hai miền Nam – Bắc. Bỗng
chốc, Giáo Hội miền Nam chẳng cần phải loan báo Tin Mừng mà có hàng ngàn giáo
xứ, hàng trăm ngàn tín hữu. Giáo dân miền
Chỉ hai năm sau Hiệp Định
Genève và bốn năm trước ngày thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, Toà Thánh đã
phê chuẩn và cho thi hành Hiến Chương Công giáo Tiến Hành Việt Nam vào năm
1956. Hiến Chương này đã mở rộng cánh cửa cho công việc Loan Báo Tin Mừng qua
các đoàn thể Công giáo tiến hành. Giáo dân thoải mái tham gia các hội đoàn tuỳ
theo khả năng và hoàn cảnh của mỗi người. Có những đoàn thể chuyên biệt dành
cho những người cùng ngành nghề hoặc cùng một hoàn cảnh sinh hoạt: hướng đạo
Công giáo, thanh sinh công, thanh lao công, trí thức Công giáo, thanh niên
thánh nghiệp …. Có những đoàn thể không chuyên biệt, ai tham gia cũng được như
Legio Mariae, các dòng ba Đa Minh – Phanxicô, Cát Minh … Tất cả các hội đoàn
này đều nhằm mục đích: thánh hoá bản thân tín hữu, giáo dục các thành viên theo
linh đạo Hội Đoàn, và loan báo Tin Mừng cho mọi người xung quanh. Không còn bàn
luận gì nữa, việc Loan Báo Tin Mừng không chỉ là ở trong nhà thờ, trên toà
giảng, mà là bằng chính cuộc sống yêu thương, bác ái của Kitô hữu. Từ nhiều thế
kỷ trước, hiệu quả của công việc Loan Báo Tin Mừng đã từ những thúng thuốc nam
của các “Bà Mụ”, các Chị dòng Mến Thánh Giá, len lỏi vào các thôn làng hẻo
lánh, cũng như hôm nay từ những lần thăm hỏi ân cần của anh chị em hội viên Legio
Mariae (tạm dịch là Tông đồ Mẹ Maria) đến với từng người neo đơn cô
quạnh.
Thêm vào đó, hiện nay hầu như
mỗi giáo phận đều đã thiết lập Trung Tâm Mục Vụ, cơ quan đầu não của giáo phận
lo huấn luyện giáo dân và hoạch định chương trình Loan Báo Tin Mừng trong toàn
giáo phận.
Tại miền
Góp tên trong danh sách báo
chí và nhà xuất bản của Giáo Hội tại Việt
Sau khi cuộc sống của dân di
cư Công giáo từ miền Bắc đã ổn dịnh, các giáo phận miền
Giáo Hội tại miền Nam với
công cuộc Loan Báo Tin Mừng sôi nổi, với những thành quả nhãn tiền cứ tưởng như
là lên núi Tabor đến nơi rồi, nào ngờ, con đường Thiên Chúa dẫn dắt Giáo Hội là
xuống dốc lên đèo đến thế! Ngày 30/4/1975, toàn bộ miền Nam rơi vào tay chính
quyền Cộng Sản miền Bắc. Một bộ phận nhỏ giáo dân bỏ nước ra đi, nhưng tuyệt
đại đa số giáo dân ở lại với Quê Hương, không một vị nào trong Hàng Giáo Phẩm
ra đi như năm 1954.
Một
số Văn thư của các Giám Mục Việt
Trước hết khi đề cập đến Hội
Đồng Giám Mục trong thời khoảng 1960-1975, ta nên hiểu đó là các Giám Mục miền
Nam, vì sự gián đoạn mối liên lạc Bắc - Nam không thể có gặp gỡ các Giám Mục
của 2 miền.
Từ khi có Hội Đồng Giám Mục,
các Giám Mục Việt
Ngày 8/11/1963: Các Giám Mục dự họp Công Đồng Vaticanô
II viết thư gửi các linh mục vừa thuật
truyện Công Đồng, vừa kêu gọi các linh mục hãy nghiên cứu giáo lý và mục vụ
truyền giáo sâu xa hơn để đáp ứng đòi hỏi của Công Đồng. Trong thư cũng đề cập
một thái độ văn hoá là cần dịch Kinh Thánh ra tiếng Việt, cố gắng làm cho
Chúa Kitô có bộ măt Việt Nam
Ngày 22/1/1964: Các Đức Giám Mục ra thông cáo về việc
kiện toàn tổ chức Hội Đồng Giám Mục- Canh tân Phụng Vụ - Tìm giải quyết vấn đề
quân dịch cho các chủng sinh - Duy trì và phát triển Đại Học Đà Lạt - Khuyến
khích các cơ quan ngôn luận Công giáo phục vụ giáo lý và sống đạo - Xác định
thái độ Giáo Hội đứng bên ngoài các tranh giành chính trị. Thông cáo này rút ra
từ nội dung thư luân lưu viết cùng ngày. Ngoài 9 Giám mục Việt Nam ký tên còn
có các Đức Cha Marcel Piquet Nha Trang, Đức Cha Paul Seitz Kontum, và Đức Cha
André Jacq hiệu Toà Cesara.
Năm 1966, các Giám Mục Việt
Ngày 5/1/1968 các Đức Giám Mục hoạ theo Đức Thánh Cha,
ra một thông cáo kêu gọi cầu nguyện cho hoà bình. Những đề tài “Người là sự
bình an của chúng ta” (Ep.2-14) -“Phúc Âm hoà bình” (Ep.6-15) -
“làm cho người hoà thuận” (Mat. 5-9). Nhắc lại lời Đức Thánh Cha ngày
2/5/1967: “Phải chấm dứt các cuộc oanh tạc trên Bắc Việt và đồng thời cũng phải
chấm dứt những cuộc xâm nhập vũ khí và vật liệu chiến tranh vào miền
Phiên họp Hội Đồng Giám
Mục 3/5/1968 tại
Để đẩy mạnh xây dựng hoà
bình, HĐGM đã gửi thư luân lưu 5/1/1969. Nội dung kêu gọi mọi
người tôn trọng phẩm vị con người và hòa
hơp quốc gia, tức là: Tôn trọng lương tâm - Tôn trọng gia đình - Tôn trọng lao
công - Tôn trong giáo dục - Tôn trọng luật pháp - Tôn trọng sinh mạng, tự do và
tài sản - Tôn trọng hoà hơp dân tộc. Thư luân lưu nhắc đến tình yêu chia sẻ
trong biến cố đau thương Tết Mậu Thân vừa qua - Kêu gọi mọi người hàn gắn vết
thương dân tộc. Những nội dung trong văn kiện này được trình bày trong bối cảnh
hoà đàm
Thông cáo ngày 30/7/1971 của các Giám Mục Nam Việt
Thông cáo 30/7/1971 cho thấy hành động thực tế của Giáo hội
miền Nam: Đối với người nghèo, các giáo phận nhất là miền Cửu Long sẵn sàng và
thúc đẩy chính phủ truất hữu ruộng đất Nhà Chung để cấp cho dân nghèo. Đối giới
trẻ, Giáo Hội tổ chức mạng lưới giáo dục giúp hơn nửa triệu học sinh (thống
kê 1971 là 529.802 học sinh). Trong số này một nửa không Công giáo. Thống
kê của Bộ Văn Hoá Giáo dục 1969 cho biết trong số 292 trường Trung học của các
tôn giáo, thì có 222 trường Công giáo, tức 76%. Ngoài ra, trường Công giáo còn
chiếm 80% tổng số các tiểu học tư thục trong toàn quốc.
Thông cáo này cũng quan tâm
nhiều vấn đề mà Công đồng Vaticanô II đưa ra và tham khảo ý kiến quần chúng. Ví
dụ sự độc thân của linh mục - công bình trên thế giới - vấn đề bầu cử ...
Ý nghĩa Tin Mừng Chúa Kitô
đòi hỏi công bình và bác ái trong thông cáo này thật rõ ràng khi các vị Giám
Mục mạnh dạn tuyên cáo: “Cả Bắc lẫn Nam, nhận xét đầu tiên của chúng tôi là
Việt Nam đang bị giằng co giữa hai thế lực tranh giành ảnh hưởng ... xã hội
Việt Nam là phản ảnh của tình trạng quốc tế: một thiểu số giàu cứ giàu thêm mãi
và một số nghèo cứ nghèo thêm mãi. Người ta đưa ra nhiều nguyên nhân ... Chúng
tôi nghĩ nguyên nhân sâu xa nhất là họ thiếu một đức bác ái chân thành, họ
không nhìn nơi đồng bào họ một người anh em ruột thịt ... Họ có bao giờ nghĩ
rằng đại đa số nghèo biết đâu sẽ có ngày tức nước vỡ bờ, sẽ gây nên những cuộc
cách mạng mà trong đó cả giàu lẫn nghèo không ai được lợi cả.”
Hoà
Bình Ơi: Thư mục vụ 3/2/1973
Trước những biến cố chính trị
dồn dập xảy ra ảnh hưởng tới quê hương và Giáo Hội, trước Hiệp Định hoà bình
Ý nghĩa Rao Giảng Tin Mừng
trong thư mục vụ này nổi lên ở lời kêu gọi nhìn nhận Thiên Chúa là Cha để mọi
người đều có thể gọi nhau là anh em. Nhưng tiếng Ngôn Sứ của Hội Đồng Giám Mục
có lẽ đã vang trong sa mạc. Cuộc chiến sắp kết thúc, quân ngoại quốc ở Nam VN
rút về nước vào tháng 3/1975. Còn lại là những người chung màu da, tiếng nói
đang đánh nhau.
Ngày 10/1/1974 Hội Đồng Giám Mục cất tiếng van nài:
“... Một lần nữa chúng tôi tha thiết yêu cầu chính phủ hai miền Nam Bắc cùng
một lượt và song phương, trong tình thương dân tộc, ngưng hẳn mọi hoạt động
chiến tranh, chấm dứt ngay việc tuyên truyền thù nghịch ... chung sống hoà bình
như hai nước anh em đợi ngày thống nhất bằng một cuộc tổng tuyển cử thật tự do
và dân chu ... Chúng tôi yêu cầu hai miền Nam Bắc trao trả hết tù binh quân sự
và dân sự ... Cho phép các gia đình ly tán ... từ bên này sang bên kia đoàn tu
... Chúng tôi cũng xin Chính phủ miền Bắc cứu xét và thả những người bị giam
cầm vì hành động chính trị hay tôn giáo. Riêng cho Giáo Hội Công giáo tại Bắc
Việt ... Chúng tôi xin cho các đấng Giám Mục, anh em đáng kính của chúng tôi,
được năng gặp gỡ nhau bàn về giáo sự, được liên lạc với chúng tôi và nhất là được
liên lạc với Toà Thánh Rôma”.
Bên cạnh mối âu lo về tình
hình đất nước, các Đức Giám Mục quan tâm tổ chức Năm Thánh CANH TÂN VÀ HÒA GIẢI
mà Đức Giáo Hoàng PHAOLÔ VI đã khai mạc ngày 10/6/1973. Hội Đồng Giám Mục Việt
Hai
bức tâm thư: tìm ra giá trị của Tin Mừng Đức Kitô trong các biến cố
Dù những hỗn loạn diễn ra
trong xã hội vào thời kỳ cuối cuộc chiến khiến mọi người hoang mang, các Vị chủ
chăn luôn dùng Lời Chúa để hướng dẫn đoàn chiên biết phải chọn lựa một thái độ
sống thế nào cho hợp ý Cha trên trời. Đó cũng là một cách rao giảng Tin Mừng mà
Thánh Phaolô đã xác định với Timôthê (2 Tim 4, 1-3).
Quân Giải Phóng tiến vào
Thành phố Huế ngày 26/3/1975, thì ngày 1/4/1975 Đức Tổng Giám
Mục Huế Phil. Nguyễn Kim Điền gửi
tâm thư cho toàn thể giáo phận: “Chiến
tranh đã chấm dứt trên giáo phận Huế...Thời gian sống trong hãi hùng, lo âu qua rồi. Thời gian
đồng bào chúng ta nghi kỵ, chia rẽ, thù hận nhau, có khi đến chém giết nhau đã
qua rồi. Chúng ta hãy cùng nhau cảm tạ Chúa vì hồng ân quí giá này”. Ngài không
quên “ghi ơn tất cả những ai đã hy sinh để có được ngày an bình hiện nay”. Bức
tâm thư tiếp: “... chúng ta hoan hỉ sẵn sàng và hăng say cộng tác với mọi người
thiện chí, dưới sự chỉ đạo của Chánh phủ Cách mạng để xây dựng lại quê hương
sau bao đổ vỡ tang tóc, hầu đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho đồng bào ruột
thịt”. Bức tâm thư cũng nhắc lại luật Bác ái của Đức Kitô... Sau đó một tuần, ngày
09/4-1975 trong buổi lễ ra mắt Uỷ ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thành
phố Huế, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền phát biểu về sự tin tưởng ở
lời bảo đảm long trọng của Mặt Trận là sẽ tôn trọng tự do, trong đó có tự do
tín ngưỡng. Đồng bào Công giáo nguyện tích cực góp phần xây dựng quê hương
trong tình tương thân tương ái, một xã hội dân chủ, tự do, hoà bình, trong đó
họ được chu toàn bổn phận đối với Tổ quốc và với Thiên Chúa.
Ngày 30/4/1975, quân Giải
Phóng vào Saigon...Ngày 5/5/1975, Đức Tổng Giám mục
– Cảm tạ
hồng ân Thiên Chúa đã ban cho đất nước được hòa bình, độc lập.
– Không hoảng
hốt, khép kín, hãy sáng suốt và tích cực trước mọi hoàn cảnh.
– “Nỗ lực tối đa
góp phần vào công cuộc hoà giải và hoà hợp dân tộc”.
– Tích cực thi
hành mọi nghĩa vụ công dân do Chính phủ Cách mạng chỉ đạo.
– Hướng về tương
lai xây dựng một nước Việt
– Riêng vói tín
hữu, hãy tin vào Chúa Kitô Phục Sinh và Thánh Linh.
Thư
luân lưu của Đức Tổng Giám Mục Saigon: toàn thể giáo dân sống Phúc Âm
Ngày 12/6/1975, Đức Tổng Giám Mục gửi thư luân
lưu mang nội dung:
– Kêu
gọi phục tùng chính quyền (trưng dẫn Gaudium et Spes, n. 74)
– Đối với các
giáo hội từng địa phương: hãy đồng tâm nhất trí, đào sâu Đức Tin để sáng suốt
thi hành nhiệm vụ công dân.
– Đối với Giáo
Hội toàn cầu, Giáo Hội tại Việt
Với hai tâm thư và thư luân lưu nói trên của hai vị Tổng Giám Mục Huế và
Saigon, người tín hữu có thể dễ dàng nhận ra một đường hướng truyền giáo
tập thể mang tâm niệm của Kinh Hoà Bình “Đem yêu thương vào nơi oán
thù... chiếu trông cậy vào nơi thất vọng ... Đem niềm vui đến chốn u sầu”. Đó
là nội dung cơ bản của sứ mạng truyền giáo. Thái độ do hai Đức Tổng Giám Mục
xác định có thể coi là định hướng chính cho cách sống đạo và truyền đạo của các
tín hữu Công giáo Nam Việt Nam lúc đó.
Những ngày sau đó
Không thể hết những rối ren, lộn xộn xảy ra đó đây trong
Giáo Hội cũng như ngoài xã hội. Sau khi Đức Khâm Sứ Toà Thánh phải rời Việt
Nam, thì nửa năm sau một biến cố gây nên nỗi buồn lan rộng trong giáo phận
Saigon và toàn thể tín hữu Việt Nam khi Đức Tổng Giám Mục Phanxicô Xaviê
Nguyễn văn Thuận, vị Tổng Giám Mục phó với quyền kế vị TGM Saigon bị Chính
quyền Cách mạng đem đi khỏi Saigon (đã đổi tên là Tp. Hồ Chí Minh). Hôm
đó là ngày 15/8/1975.
Cuộc sống cứ tiếp diễn, nhiều người bỏ đất nước ra đi,
nhiều người lên miền kinh tế mới. Nhiều dòng tu, nhiều giáo xứ không còn đất
đai, cơ sở vật chất, sự đi lại và cư trú không dễ dàng như xưa, nhiều tu sĩ,
chủng sinh hồi tục. Tình hình cần phải cải tiến. Các Giám Mục sẽ thực thi trách
nhiệm hướng dẫn dân Chúa trong cuộc hành trình Đức Tin đầy bất trắc trần gian
này (x. HGPCGVN 1960 – 1995, tr. 251).
Thông cáo chung 20/12/1975
Các Đức Giám Mục trong một đất nước thống nhất giờ đây đã
có thể hội ngộ. Cuộc họp đầu tiên tại thành phố Hồ Chí Minh qui tụ 23 Giám Mục
trên toàn quốc. Trong cuộc họp này các Giám Mục đã phân nhóm làm việc:
– Nghiên
cứu các tương quan trong xã hội mới.
– Nghiên cứu nội
bộ của miền
– Nghiên cứu việc
huấn luyện các thành phần dân Chúa.
Các nhóm làm việc đều có Giám Mục, linh mục, tu sĩ và
giáo dân tham gia thảo luận. Những chuẩn bị đó sẽ dọn đường cho những kỳ họp
tới để có những hướng dẫn cụ thể hơn cho cộng đoàn dân Chúa trên quê hương.
Thư chung Hội nghị Giám Mục miền Nam Việt Nam 16/7/1976
Đây là một thư đề ra đường lối mới để người Công giáo
sống đạo trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Những điểm chính:
– Dấn
thân: Cộng đồng Kitô hữu Việt
– Phục vụ: Hăng
hái chu toàn nghĩa vụ của mình với đất nước và xã hội, phải hoạt động cộng tác
với mọi người để tổ chức kinh tế xã hội, cổ võ nâng cao những điều chân thiện
mỹ.
– Trong cộng đồng
dân tộc: Người Công giáo kề vai chung sức với mọi người để xây dựng đất nước,
và làm những gì lợi ích chung cho cộng đồng dân tộc mà không nghịch với đức tin
và lương tâm Kitô giáo.
– Với chủ nghĩa
xã hội: Đức tin Kitô giáo và chủ nghĩa Mác Lênin vốn có xung khắc nhưng vẫn có
thể đối thoại và cộng tác chân thành giữa những ai phục vụ con người để “trợ
lực cho việc xây dựng thế giới này được hợp lý” (hiến chế Mục Vụ 21,6).
– Giá trị lao
động: Yêu lao động, vì lao động nuôi sống mình và gia đình liên kết với anh em
và phục vụ họ để thực thi bác ái và góp công kiện toàn chương trình sáng tạo
của Thiên Chúa (hiến chế Mục Vụ 67). Lao động sản xuất còn là chính sách
cần thiết xây dựng kinh tế tự túc, để bảo độc lập, tự do của dân tộc.
Thư chung cũng nhắn nhủ giáo dân sống thánh thiện giữa
đời, nhắc nhở chị em phụ nữ củng cố đời sống đạo đức gia đình, huấn
luyện đức tin cho con em để chúng trở nên người Công giáo trung thành. Thư
chung nhắc nhở các bạn trẻ cần can đảm bảo vệ và phát huy những giá trị nhân
bản và thiêng liêng. Thư chung cũng kêu gọi tu sĩ ý thức ơn gọi và sứ
mạng của mình là tận hiến và phục vụ ... trở nên dấu chỉ cho Nước Trời
trước mặt dân Thiên Chúa và mọi người. Sau hết, thư chung khuyên các linh
mục đem tinh thần hiền hoà khiêm tốn phục vụ dân Chúa và mọi người, chú tâm
đặc biệt vào Phụng Vụ ... Thánh Lễ hiệp nhất với Giám Mục ... giúp tín hữu nhận
ra ý Chúa quan phòng trong những biến cố của đời sống.
Trong phần kết luận, Thư Chung nhắc lại:
“Đức tin không phải là bức tường ngăn cách người có tín ngưỡng và không tín
ngưỡng, cũng không phải là thuốc mê đưa người Công giáo xa rời thực tại trần
gian”. (x. HGPCGVN 1960 – 1995, tr. 255 - 265).
Kết luận chung cho đường hướng loan báo Tin Mừng của
những năm vừa qua
Thập niên
1960: củng cố Đức Tin
– Miền Bắc: Sứ
mạng truyền giáo tập trung vào việc huấn luyện đạo đức trong gia đình, mục tiêu
giữ vững Đức Tin trong mọi hoàn cảnh khó khăn, nhất là khi thiếu vắng mục tử.
– Miền Nam: Các
giáo phận di cư ổn định cuộc sống, làm việc và học tập trong sự đùm bọc chia sẻ
của các giáo phận địa phương.
– Hội Đồng Giám
Mục (dù chỉ gồm các Giám Mục miền Nam) theo sát tình hình truyền giáo của đất nước, nên đã có những văn
bản hướng dẫn mục vụ kịp thời nhất là trong bối cảnh các giáo huấn của Công
Đồng Vaticanô II đang cần được phổ biến.
– Các dòng tu
thực hiện sứ mạng truyền giáo tại miền
– Ơn gọi truyền
giáo tăng cao nhất là nơi những giáo phận mới được thiết lập.
– Đẩy mạnh giáo
dục tri thức cấp đại học, và cổ võ thanh niên dấn thân theo lý tưởng Chúa
Giêsu.
– Khuyến khích
báo chí Công giáo.
– Mở mang việc
giáo dục cơ sở tại các họ đạo, khuyến khích nâng cao trí thức nơi giới trẻ.
Thập niên 1970: truyền giáo thiết thực
– Nhiều
thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục được phổ biến kịp thời theo từng biến cố của
đất nước. Xét từng giáo phận thì có những quan tâm riêng về đời sống linh mục
hoặc giáo dân mà ở trên chưa nhắc tới. Ví dụ giáo phận Saigon có “Năng quyền thập niên”, giáo
phận Long Xuyên có “Chỉ nam linh mục”, giáo phận Nha Trang có tổ chức Hội Đồng Mục Vụ, Tông Đồ giáo dân
theo hướng Công Đồng Vaticanô II.
– Các uỷ ban
trong Hội Đồng Giám Mục được tổ chức và cải tổ ngay từ thông cáo 10/1/1971 và
làm việc rất hiệu quả.
– Cuộc tổ chức
nghiên cứu đường lối truyền giáo của Công Đồng Vaticanô II tại giáo phận Nha
Trang 1974, với chủ đề “Trong Cộng Đồng Dân Chúa” do nhiều chuyên gia thực hiện
dưới sự điều khiển của Đức Giám Mục FX. Nguyễn Văn Thuận và Cha Bart. Nguyễn
Sơn Lâm, Giám Đốc đại chủng viện Xuân Bích – Huế, đã tạo ảnh hưởng lớn trong
phong cách sống đạo thời mới của Giáo Hội miền Nam lúc đó.
– Các giáo phận
cố gắng thực hiện công tác truyền giáo trong việc thiết lập những giáo điểm,
nhưng sứ mạng truyền giáo chỉ mới được trao đổi liên giáo phận trong thời gian
vài năm đầu của thập niên 1970. Phong trào “Mỗi gia đình một Tân Ước” được phát
động thời điểm này.
– Cuộc chiến và
tình hình an ninh chính trị của đất nước là một thử thách cho sứ mạng truyền
giáo, nhưng kết quả cũng vẫn thêm cho Giáo Hội Việt
Những năm cuối thập niên 1970
là thời điểm thử thách rất gay gắt cho nếp sống đạo. Các Giám Mục đã nỗ lực
củng cố Đức Tin và hướng dẫn giáo dân vừa sống đạo vừa xây dựng quê hương. Đó
là cơ hội thuận lợi để truyền giáo thiết thực. Những yếu tố trên trở thành đà
tiến cho những thập niên kế tiếp.
Giáo Hội Công giáo Việt
Giáo Hội Công giáo Việt