Giáo Hội Công giáo Việt
(1)
MỞ ĐẦU
Lịch sử Giáo Hội chính là lịch sử
truyền giáo, vì Sứ Mạng Truyền Giáo tạo nên và duy trì sức sống của Giáo Hội.
Trong sách Giáo Lý Công giáo của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam in dưới hình thức
các câu hỏi - đáp, bài “Lịch sử Hội Thánh Công giáo tại Việt Nam” [NXB Tôn
Giáo, Hà Nội 2004, tr. 44, bài 21] nhắc cho người giáo dân rằng: “Sống theo
sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới
Đức Kitô, vì Người là Đầu. Người làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng
trong tình bác ái [Eph 4,15-16]”. Hội Thánh được sinh ra và lớn lên cùng
với Đức Kitô trong sức mạnh Chúa Thánh Thần. Bài giáo lý đó cũng đề cập chặng
đường 50 năm của Hội Thánh Công giáo tại Việt Nam khi đặt ra các câu hỏi: Hàng
Giám Mục Việt Nam được thiết lập năm nào? Hiện nay Hội Thánh Việt
1. GIỚI HẠN PHẠM VI ĐỀ TÀI
Nhóm Nghiên Cứu Loan Báo Tin
Mừng của chúng tôi thấy rằng đề tài Giáo Hội Công Giáo Việt Nam Và Nỗ Lực
Truyền Giáo 50 Năm Qua bao quát nhiều lãnh vực thuộc các Uỷ Ban Mục Vụ
khác. Do vậy, chúng tôi tập trung cái nhìn vào góc độ chỉ đạo của các Giám Mục
Việt Nam từ năm 1960 cho đến nay tích tụ trong những văn thư mà các Vị đã ban
hành, hoặc gửi cho các tín hữu trong giáo phận hoặc toàn quốc liên quan tới sứ
mạng Truyền Giáo. Đó là điểm nhấn của bài viết này.
2. THOÁNG NHÌN TIẾN TRÌNH
TRUYỀN GIÁO
Trong thời kỳ Bảo Trợ (1533
– 1659), ngươi Đại Việt được tiếp nhận Phúc Âm nhờ bao công lao vất vả của
các Vị Thừa Sai ban đầu. Đến thời kỳ Tông Toà (1659 – 1960). nhờ ơn Chúa
củng cố nền tảng Đức Tin vững chắc, các tín hữu đã tiếp tục trưởng thành đến độ
có thể làm chứng nhân bằng hiến cả mạng sống cho Hội Thánh được lớn mạnh, và
“khi thời gian đã mãn” Hội Thánh tại Việt Nam đã hiên ngang bước vào thời kỳ
Chính Toà kể từ năm 1960 tới nay, theo Sắc Chỉ Venerabilium Nostrorum ngày
24/11/1960 của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII về việc thiết lập phẩm trật Giáo Hội
tại Việt Nam (x. Niêm Giám 1964 – Việt Nam Công giáo, trang 174).
Trong thoáng nhìn ấy, người
tín hữu Việt Nam vẫn đọng lại trong tâm tư những lời khuyên nhủ, các giáo huấn,
hướng dẫn, và những chia sẻ tâm tình của các Vị Chủ Chăn kính mến nơi giáo
phận, cũng như trên toàn quốc. Nơi đây, chúng tôi chỉ ghi lại một số lời các
chủ chăn tác động hiệu quả tới công cuộc Truyền Giáo mà chúng ta đang bàn.
3. THẬP NIÊN CUỐI THỜI KỲ
TÔNG TOÀ
Thư Chung 1951: Giữ gìn Đức Tin và bước
đi thận trọng
Lịch sử có
lối đi riêng của nó. Đức Tin của người Công giáo lại bị coi như vật cản của một
chính thể mới. Trước những khó khăn cho việc truyền đạo và sống đạo, các Giám
Mục tại Đông Dương lúc đó đã họp tại Hà Nội từ 05-10/11/1951 dưới quyền chủ tọa
cuả ĐGM John Dooley Khâm Sứ Toà Thánh Tại Đông Dương để soạn thư chung mô tả
tình hình Giáo Hội và đưa ra phương thức đối phó, trong đó có đoạn: “Vậy, hỡi
các bạn linh mục thân yêu, anh em hãy dạy cho dân chúng biết học thuyết xã hội
Công giáo, nhất là phải nhấn mạnh vào hai nhân đức nền tảng: công bình và bác
ái. Cả giáo sĩ và giáo dân, hãy sống một đời Công giáo sâu xa đặt nền trên
nguyên tắc Phúc Âm. Đức bác ái cuả bổn đạo thời xưa đã chinh phục được thế
giới trở lại. Bác ái là nhịn nhục, chịu đựng, tha thứ và thành thực muốn làm
sự lành cho người khác. Đức bác ái
cuả Chúa Kitô đã toàn thắng tật ghen tương của thế gian thì đức bác ái
của anh em cũng sẽ thắng cơn ghen ghét của những địch thù Thiên Chuá”. Trong số
11 Giám Mục ký thư chung này có 5 Giám Mục là người Việt Nam (GM Phêrô Ngô
Đình Thục, GM Anselmô Lê Hữu Từ, GM Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, GM Đôminicô
Hoàng Văn Đoàn, GM Giuse Maria Trịnh Như Khuê).
Trong thời
điểm có vẻ đen tối này, thì một an ủi lớn lao cho Giáo Hội Việt
Thư Chung 1952: Sống đạo trong dòng văn
hóa dân tộc
Các Giám mục
tại Việt
Để cụ thể
hóa các giáo huấn về truyền giáo, các Giám Mục đã quyết định thành lập một
“Trung tâm hoạt động tông đồ giáo dân” và đặt Linh Mục Gérard Gagnon (Cha
Nhân), dòng Chúa Cứu Thế điều khiển trung tâm. Sau này Cha Gagnon đã lập “biệt
thự Thánh Tâm” tại Đà Lạt giúp tập trung huấn luyện nhiều đoàn viên tông đồ cho
các đoàn thể của nhiều giáo phận. Cộng tác với Cha Gagnon có Linh Mục Bart.
Nguyễn Trí Mạnh (x. Ba Mươi Năm CG VN dưới chế độ CS 1975 – 2005, tr. 34).
Thư Chung 1953: Phân biệt phạm vi Công
giáo và phạm vi chính trị
Băn khoăn về
tình hình phức tạp của thời cuộc và ý thức trách nhiệm của chủ chăn, nên các
Giám Mục lãnh đạo Giáo Hội viết thêm một thư chung để chỉ ra những nguyên tắc
cụ thể về những hoạt động thuộc phạm vi quốc gia hay thế tục. Trong đó xác định
Công giáo là một “đoàn thể hoàn toàn tôn giáo và là thành phần của Hội Thánh
chung cho thế giới, và không bao giờ có ý nghĩa Hội Thánh là một đoàn thể
chính trị”. Từ nguyên tắc này các Giám Mục xác định quyền “nói nhân danh
Hội Thánh Việt Nam” - “Không gia nhập một đảng phái chính trị nào và không phản
đối chính thể nào, nếu chính thể đó biết công nhận những quyền lợi bất di dịch
của Hội Thánh” - Người Công giáo “được tự do nhập đoàn thể hay đảng phái chính
trị họ thấy am hợp, miễn là những đoàn thể đảng phái đó tôn trọng tôn chỉ hay
trong chương trình hoạt động không có gì phản trái với một lương tâm Công giáo
sáng suốt”.
Thư chung
cũng nhấn mạnh người Công giáo lúc nào “cũng phải giữ đạo Công giáo một cách
khiêm tốn nhưng cương quyết”. Mặt khác, các giám mục cũng tìm cách phổ biến
sâu rộng giáo dục Công giáo, nên Đức Khâm sứ Dooley đã mở hội nghị báo chí Công
giáo 30/3/1954, có 13 tờ báo tham dự, lập ra uỷ ban liên lạc báo chí Công giáo
Việt Nam. Uỷ ban đã không thực hiện đuợc mục tiêu vì xảy ra biến cố di cư 1954 (x.
Ba Mươi Năm CG VN dưới chế độ CS 1975 – 2005, tr. 34 và các trích dẫn HGPCGVN
từ tr. 109-114)
Biến cố lịch sử: cuộc di cư 1954
Hiệp Định
Genève 1954 chia đội đất nước Việt
Đức Cha
Phêrô Maria Phạm ngọc Chi được Đức Khâm sứ Dooley trao nhiệm vụ coi sóc giáo
dân và giáo sĩ di cư. Có hai linh mục phụ tá là Mic. Nguyễn Khắc Ngữ giáo phận
Lạng Sơn và Dom. Hoàng Mạnh Hiền, dòng Đa Minh.
Trong thời
điểm chia cắt phũ phàng này, nhiều vị chủ chăn đã chọn thi hành sứ mạng trong
thử thách của chế độ mới, nhiều vị đã vào miền Nam tự do lại trở ra Bắc để ươm
trồng và truyền giảng Phúc Âm. Vị Giám mục Hà Nội Giuse Maria Trịnh như Khuê,
một người nổi tiếng khôn ngoan, thánh thiện và cương quyết đã xây dựng và khánh
thành một nhà thờ mới do một linh mục thừa sai ngoại quốc làm chính xứ chỉ vài
tháng trước khi thành lập nhà nước cộng sản miền Bắc vào năm 1954 (Histoire
universelle des missions catholiques. Vol III, p. 232-233-photos). Thời
gian ngắn sau đó, các thừa sai cũng phải ra đi. Cha Paul Carat MEP viết về Đức
Cha Khuê: “Chúng tôi được lãnh đạo bởi một con người thánh thiện, Ngài nêu
gương sáng cho mọi người ... Ngài lợi dụng tự do tương đối đi thăm Phủ Doãn
Tông Toà của Ngài. Bị chặn chỗ này, Ngài chạy chỗ khác, và nài nỉ tín hữu
giữ Đức Tin kiên cường ... Ngài nói: “Nếu sau này các giáo dân của tôi phải
chịu khổ thể xác hay tâm hồn, thì chính tôi là người phải trả lẽ trước mặt
Chúa” (Lettres du P. Paul Carat, MEP).
Sau cuộc di
cư, 10 giáo phận miền Bắc chỉ còn lại 7 Giám Mục, 374 Linh Mục và một số ít tu
sĩ phục vụ 750.000 tín hữu. Xem ra biến cố 1954 là một thử thách gay go cho sự
sống đạo và truyền đạo của Giáo Hội Công giáo cả 2 miền Nam - Bắc tại Việt Nam:
Sứ mạng truyền giáo phải thích nghi theo dòng lịch sử.
Trong góc độ
truyền giáo, ý nghĩa của sứ mạng Phúc Âm lúc này nhấn mạnh vào cầu nguyện, hy
sinh, và chia sẻ. Những tín hữu Việt
Cũng nên
nhắc lại ở đây sau Hiệp Định Genève 1954, vì tình hình chính trị, vị Khâm sứ
Toà Thánh đóng ở miền Bắc Việt Nam, không liên lạc được với các lãnh thổ khác
thuộc quyền, vì vậy ngày 15/2/1956 Toà Thánh đặt một vị Thanh tra Tông Toà tại
Saigon. Sau đó, ngày 13/3/1957 vị Thanh tra Tông Toà được nâng lên thành Đại lý
Khâm Sứ (x. Niêm Giám 1964 - VNCG tr. 166). Đến năm 1959 vị Khâm Sứ Toà
Thánh rời Hà Nội. Toà Thánh thiết lập Toà Khâm Sứ tại
Từ những ghi nhận trên đây, ta có thể hướng tới thời kỳ Chính Toà đầy phấn khởi đã gặt hái nhiều kết quả, và làm nảy sinh những viễn tượng lạc quan hơn.
Giáo Hội Công giáo Việt
Giáo Hội Công giáo Việt