CẬP NHẬT TIN ĐỨC THÁNH CHA
TÔNG DU NAM SUDAN TỪ NGÀY 03-05/02/2023

(Cập nhật lúc 08h30 ngày 06.02.2023)

----------

BẢN TIN NGÀY CHÚA NHẬT 05.02.2023


----------

THÁNH LỄ DO ĐỨC THÁNH CHA CHỦ SỰ TẠI LĂNG “JOHN GARANG”

Văn Yên, SJ - Vatican News

Vatican News (05.02.2023)Sáng Chúa Nhật 5/2, Đức Thánh Cha đã dâng Thánh Lễ với khoảng 100 ngàn người Nam Sudan tại Lăng “John Garang” ở Juba của Nam Sudan. Đây là sự kiện cuối cùng của ĐTC trong chuyến tông du 5 ngày đến CHDC Congo và Nam Sudan. Thánh Lễ diễn ra trong bầu khi vui nhộn của văn hoá Nam Sudan với các bài hát và điệu vũ xuyên suốt cử hành phụng vụ.


Đức Thánh Cha mở đầu bài giảng bằng cách lấy lại lời của thánh Phaolô gởi cộng đoàn Côrintô trong bài đọc hai: “khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê-su Ki-tô, mà là Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá.” (1Cr 2,1-2). Ngài nói rằng: sự lo lắng của Phaolô cũng là của tôi, được ở đây với anh chị em nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa của tình yêu, Thiên Chúa đã mang lại bình an qua thập giá của Người; Chúa Giêsu, Thiên Chúa chịu đóng đinh vì tất cả chúng ta.

Đức Thánh Cha khai triển hai hình ảnh trong bài đọc Tin Mừng được đọc trong Thánh Lễ: “Anh em là muối đất […]. Anh em là ánh sáng thế gian” (Mt 5:13.14).

Anh em là muối đất

Muối được dùng để tạo hương vị cho thức ăn, mang lại hương vị cho mọi thứ. Thiếu muối, mọi sự trở nên nhạt nhẽo, vô vị. Và Chúa Giêsu nói đến muối ngay sau khi công bố các Mối phúc cho các môn đệ, và chúng ta hiểu đó là muối của đời sống Kitô hữu. “Các Mối Phúc khẳng định rằng để có phúc, tức là được hạnh phúc trọn vẹn, chúng ta không được cố tỏ ra mạnh mẽ, giàu sang hống hách, nhưng phải khiêm nhường, hiền lành và thương xót; không làm hại ai, nhưng là người kiến ​​tạo hòa bình cho mọi người.” Với hình ảnh này, Đức Thánh Cha khuyến khích người dân Nam Sudan mang lại hương vị cho mảnh đất họ đang ở.

Ngoài ra, muối còn để bảo quản thực phẩm. Vậy nên, điều này cũng nhắc nhở chúng ta về nhu cầu chính yếu là gìn giữ mối tương quan với Thiên Chúa. “Vào thời cổ đại, khi con người hoặc các dân tộc thiết lập tình bạn hữu với nhau, họ thường ước định bằng cách trao đổi một ít muối; chúng ta là muối được mời gọi làm chứng cho giao ước với Thiên Chúa trong niềm hân hoan, với lòng biết ơn, chứng tỏ rằng chúng ta là những người có khả năng tạo ra những mối dây bạn hữu, sống trong tình huynh đệ, xây dựng những mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với nhau, ngăn chặn không để cho sự băng hoại của sự dữ, căn bệnh chia rẽ, sự bẩn thỉu của công việc xấu xa, tai họa của sự bất công hoành hành.”

Đức Thánh Cha vừa khuyến khích và cũng vừa cảm ơn anh chị em tín hữu Nam Sudan là muối đất tại đất nước này. Ngài nói: “Tuy nhiên, đối diện quá nhiều vết thương, bạo lực làm gia tăng chất độc của hận thù; đối diện với sự gian ác gây ra đau khổ và nghèo đói, anh chị em dường như quá nhỏ bé và bất lực. Tuy nhiên, khi anh chị em có cám dỗ cảm thấy quá bất cân xứng, hãy thử nhìn vào muối và những hạt li ti của nó: nó là một thành phần nhỏ và khi đã lên dĩa thức ăn, nó sẽ biến mất, tan chảy, nhưng đây chính xác là cách nó mang lại hương vị cho toàn thể. Do đó, Kitô hữu chúng ta, mặc dù mong manh và nhỏ bé, ngay cả khi sức mạnh của chúng ta dường như không đáng kể so với tầm quan trọng của các vấn đề và sự điên cuồng của bạo lực, (chúng ta) cũng có thể đóng góp một cách quyết định để thay đổi lịch sử.”

Anh em là ánh sáng thế gian

Về hình ảnh thứ hai: ánh sáng - Anh em là ánh sáng thế gian. Chính Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian, và Người nói với các môn đệ rằng họ cũng là ánh sáng thế gian. “Điều này có nghĩa là, bằng cách chào đón ánh sáng của Chúa Kitô, ánh sáng là Chúa Kitô, chúng ta trở nên sáng ngời, chúng ta chiếu tỏa ánh sáng của Thiên Chúa!”

Lời mời gọi trở thành ánh sáng thế gian của Chúa Giêsu thật rõ ràng: chúng ta, những môn đệ của Người, được mời gọi chiếu sáng như thành trì trên cao, như ngọn đèn không thể tắt. Nói cách khác, trước khi lo lắng về bóng tối bao quanh chúng ta, trước khi hy vọng rằng một cái gì đó xung quanh chúng ta sẽ sáng lên, thì chúng ta cần phải tỏa sáng, chiếu sáng bằng cuộc sống và công việc của mình cho những thành phố, làng mạc và nơi chúng ta sống, những người mà chúng ta gặp gỡ, những hoạt động chúng ta thực hiện. Chúa ban cho chúng ta sức mạnh, sức mạnh để trong Người chúng ta trở nên ánh sáng cho mọi người; để mọi người có thể nhìn thấy những công việc tốt lành của chúng ta và khi nhìn thấy điều tốt đẹp đó - Chúa Giêsu nhắc chúng ta -, họ sẽ mở lòng kinh ngạc trước Thiên Chúa và tôn vinh Người (x. c. 16): nếu chúng ta sống như con cái và anh em trên mặt đất, mọi người sẽ khám phá ra rằng họ có một Cha Trên trời. Do đó, chúng ta được mời gọi thắp lên tình yêu: không để cho ánh sáng của chúng ta vụt tắt, dưỡng khí của lòng bác ái biến mất khỏi cuộc sống của chúng ta. Vì vậy, miền đất xinh đẹp và bị tra tấn này cần ánh sáng mà mỗi anh chị em có, hay đúng hơn, cần thứ ánh sáng là mỗi anh chị em!

Cuối cùng, ĐTC cầu chúc: “tôi cầu chúc anh chị em trở thành muối rải khắp và tan chảy cách quảng đại để tạo cho Nam Sudan hương vị huynh đệ của Tin Mừng; trở thành những cộng đoàn Kitô sáng ngời, giống như những thành phố được xây trên núi, có thể soi sáng điều tốt lành cho mọi người và cho thấy rằng sống tự do, có hy vọng, cùng nhau xây dựng một tương lai hòa giải là điều khả thi và tốt đẹp.

Cuối Thánh Lễ, ĐTC cảm ơn tất cả mọi người đã cộng tác trong việc chuẩn bị cho chuyến tông du của ngài. Ngài khuyến khích những người dân Nam Sudan đừng đánh mất hy vọng, và đồng thời, cầu chúc họ sớm có được hoà bình.

Kết thúc Thánh Lễ, ĐTC ra sân bay Juba cách đó 7km để trở về Roma. Kết thúc chuyến tông du 5 ngày đến CHDC Congo và Nam Sudan.

Nguồn: vaticannews.va/vi

----------

BẢN TIN NGẮN THỨ BẢY 04.02.2023


------------

NGÀY 05.02.2023
Lúc 00:00 (Giờ Việt Nam)

ĐỨC THÁNH CHA CHỦ SỰ BUỔI CẦU NGUYỆN ĐẠI KẾT TẠI LĂNG "JOHN GARANG"

Hồng Thủy - Vatican News

Vatican News (04.02.2023)Trong buổi cầu nguyện đại kết tại Lăng "John Garang", Đức Thánh Cha mời gọi các Kitô hữu cầu nguyện và làm việc vì sự hiệp nhất huynh đệ giữa các Kitô hữu và hãy giúp nhau truyền bá thông điệp hòa bình trong xã hội, truyền bá phong cách bất bạo động của Chúa Giêsu, để nơi những người tự xưng là tín hữu không còn chỗ cho một nền văn hóa dựa trên tinh thần báo thù.


Hoạt động cuối cùng của Đức Thánh Cha trong ngày thứ hai của chuyến viếng thăm Nam Sudan là chủ sự buổi Cầu nguyện Đại kết tại Lăng John Garang.

Sau khi gặp gỡ những người di tản nội địa tại Hội trường Tự do, Đức Thánh Cha cùng Đức Tổng Giám mục Anh giáo của Canterbury và vị Điều hành Tổng công nghị của Giáo hội Scotland di chuyển đến Lăng John Garang gần đó.

Lăng John Garang

Lăng này là nơi an nghỉ của tiến sĩ John Garang de Mabior. Ông là lãnh đạo Lực lượng và Phong trào Giải phóng Nhân dân Sudan từ năm 1983 đến năm 2005, năm ký Hiệp ước Hoà bình Toàn cầu, với kết quả là Nam Sudan được độc lập vào năm 2011. Tuy nhiên ông John Garang không thể chứng kiến sự kiện này vì ông đã qua đời do tai nạn máy bay sau khi đã tuyên thệ làm phó tổng thống thứ nhất của Sudan và Tổng thống của chính phủ Nam Sudan.

Chính trên lăng mộ của ông John Garang, vào ngày 9/7/2011, ông Salva Kiir Mayardit, Tổng thống hiện tại của Nam Sudan, đã tuyên bố đất nước độc lập.


Đức Thánh Cha chủ sự buổi Cầu nguyện đại kết tại Lăng "John Garang"

Cầu nguyện đại kết: Con cầu nguyện để họ nên một... (Ga 17,21)

Chủ đề của buổi cầu nguyện là ‘Con cầu nguyện để họ nên một...’ (Ga 17,21). Tham dự buổi cầu nguyện đại kết có đại diện của các Giáo hội Kitô tại Nam Sudan.

Bắt đầu buổi cầu nguyện, mục sư Thomas Tut Puot Mut, Chủ tịch Hội đồng các Giáo hội của Nam Sudan, đã đại diện chào mừng Đức Thánh Cha và các phái đoàn đại kết.

Đoạn sách Công vụ Tông đồ (2,42-47) được công bố trong buổi cầu nguyện đại kết, thuật lại việc các tín hữu tiên khởi chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng cầu nguyện, đồng tâm nhất trí và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ. Sau đó, đoạn Tin Mừng thánh Gioan (17,20-26) thuật lại lời Chúa Giêsu cầu nguyện cho tất cả được hiệp nhất, được trở nên một, “như Cha ở trong con và con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta.”

Trong buổi cầu nguyện, các tín hữu thuộc các Giáo hội Kitô khác nhau cũng đã tuyên xưng đức tin, bằng cách cùng nhau đọc lại kinh Tin Kính các Tông đồ. Sau đó, những lời cầu nguyện khẩn cầu lòng thương xót cho quốc gia đã được các tín hữu thuộc các Giáo hội Kitô khác nhau ở Nam Sudan dâng lên Thiên Chúa.


Đức Thánh Cha chủ sự buổi Cầu nguyện đại kết tại Lăng "John Garang"

Diễn văn của Đức Thánh Cha

Mở đầu bài chia sẻ, Đức Thánh Cha nói rằng mọi người đang quy tụ, như là Dân Thánh của Chúa, cầu nguyện cho dân tộc đang bị thương tích này. Và ngài nhấn mạnh: “Là Kitô hữu, cầu nguyện là điều đầu tiên và quan trọng nhất mà chúng ta được mời gọi thực hiện để có thể hoạt động cho sự thiện và có sức mạnh để kiên trì trên hành trình của chúng ta.” Từ đó ngài chia sẻ về ba động từ: Cầu nguyện, làm việc và bước đi.

1. Cầu nguyện

Trước hết là cầu nguyện. Đức Thánh Cha khẳng định rằng sự dấn thân của các cộng đoàn Kitô hữu trong việc thăng tiến con người, trong tình liên đới và hòa bình sẽ vô ích nếu không có lời cầu nguyện.

Suy tư về ý nghĩa của việc cầu nguyện trong đời sống và sứ vụ lãnh đạo dân tộc của ông Môsê trên hành trình tìm đến tự do, đặc biệt qua biến cố tại Biển Đỏ: trước mặt họ là một bức tường nước không thể vượt qua được và đàng sau là quân địch đang tiến đến, với chiến xa và ngựa, Đức Thánh Cha nhận xét rằng trong hoàn cảnh tuyệt vọng đó, ông Môsê khuyên dân chúng: |Đừng sợ! Cứ đứng vững, rồi anh em sẽ thấy việc Đức Chúa làm hôm nay để cứu thoát anh em” (Xh 14,13). Ông có được sự chắc chắn như vậy là nhờ lắng nghe Chúa (xem các câu 2-4), Đấng đã hứa với ông rằng Người sẽ tỏ vinh quang của Người. Và Đức Thánh Cha khẳng định: “Sự kết hợp với Thiên Chúa, sự tin tưởng vào Người được vun trồng trong cầu nguyện, là bí quyết nhờ đó ông Môsê có thể lãnh đạo dân chúng đi từ áp bức đến tự do.”


Đức Thánh Cha chủ sự buổi Cầu nguyện đại kết tại Lăng “John Garang”

Cầu nguyện ban cho chúng ta sức mạnh để tiến bước

Đối với chúng ta cũng vậy. Đức Thánh Cha nói: “Cầu nguyện ban cho chúng ta sức mạnh để tiến bước, để vượt qua những nỗi sợ hãi, để thoáng thấy, ngay cả trong bóng tối, ơn cứu độ mà giờ đây Thiên Chúa đang chuẩn bị. Hơn nữa, cầu nguyện kéo ơn cứu độ của Thiên Chúa xuống trên con người.” Đặc biệt, các mục tử của dân Chúa có bổn phận đặc biệt chuyển cầu cho đoàn chiên của mình để xin Chúa của sự bình an can thiệp nơi mà con người không thể mang lại bình an.

Hãy chuyên cần và đồng tâm cầu nguyện

Và Đức Thánh Cha mời gọi các Kitô hữu thuộc các hệ phái khác nhau hãy hiệp nhất với nhau, như một gia đình duy nhất, có trách nhiệm cầu nguyện cho mọi người; hãy chuyên cần và đồng tâm cầu nguyện (xem Cv 1,14) để Nam Sudan, giống như dân Chúa trong Kinh Thánh, ‘có thể đến được miền đất hứa.’”


Đức Thánh Cha chủ sự buổi Cầu nguyện đại kết tại Lăng “John Garang”

2. Làm việc vì hoà bình

Về động từ thứ hai - làm việc, theo Đức Thánh Cha, chúng ta được mời gọi làm việc là vì hoà bình, vì Chúa Giêsu muốn chúng ta trở thành “những người kiến ​​tạo hòa bình” (Mt 5,9). “Người muốn Giáo hội của Người không chỉ là dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, mà còn là sự hiệp nhất của toàn thể nhân loại (x. Lumen gentium, 1).” Chúa Kitô “là bình an của chúng ta” chính bởi vì Người tái lập sự hiệp nhất: Người là Đấng “làm cho cả hai nên một, phá đổ những bức tường ngăn cách, thù hận” (x. Ep 2,14). Đức Thánh Cha giải thích: “Đây là bình an của Thiên Chúa: không chỉ là một thỏa thuận đình chiến giữa các cuộc xung đột, nhưng là một sự hiệp thông huynh đệ, đến từ việc liên kết với nhau, không phải từ việc nuốt chửng nhau; từ tha thứ chứ không từ chế ngự; từ hòa giải chứ không từ áp đặt.”

Ai theo Chúa Kitô thì luôn chọn bình an; ai gây chiến tranh và bạo lực là phản bội Chúa 

Và Đức Thánh Cha kêu gọi: "Chúng ta hãy làm việc không mệt mỏi vì nền hòa bình mà Thần Khí của Chúa Giêsu và Chúa Cha thúc giục chúng ta xây dựng: một nền hòa bình hội nhập sự đa dạng và thúc đẩy sự hiệp nhất trong sự đa dạng. Đây là bình an của Chúa Thánh Thần, Đấng dung hòa những khác biệt, trong khi thần khí thù địch với Thiên Chúa và con người lợi dụng những khác biệt để chia rẽ.” Đức Thánh Cha lưu ý rằng “những ai gọi mình là Kitô hữu đều phải biết chọn đứng về phía nào. Ai theo Chúa Kitô thì luôn chọn bình an; ai gây chiến tranh và bạo lực là phản bội Chúa và chối bỏ Tin Mừng của Người. Điều Chúa Giêsu dạy chúng ta thì rất rõ ràng: yêu thương mọi người, vì mọi người đều được Cha chung trên trời yêu thương như con cái. Tình yêu của người Kitô hữu không chỉ dành cho người thân cận của mình, mà còn dành cho mỗi người, bởi vì mỗi người trong Chúa Giêsu đều là người thân cận, anh chị em của chúng ta - thậm chí cả kẻ thù của chúng ta (x. Mt 5,38-48). Điều này càng đúng hơn biết bao đối với những người là thành viên của cùng một dân tộc, mặc dù thuộc các nhóm sắc tộc khác nhau.”

Hãy cùng nhau làm việc vì sự hiệp nhất huynh đệ

Đức Thánh Cha mời gọi hãy cùng nhau làm việc vì sự hiệp nhất huynh đệ này giữa các Kitô hữu chúng ta và hãy giúp nhau truyền bá thông điệp hòa bình trong xã hội, truyền bá phong cách bất bạo động của Chúa Giêsu, để nơi các tín hữu không còn chỗ cho một nền văn hóa dựa trên tinh thần báo thù.


Đức Thánh Cha chủ sự buổi Cầu nguyện đại kết tại Lăng “John Garang”

3. Bước đi: làm việc cùng nhau 

Sau các động từ cầu nguyện và làm việc, Đức Thánh Cha chia sẻ về động từ thứ ba: bước đi. Ngài cảm ơn các cộng đồng Kitô giáo đã dấn thân mạnh mẽ để thúc đẩy các tiến trình hòa giải, cảm ơn chứng tá đức tin của họ, một chứng tá xuất phát từ nhận thức, được diễn tả không chỉ bằng lời nói nhưng còn bằng hành động, rằng “trước những chia rẽ lịch sử, có một thực tại bất di bất dịch: chúng ta là Kitô hữu, chúng ta thuộc về Chúa Kitô.” Ngài nhận xét rằng có một điều tốt đẹp là “giữa quá nhiều xung đột, những người tuyên xưng đức tin Kitô giáo chưa bao giờ làm dân tộc bị chia rẽ, nhưng đã và vẫn tiếp tục là một yếu tố của sự hiệp nhất.”

Việc gieo rắc Tin Mừng phải góp phần gieo rắc sự hiệp nhất

Đức Thánh Cha cũng khen ngợi rằng “Truyền thống đại kết của Nam Sudan là một kho tàng quý giá, một hành động ngợi khen danh Chúa Giêsu, một hành động yêu thương dành cho Giáo hội, hiền thê của Người, một mẫu gương cho tất cả để tiến tới trên con đường hiệp nhất Kitô giáo.” Do đó, di sản này phải được gìn giữ trong cùng tinh thần đó: “Những chia rẽ trong Giáo hội trong các thế kỷ qua không được ảnh hưởng đến những người được loan báo Tin Mừng, nhưng việc gieo Tin Mừng phải góp phần gieo sự hiệp nhất nhiều hơn. Chủ nghĩa bộ lạc và chủ nghĩa bè phái nuôi dưỡng bạo lực trong nước không được ảnh hưởng đến các mối quan hệ giữa các tôn giáo; ngược lại, ước gì chứng tá về sự hiệp nhất của các tín hữu phải được tuôn đổ trên toàn dân.”


Đức Thánh Cha chủ sự buổi Cầu nguyện đại kết tại Lăng “John Garang”

Ký ức và dấn thân

Để giúp các Kitô hữu kiên trì tiếp tục cuộc hành trình của mình, Đức Thánh Cha đưa ra hai yếu tố quan trọng: ký ức và dấn thân. Trước hết, về ký ức, Đức Thánh Cha mời gọi các Kitô hữu đừng sợ mình không sống theo gương mẫu của các vị tiền nhân, ngược lại hãy cảm thấy bị thúc đẩy bởi những người đã mở đường cho họ.

Đừng bao giờ hành động như những đối thủ cạnh tranh

Chia sẻ về sự dấn thân, Đức Thánh Cha nói: “Chúng ta tiến tới sự hiệp nhất khi tình yêu được thể hiện cách cụ thể, khi chúng ta cùng nhau giúp đỡ những người bị gạt ra bên lề, những người bị thương tích và bị từ chối.” Ngài nhận xét rằng các Kitô hữu đã thực hiện điều này trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong việc chăm sóc sức khỏe, giáo dục, bác ái. Ngài mời gọi họ hãy tiếp tục dấn thân nhưng “đừng bao giờ hành động như những đối thủ cạnh tranh, mà như là các thành viên trong gia đình, những anh chị em, những người, bằng lòng cảm thương đối với những người đau khổ, những người được Chúa Giêsu yêu quý, đã tôn vinh Thiên Chúa và làm chứng cho tình thân hữu mà Người mong muốn.”


Đức Thánh Cha chủ sự buổi Cầu nguyện đại kết tại Lăng “John Garang”

Tiếp tục buổi cầu nguyện, Đức cha Stephen Ameyu Martin Mulla, Tổng Giám mục giáo phận Juba, mời gọi tất cả cùng đọc kinh Lạy Cha bằng các ngôn ngữ khác nhau mà người dân Nam Sudan sử dụng.

Sau cùng, Đức Thánh Cha và hai vị lãnh đạo của Giáo hội Anh giáo và Giáo hội Scotland cùng ban phép lành cho tất cả tín hữu hiện diện.

Kết thúc giờ cầu nguyện Đức Thánh Cha trở về Toà Sứ thần cách đó 2 km để dùng bữa tối và nghỉ đêm, kết thúc ngày thứ hai viếng thăm Nam Sudan.

Chúa Nhật ngày 5/2/2023 Đức Thánh Cha sẽ chủ sự Thánh lễ tại Lăng John Garang trước khi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu và lên đường trở về Roma. Vatican News Tiếng Việt sẽ truyền hình trực tiếp Thánh Lễ với thuyết minh tiếng Việt, lúc 1h45 chiều Chúa Nhật, 5/2/2023.


Đức Thánh Cha chủ sự buổi Cầu nguyện đại kết tại Lăng “John Garang”

Nguồn: vaticannews.va/vi

-----------

NGÀY 04.02.2023
Lúc 22:30 (Giờ Việt Nam)

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ GẶP NHỮNG NGƯỜI DI TẢN NỘI ĐỊA

Văn Yên, SJ - Vatican News

Vatican News (04.02.2023)Sau khi nghỉ trưa, lúc 4 giờ 30 giờ chiều, Đức Thánh Cha đã đến Hội trường Tự do, bên cạnh Lăng “John Garang” để gặp những người di tản nội địa của Nam Sudan. Ước tính trong năm 2022, khoảng 33.000 người sống trong các trại di tản nội địa, tăng hơn 2.000 người so với năm 2021.


Buổi gặp gỡ bắt đầu bằng lời cầu nguyện và các chứng từ của các em nhỏ sống trong các trại di tản nội địa. Sau đó, ĐTC đã đáp lời bằng những lời khích lệ và khuyến khích họ hoà giải. Ngài nói: “Tôi đã nghĩ đến anh chị em từ lâu, mang trong tim niềm khao khát được gặp anh chị em, được nhìn vào mắt anh chị em, được bắt tay và ôm lấy anh chị em: cuối cùng thì tôi cũng ở đây, cùng với những người anh em mà tôi cùng chia sẻ cuộc hành hương hòa bình này, để nói lên tất cả sự gần gũi và lòng quý mến của tôi dành cho anh chị em. Tôi hiện diện cùng anh chị em, đau khổ cho anh chị em và với anh chị em.”

Kêu gọi chấm dứt bạo lực

Đức Thánh Cha mạnh mẽ nói rằng: “với tất cả nỗ lực của mình, tôi lập lại lời kêu gọi chân thành nhất nhằm chấm dứt mọi xung đột, nghiêm túc thực hiện lại tiến trình hòa bình để bạo lực chấm dứt và mọi người có thể trở lại một cuộc sống xứng đáng. Chỉ có hòa bình, sự ổn định và công bằng mới có phát triển và tái hội nhất xã hội.” Ngài nói với các trẻ em: “Tương lai không thể ở trong các trại tị nạn. Tất cả những đứa trẻ cần có cơ hội đến trường và cả không gian để chơi bóng đá! Xã hội này cần được phát triển như một xã hội cởi mở, hòa nhập, hình thành một dân tộc duy nhất vượt qua những thách thức của hội nhập, các con cần được học các ngôn ngữ đang sử dụng trên khắp đất nước chứ không chỉ trong một nhóm dân tộc của riêng mình.”

Tình trạng khủng khoảng tị nạn

Đức Thánh Cha cảm ơn Phó Đại diện Đặc biệt của Liên Hiệp Quốc tại Nam Sudan, bà Sara Beysolow Nyanti, đã nói về cuộc khủng hoảng người tị nạn lớn nhất trên Lục địa vẫn tồn tại, với ít nhất bốn triệu trẻ em của vùng đất này phải di tản, với tình trạng bấp bênh lương thực và suy dinh dưỡng ảnh hưởng đến hai phần ba dân số và với những dự đoán về một thảm kịch nhân loại có thể tồi tệ hơn trong năm nay. Ngài cũng cảm ơn bà và nhiều người khác đã dấn thân không mệt mỏi cho người dân Nam Sudan.

Phụ nữ là chìa khoá để thay đổi

Đặc biệt, Đức Thánh Cha xác tín: các bà mẹ, phụ nữ là chìa khóa để thay đổi đất nước: nếu họ nhận được cơ hội thích hợp, bằng sự cần cù và năng khiếu bảo vệ sự sống của họ, họ sẽ có khả năng thay đổi bộ mặt của Nam Sudan, để mang lại cho miền đất này một sự phát triển thanh bình và gắn kết! Nhưng, tôi xin anh chị em, tôi xin tất cả cư dân của những vùng đất này: phụ nữ cần được bảo vệ, tôn trọng, đánh giá cao và tôn vinh. Xin vui lòng bảo vệ, tôn trọng, coi trọng và tôn vinh mọi phụ nữ, trẻ em, thiếu nữ, thanh niên, người lớn, người mẹ, người bà. Không có họ, sẽ không có tương lai.

Viết lại trang sử mới

Đức Thánh Cha khuyến khích những người dân Nam Sudan: “anh chị em là hạt giống của một Nam Sudan mới, hạt giống cho sự phát triển màu mỡ và xum xuê của đất nước. Chính anh chị em, thuộc tất cả các dân tộc khác nhau, đã đau khổ và đang đau khổ, nhưng không muốn đáp lại sự ác bằng sự ác hơn. Chính anh chị em, những người hiện đang lựa chọn tình huynh đệ và sự tha thứ, đang vun đắp cho một ngày mai tốt đẹp hơn.”

Để được như vậy, như cây luôn có gốc rễ, những người “những vùng đất này người ta ‘không bao giờ được quên cội nguồn’, bởi vì ‘tổ tiên nhắc cho chúng ta biết chúng ta là ai và chúng ta phải đi trên đường lối nào... Không có tổ tiên, chúng ta lạc lối, sợ hãi và không có kim chỉ nam. Không có tương lai nếu không có quá khứ’ (C. Carlassare , La capanna di Padre Carlo. Comboniano tra i Nuer , 2020, 65). Ở Nam Sudan, những người trẻ lớn lên biết kế thừa những câu chuyện của người lớn tuổi và, nếu câu chuyện của những năm gần đây được đặc trưng bởi bạo lực, thì thực sự, có thể cần phải khai mở một câu chuyện mới, bắt đầu với anh chị em: một trình thuật mới về cuộc gặp gỡ... nơi mà những gì đã phải chịu đựng không bị lãng quên, nhưng được sống bởi ánh sáng của tình huynh đệ; một câu chuyện không tập trung vào bi kịch thời sự mà tập trung vào khát vọng hòa bình cháy bỏng.” Đức Thánh Cha khuyến khích: “Chính anh chị em, những người trẻ thuộc các nhóm dân tộc khác nhau, là những trang đầu tiên của câu chuyện này! Nếu xung đột, bạo lực và hận thù đã tước đi khỏi những trang đời đầu tiên của nước Cộng hòa này những ký ức tốt đẹp, thì chính anh chị em là người viết lại lịch sử hòa bình của nó!”

Cảm ơn những người đã dấn thân cho Nam Sudan

Đức Thánh Cha cũng gởi lời cảm ơn đến những người đã dấn thân giúp đỡ những người di tản. Ngài cảm ơn đặc biệt đến các nhà truyền giáo, các tổ chức nhân đạo và các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên Hiệp Quốc vì công việc vĩ đại mà họ đã và đang làm. Ngài kêu gọi: “Tôi hết lòng khẩn xin tất cả mọi người: chúng ta hãy giúp đỡ Nam Sudan, chúng ta đừng bỏ mặc người dân Nam Sudan, những người đã và đang phải chịu đựng rất nhiều đau khổ!”

Cuối cùng, Đức Thánh Cha và cùng Đức TGM Justin và Vị Điều hành Tổng Công nghị của Giáo hội Scotland Iain ban phúc lành cho người dân Nam Sudan, đặc biệt là cho các trẻ em. Ngài nói: “Với phép lành này, tôi cũng mang đến cho anh chị em phước lành của rất nhiều anh chị em Kitô hữu trên thế giới, những người muốn ôm lấy và khích lệ anh chị em.”

Nguồn: vaticannews.va/vi

------------

NGÀY 04.02.2023
Lúc 15:00 (Giờ Việt Nam)

ĐỨC THÁNH CHA GẶP GỠ CÁC GIÁM MỤC, LINH MỤC, TU SĨ NAM NỮ, CHỦNG SINH VÀ GIÁO LÝ VIÊN CỦA NAM SUDAN

Ngọc Yến - Vatican News

Vatican News (04.02.2023) Đức Thánh Cha mời gọi các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ và chủng sinh của Nam Sudan noi gương ông Môsê luôn ngoan nguỳ trước sáng kiến của Chúa, gần gũi với Chúa, và luôn là người chuyển cầu cho dân trước Chúa.


Sáng thứ Bảy ngày 04/02, ngày thứ hai trong chuyến tông du của Đức Thánh Cha đến Nam Sudan, vào lúc 08 giờ 45’ giờ địa phương, từ Toà Sứ thần, Đức Thánh Cha đến Nhà thờ Chính toà thánh Têrêsa, cách đó 2 km để gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo lý viên.


Đức Thánh Cha chào một em bé

Nhà thờ Chính toà thánh Têrêsa

Nhà thờ Chính toà thánh Têrêsa, hay Nhà thờ Juba, bắt đầu xây dựng vào năm 1952, nằm trên Đại lộ Thống nhất ở Bahr al Jabal, quận Kotor. Đây cũng là Toà của Tổng Giáo Phận Juba, được thành lập vào ngày 12/12/1974 bởi thánh Giáo hoàng Phaolô VI.


Nhà thờ Chính toà

Hội đồng Giám mục Sudan

Hội đồng Giám mục Sudan gồm các Giám mục của Sudan và Nam Sudan. Giáo hội ở Sudan có một tổng giáo phận và một giáo phận trực thuộc. Giáo hội Nam Sudan có một tổng giáo phận và sáu giáo phận trực thuộc. Sau khi Nam Sudan độc lập vào năm 2011, để thuận tiện cho hoạt động mục vụ, mỗi quốc gia có một trụ sở giám mục riêng, một ở Juba của Nam Sudan và một ở Khartoum của Sudan. Chủ tịch Hội đồng Giám mục Sudan là Đức cha Yunan Tombe Trille Kuku Andali, Giám mục của El Obeid tại Sudan. Hội đồng Giám mục Sudan là thành viên của Hội đồng Giám mục Đông phi và Liên Hội đồng Giám mục châu Phi và Madagascar.


Các Giám mục

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

Đức Thánh Cha đến Nhà thờ Chính toà vào lúc 9 giờ. Tại đây ngài được Đức Tổng Giám Mục và cha sở trao Thánh giá để hôn và nước thánh để rảy. Sau đó tất cả tiến vào Nhà thờ.

Sau bài thánh ca, buổi gặp gỡ được bắt đầu bằng lời chào mừng của Chủ tịch Hội Đồng Giám mục, tiếp đến là chứng tá của một linh mục và một nữ tu.


Đức Thánh Cha chào các tín hữu

Nước sông Nile, dấu hiệu giải thoát và cứu độ

Trong bài diễn văn liền sau đó,  trước hết Đức Thánh Cha lấy hình ảnh nước sông Nile của đất nước để nói về hành động của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá. Nước là lòng trắc ẩn của Thiên Chúa làm dịu cơn khát khi chúng ta đang lang thang trong sa mạc, là lòng thương xót thanh tẩy chúng ta khi chúng ta rơi vào vũng lầy tội lỗi, trong bí tích Thánh tẩy, Người đã thánh hoá chúng ta “bằng nước tái sinh và đổi mới trong Thánh Thần” (Tt 3, 5).

Chính từ quan điểm Kinh Thánh mà Đức Thánh Cha muốn nhìn dòng nước của sông Nile theo cái nhìn mới. Một mặt, trong lòng sông này, đổ vào trong đó dòng nước mắt của một dân tộc bị đắm chìm trong đau khổ, tử đạo và bạo lực; một dân tộc cầu khẩn như tác giả thánh vịnh: “Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Xion” (Tv 137, 1).

Đức Thánh Cha cho rằng, nước của dòng sông vĩ đại này chứa đựng tiếng rên rỉ đau khổ của các cộng đoàn anh chị em, tiếng kêu đau đớn của nhiều cuộc đời bị tan vỡ, thảm kịch của một dân tộc phải chạy trốn, nỗi đau của những phụ nữ và sợ hãi ghi sâu trong mắt trẻ em. Tuy nhiên, đồng thời nước của dòng sông vĩ đại đưa chúng ta trở lại câu chuyện của Môsê, dấu hiệu giải thoát và cứu độ. Thực tế, từ dòng nước đó Môsê đã được cứu, dẫn dân đi vào giữa Biển Đỏ. Dòng nước đã trở thành phương tiện cứu độ, biểu tượng trợ giúp của Thiên Chúa, Đấng thấy sự đau khổ của con cái, lắng nghe tiếng kêu khóc và đến cứu họ (Xh 3,7).

Từ câu chuyện của Môsê, Đức Thánh Cha dẫn vào thực tế với câu hỏi: “Làm thế nào chúng ta có thể thi hành thừa tác vụ trong vùng đất này, dọc theo bờ sông đã đẫm máu người vô tội, giữa những khuôn mặt đẫm lệ của những người được giao phó cho chúng ta? Để cố gắng trả lời, tôi dừng lại ở hai thái độ của Môsê: ngoan nguỳ và chuyển cầu”.


Đức Thánh Cha gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo lý viên của Nam Sudan

Sự ngoan nguỳ của Môsê trước sáng kiến của Chúa

Đức Thánh Cha quảng diễn tiếp: Lúc đầu, ông Môsê tự mình chống bất công và áp bức. Được công chúa của Pharaoh cứu từ sông Nile, ông phát hiện ra danh tính của mình. Xúc động trước đau khổ và sỉ nhục của anh em mình, một ngày Môsê quyết định thi hành công lý một mình qua việc đánh chết một người Ai Cập vì đã ngược đãi một người Do Thái. Tuy nhiên, sau sự kiện này, ông đã phải chạy trốn và ở lại sa mạc trong nhiều năm. Ở đó, ông đã trải qua một sa mạc nội tâm. Ông đã nghĩ đến việc đối phó với bất công một mình và bây giờ, kết quả là ông trở thành kẻ phải chạy trốn, sống trong cô đơn, nếm trải cảm giác thất bại cay đắng. Sai lầm của Môsê là gì? Đó là nghĩ mình là trung tâm, chỉ dựa vào sức mạnh mình. Nhưng như thế, ông vẫn là một tù nhân của những phương pháp tồi tệ nhất của con người, như đáp trả bạo lực bằng bạo lực.

Liên hệ đến thực tế, Đức Thánh Cha nhận định rằng, trong cuộc sống của chúng ta, đôi khi cũng có thể xảy ra như thế. Trong sâu thẳm chúng ta nghĩ mình là trung tâm, chúng ta có thể tự làm được mọi chuyện, nếu không phải trong lý thuyết thì ít ra trong thực tế. Chúng ta cho rằng với tài khéo của mình, chúng ta có thể tìm câu trả lời cho những đau khổ và những nhu cầu của dân chúng qua các phương tiện của con người, như tiền bạc, trí thông minh, quyền lực. Trái lại, hoạt động của chúng ta đến từ Chúa, Người là Thiên Chúa chúng ta và chúng ta được kêu gọi để trở thành những khí cụ ngoan nguỳ trong tay Người. Môsê đã học được điều này, khi một ngày Chúa chủ động đến gặp ông, hiện ra “trong đám lửa từ giữa bụi cây” (Xh 3, 2).

Khi chúng ta ngoan nguỳ để Chúa uốn nắn, chúng ta sẽ sống thừa tác vụ theo một cách mới. Trước Vị Mục Tử Nhân Lành, chúng ta hiểu rằng chúng ta không phải là những người đứng đầu bộ lạc, nhưng là những mục tử đầy lòng trắc ẩn và thương xót; không phải là những ông chủ của dân, nhưng là những người phục vụ, những người được kêu gọi rửa chân cho anh chị em; không phải là một tổ chức thế gian, quản lý của cải dưới đất, nhưng là cộng đoàn con cái Chúa. Rồi chúng ta làm như Môsê đã làm trước Chúa: cởi dép ở chân ra với sự tôn kính và khiêm nhường (Xh 3, 5), cởi bỏ sự tự phụ, để Chúa thu hút và nuôi dưỡng cuộc gặp gỡ với Người trong cầu nguyện; mỗi ngày đến gần với mầu nhiệm Thiên Chúa, để Người đốt cháy bụi gai kiêu ngạo và những tham vọng của chúng ta, và làm cho chúng ta trở thành những người đồng hành khiêm tốn trong hành trình của những người được trao phó cho chúng ta.


Các tín hữu chào đón Đức Thánh Cha

Chuyển cầu cho dân

Được lửa Thiên Chúa thanh tẩy và soi sáng, Môsê đã trở thành phương tiện cứu độ cho những anh chị em của ông đang đau khổ. Thái độ ngoan nguỳ của ông trước Chúa làm cho ông có khả năng chuyển cầu cho họ. Khía cạnh thứ hai của tính cách Môsê mà tôi muốn nói với anh chị em đó là chuyển cầu. Ông kinh nghiệm về một Thiên Chúa đầy lòng trắc ẩn, Đấng không dửng dưng trước tiếng kêu của dân nhưng xuống giải cứu họ.

Vào những thời điểm quan trọng và khó khăn nhất, ông Môsê lên núi để cầu thay cho dân, nghĩa là đứng vào vị trí của dân để đưa họ đến gần Chúa, rồi đi xuống. Cầu thay không có nghĩa đơn giản là “cầu nguyện cho ai đó”. Theo nguyên ngữ, có nghĩa là “bước vào giữa”, sẵn sàng bước vào giữa một hoàn cảnh. Như vậy, chuyển cầu là đi xuống và đặt mình ở giữa dân mình, đóng vai trò như cầu nối họ với Thiên Chúa.

Các mục tử được yêu cầu trau dồi nghệ thuật “bước vào giữa” này. Đó là bước vào giữa những đau khổ và nước mắt của dân, vào giữa sự đói khát Thiên Chúa và khát khao tình thương của anh chị em. Nhiệm vụ đầu tiên của chúng ta không phải là trở thành một Giáo hội được tổ chức hoàn hảo, nhưng là một Giáo hội, nhân danh Chúa Kitô, đứng vững giữa cuộc sống đầy khó khăn của dân chúng, một Giáo hội vì con người sẵn sàng để cho tôi xắn tay áo và chịu bẩn tay.

Đức Thánh Cha nhắn nhủ, khi thi hành thừa tác vụ, các linh mục và tu sĩ không chạy theo uy tín tôn giáo và xã hội, nhưng bước đi giữa và bên cạnh dân, học cách lắng nghe và đối thoại, hợp tác giữa chúng ta với nhau, những thừa tác viên và với giáo dân. Tôi muốn nhắc lại điều quan trọng này: cùng nhau. Các giám mục và linh mục, linh mục và phó tế, mục tử và chủng sinh, các thừa tác viên chức thánh và tu sĩ – luôn nuôi dưỡng sự tôn trọng đối với nét đặc thù kỳ diệu của đời sống tu trì. Giữa chúng ta, hãy cố gắng vượt thắng cám dỗ lo cho cá nhân, lợi ích nhóm. Là điều đáng buồn khi các mục tử không có khả năng hiệp thông, khi không hợp tác và thậm chí dửng dưng với nhau! Chúng ta hãy vun đắp sự tôn trọng lẫn nhau, gần gũi và hợp tác cụ thể. Nếu chính chúng ta không làm được điều này, làm sao chúng ta có thể rao giảng cho người khác?


Đức Thánh Cha chào một tín hữu

Ông Môsê cầu nguyện cho dân với cây gậy trong tay: Lời ngôn sứ

Đức Thánh Cha chỉ ra nghệ thuật cầu thay của Môsê: Với đôi tay, ông cầu nguyện. Kinh Thánh cho thấy ba hình ảnh: Môsê tay cầm gậy, Môsê dang tay, Môsê giơ tay lên trời.

Hình ảnh đầu tiên, Môsê với cây gậy trong tay, cho chúng ta biết rằng ông can thiệp bằng lời ngôn sứ. Với cây gậy, ông làm nên những điều kỳ diệu, những dấu hiệu về sự hiện diện và quyền năng Chúa; nhân danh Chúa ông lên tiếng, mạnh mẽ tố cáo sự áp bức mà dân đang phải chịu đựng, và yêu cầu Pharaô phải để họ ra đi.

Linh mục và tu sĩ cũng được mời gọi chuyển cầu cho dân, lên tiếng chống lại bất công và lạm quyền áp bức và sử dụng bạo lực để đạt được mục đích riêng giữa đám mây xung đột. Nếu chúng ta muốn là những mục tử chuyển cầu, chúng ta không thể giữ thái độ trung lập trước những nỗi đau do những hành vi bất công và bạo lực gây ra. Bởi vì ở đâu có một người nam hay người nữ bị xúc phạm các quyền cơ bản là xúc phạm đến Chúa Kitô.


Đức Thánh Cha chào thăm các tín hữu

Ông Môsê cầu nguyện cho dân với đôi tay dang rộng

Hình ảnh thứ hai là Môsê với đôi tay dang rộng. Kinh Thánh cho chúng ta biết ông “đã giơ tay trên mặt biển” (Xh 14,21). Đôi bàn tay mở rộng của ông là dấu hiệu cho thấy Chúa sắp thể hiện uy lực. Sau đó, ông Môsê cầm bia Chứng Ước trong tay (Xh 34,29) và cho dân chúng thấy; bàn tay giơ cao của ông chứng tỏ sự gần gũi của Thiên ChúaĐấng luôn hoạt động đồng hành với dân Người. Tự nó, lời ngôn sứ không đủ để giải thoát khỏi sự dữ: cần phải giang rộng vòng tay với anh chị em, để nâng đỡ họ trên hành trình. Chúng ta có thể hình dung Môsê chỉ đường và nắm tay mọi người để khuyến khích họ kiên trì bước đi. Trong bốn mươi năm, ở tuổi già, ông vẫn ở bên cạnh họ: đó là ý nghĩa của sự gần gũi. Đó không phải là một nhiệm vụ dễ dàng: ông thường phải nâng đỡ tinh thần của những người đang chán nản và mệt mỏi, đói và khát, hay lầm bầm và thờ ơ. Và khi thực hiện nhiệm vụ này, Môsê cũng phải đấu tranh với chính mình, vì nhiều lúc, ông cũng trải qua những giây phút tăm tối và u sầu, như khi ông thưa với Chúa: “Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài ? Tại sao con lại không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con? [...] Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con” (Ds 11,11.14). Tuy nhiên, Môsê đã không lùi bước: luôn ở gần Thiên Chúa và không quay lưng lại với dân.

Đức Thánh Cha nói: “Đây cũng là nhiệm vụ của chúng ta: dang tay ra, thức tỉnh anh chị em chúng ta, nhắc nhở họ rằng Thiên Chúa trung thành với các lời hứa của Người, thúc giục họ tiến bước. Bàn tay chúng ta được “xức dầu bằng Thần Khí” không chỉ để thực hiện các nghi thức thánh, nhưng còn để khuyến khích, giúp đỡ và đồng hành với mọi người để giúp họ thoát ra khỏi những gì làm họ tê liệt, khép kín, làm họ sợ hãi.”.


Đức Thánh Cha chào thăm các tín hữu

Ông Môsê cầu nguyện cho dân hai tay giơ lên trời

Hình ảnh thứ ba: Môsê với hai tay giơ lên trời. Khi dân phạm tội, làm một con bò con bằng vàng, Môsê lại đi lên núi. Ông cầu nguyện, đó thực sự là một cuộc đấu tranh với Chúa, cầu xin Người không bỏ rơi Israel. Ông đi xa đến mức nói: “Dân này đã phạm một tội lớn! Họ đã làm cho mình một tượng thần bằng vàng! Nhưng giờ đây, ước gì Ngài miễn chấp tội họ! Bằng không, thì xin Ngài xoá tên con khỏi cuốn sách Ngài đã viết” (Xh 32, 31-32). Môsê đứng với dân chúng cho đến phút cuối, giơ tay thay mặt họ. Ông không nghĩ đến việc tự cứu mình; ông không bán dân vì lợi ích của mình! Ông can thiệp, đấu tranh với Chúa; ông vẫn giơ tay cầu nguyện trong khi các anh em của ông chiến đấu trong thung lũng bên dưới (Xh 17, 8-16). Mang những cuộc đấu tranh của người dân đến trước mặt Chúa trong lời cầu nguyện, nhận sự tha thứ cho họ, thực hiện sự hòa giải như những kênh của lòng thương xót Chúa: đây là nhiệm vụ của chúng ta với tư cách là những người chuyển cầu.

Kết thúc bài diễn văn, Đức Thánh Cha cám ơn các giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh và giáo lý viên vì những gì “anh chị em làm giữa rất nhiều thử thách và đau khổ. Thay mặt cho toàn thể Giáo hội, cám ơn anh chị em về sự cống hiến, cam đảm, sự hy sinh và sự kiên nhẫn. Anh chị em thân mến, tôi ước mong anh chị em luôn là những mục tử và chứng nhân quảng đại, được trang bị chỉ bằng lời cầu nguyện và bác ái; anh chị em hãy để cho mình không ngừng ngạc nhiên trước ân sủng Chúa; và trở thành một phương tiện cứu rỗi cho những người khác, những ngôn sứ của sự gần gũi đồng hành với mọi người, những người chuyển cầu với những cánh tay giơ cao.”

Buổi gặp gỡ kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành của Đức Thánh Cha.

Nguồn: vaticannews.va/vi


------------

NGÀY 03.02.2023
Lúc 23:00 (Giờ Việt Nam)

ĐỨC THÁNH CHA GẶP GỠ CÁC LÃNH ĐẠO CHÍNH QUYỀN VÀ DÂN SỰ CỦA NAM SUDAN

Hồng Thủy - Vatican News

Vatican News (03.02.2023)Đức Thánh Cha kêu gọi các nhà lãnh đạo của Nam Sudan dừng đổ máu, đừng biến nước này thành nghĩa trang nhưng hãy giúp nó trở lại là ngôi vườn xinh đẹp.


Sau khi viếng thăm xã giao Tổng thống và các Phó Tổng thống của Cộng hoà Nam Sudan, Đức Thánh Cha đã đến hoa viên của Dinh Tổng thống để gặp gỡ các cấp chính quyền, xã hội dân sự của Nam Sudan và ngoại giao đoàn tại nước này.


Khoảng 250 người gồm các lãnh đạo chính trị và tôn giáo, các nhân vật ngoại giao và các đại diện xã hội dân sự đã hiện diện để chào đón Đức Thánh Cha.

Cùng Đức Thánh Cha đến thăm Nam Sudan có Tổng Giám mục Anh giáo Justin Welby của Canterbury và vị Điều hành Đại Hội đồng Giáo hội Scotland.

Sau bài nói chuyện của Tổng thống Nam Sudan, trong bài diễn văn của mình, Đức Thánh Cha kêu gọi các vị lãnh đạo của Nam Sudan hãy là những nguồn nước mát tưới cho đất nước khô cằn vì bạo lực và xung đột. Ngài kêu gọi đừng đổ máu, dừng bạo lực, thôi phá huỷ và nhất là chống nạn tham nhũng.


ĐTC gặp gỡ các cấp chính quyền, xã hội dân sự của Nam Sudan và ngoại giao đoàn

Cuộc hành hương vì hòa giải và hoà bình

Đức Thánh Cha khẳng định ngay từ đầu rằng ngài đến Nam Sudan "như một người hành hương hòa giải, với ước mơ được đồng hành với quý vị trên con đường dẫn đến hòa bình, một con đường cong queo nhưng không thể trì hoãn được nữa. Và ngài nói rằng ngài bắt đầu cuộc hành hương đại kết vì hòa bình này sau khi nghe thấy "tiếng kêu của cả một dân tộc đang than khóc vì bạo lực mà họ phải gánh chịu, vì tình trạng thiếu an ninh kéo dài, vì sự nghèo đói tấn công họ và những thảm họa thiên nhiên hoành hành."

Từ hình ảnh sông Nile, con sông dài nhất thế giới, cũng chảy qua Nam Sudan, với những nguồn mạch của nó, Đức Thánh Cha suy tư về những nguồn suối tươi mới và đầy sức sống để tưới mát lại cho đất nước Nam Sudan bị khô cằn vì xung đột và chiến tranh.


ĐTC gặp gỡ các cấp chính quyền, xã hội dân sự của Nam Sudan và ngoại giao đoàn

Lời kêu gọi các nhà lãnh đạo

Trước hết, theo Đức Thánh Cha, các nhà lãnh đạo chính là những nguồn suối này, "những nguồn suối tưới mát sự chung sống, những người cha, người mẹ của đất nước non trẻ này."  Ngài nói: "Quý vị được kêu gọi tái tạo đời sống xã hội, như những nguồn thịnh vượng và hòa bình trong lành, bởi vì người dân Nam Sudan cần điều này: cần những người cha chứ không cần những ông chủ; cần những bước phát triển ổn định chứ không cần sự sa sút không ngừng."

Đừng đổ máu nữa!

Để Nam Sudan không bị biến thành một nghĩa trang, mà trở lại là một khu vườn tươi tốt, Đức Thánh Cha cầu xin các vị lãnh đạo chấp nhận một lời đơn giản, của Chúa Kitô. Đó là "đừng đổ máu nữa, đừng xung đột nữa, bạo lực và buộc tội lẫn nhau chống lại những người phạm tội đã đủ rồi, đừng để người dân phải đói khát hòa bình nữa. Phá hủy đã đủ rồi, đã đến lúc xây dựng! Hãy bỏ lại đàng sau thời gian chiến tranh và để thời gian hòa bình bừng lên!"


ĐTC gặp gỡ các cấp chính quyền, xã hội dân sự của Nam Sudan và ngoại giao đoàn

Quyền hành là để phục vụ cộng đồng

Tiếp đến, nói về tên gọi Cộng hoà của Nam Sudan, nghĩa là thừa nhận quốc gia là một thực tại chung, của mọi người và mọi người đều có trách nhiệm chủ trì và điều hành, vì công ích. Và Đức Thánh Cha khẳng định: "Mục đích của quyền hành là để phục vụ cộng đồng." Ngài cảnh giác về cám dỗ dùng quyền lực để mưu ích riêng và nói rằng cần thực sự mang tính cộng hoà, "bắt đầu từ những thiện ích chính yếu: nguồn tài nguyên dồi dào mà Chúa đã ban cho miền đất này không để dành riêng cho một số ít người, mà là gia sản của tất cả mọi người, và các kế hoạch phục hồi kinh tế phải tương ứng với các dự án để phân phối của cải một cách công bằng."

Cổ võ dân chủ

Sự phát triển của một nền dân chủ lành mạnh là nền tảng cho sự tồn tại của một nền Cộng hòa. Đức Thánh Cha giải thích rằng dân chủ bảo về sự phân biệt đúng đắn về các quyền lực; nó cũng bao gồm việc tôn trọng nhân quyền, đặc biệt là quyền tự do bày tỏ ý kiến ​​của mình.

Cùng nhau

Đức Thánh Cha nói rằng đã đến lúc biến lời nói thành hành động, đến lúc dấn thân thực hiện một sự biến đổi khẩn cấp và cần thiết. Ngài nói: "Chúng ta hãy hiểu nhau và thực hiện Thỏa thuận hòa bình, cũng như Lộ trình! Trong một thế giới đầy chia rẽ và xung đột, đất nước này tổ chức một cuộc hành hương đại kết vì hòa bình, một điều hiếm có; nó là một sự thay đổi đường hướng, một cơ hội để Nam Sudan bắt đầu chèo thuyền trở lại trong vùng nước lặng, nối lại đối thoại, không có sự giả hình và chủ nghĩa cơ hội. Ước gì đây là cơ hội để mọi người làm sống lại niềm hy vọng: ước gì mỗi người dân hiểu rằng không còn thời gian để mình bị cuốn theo dòng nước không lành mạnh của hận thù, của chủ nghĩa bộ tộc, chủ nghĩa vùng miền và khác biệt sắc tộc; đã đến lúc cùng nhau chèo thuyền hướng tới tương lai!"


ĐTC gặp gỡ các cấp chính quyền, xã hội dân sự của Nam Sudan và ngoại giao đoàn

Gặp gỡ

Sông Nile Trắng, với dòng nước thật trong, được tạo thành bởi sự hợp lưu của sông Nile với một dòng sông khác ở Hồ No. Nói cách khác, nó phát sinh từ một cuộc gặp gỡ. Từ đó, Đức Thánh Cha nhận định rằng "nếu đằng sau mọi bạo lực là sự tức giận và oán giận, và đằng sau mọi tức giận và oán giận là ký ức chưa lành về những vết thương, sự sỉ nhục và sai trái, thì cách duy nhất để thoát khỏi điều này là gặp gỡ: đón nhận người khác như anh em và dành chỗ cho họ, ngay cả khi nó có nghĩa là lùi lại phía sau. Thái độ này, cần thiết cho các tiến trình hòa bình, cũng không thể thiếu cho sự phát triển gắn kết của xã hội."

Vai trò của người trẻ và phụ nữ

Đức Thánh Cha kêu gọi dành không gian cho người trẻ để họ hành động cho tương lai. Ngài cũng kêu gọi cho phụ nữ được tham gia nhiều hơn vào các tiến trình chính trị và ra quyết định. "Các phụ nữ cần được tôn trọng, vì ai bạo hành phụ nữ là xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng đã nhận lấy thân thể từ một người phụ nữ."

Tiếp tục bài diễn văn, Đức Thánh Cha kêu gọi quốc gia trẻ trung Nam Sudan khám phá lại mầu nhiệm của sự gặp gỡ, ân sủng của tập thể. "Chúa Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, đã dạy chúng ta rằng chúng ta càng trở nên bé nhỏ, dành chỗ cho người khác và đón nhận mọi người lân cận như anh chị em, thì chúng ta càng trở nên vĩ đại hơn trước mắt Chúa." "Chúng ta cần nhìn vượt trên các nhóm và sự khác biệt để bước đi như một dân tộc duy nhất, trong đó, như đã xảy ra với sông Nile, các nhánh khác nhau mang lại sự phong phú." Đặc biệt Đức Thánh Cha kêu gọi đảm bảo sự an ninh cần thiết cho các nhà hoạt động cứu trợ nhân đạo và để công việc của họ được hỗ trợ cần thiết.


ĐTC gặp gỡ các cấp chính quyền, xã hội dân sự của Nam Sudan và ngoại giao đoàn

Bảo vệ thiên nhiên

Nói về những thảm kịch thiên nhiên, Đức Thánh Cha nói về thiên nhiên bị thương tích và tàn phá, và từ chỗ là nguồn sống có thể trở thành mối đe doạ chết chóc, như gây nên lũ lụt. Ngài mời gọi phải quan tâm đến thiên nhiên và nghĩ đến tương lai và các thế hệ mai sau. Đặc biệt ngài nói rằng cần chống lại nạn phá rừng do lòng tham lợi nhuận gây ra.

Chống tham nhũng

Một lần nữa, dùng hình ảnh làm sạch lòng sông để tránh lũ lụt, Đức Thánh Cha nói rằng đời sống xã hội Nam Sudan cũng cần được tẩy rửa bằng cuộc chiến chống tham nhũng. Ngài nói: "Sự phân phối các nguồn quỹ không công bằng, những kế hoạch bí mật để làm giàu, những thỏa thuận bảo trợ, sự thiếu minh bạch: tất cả những điều này làm ô nhiễm lòng sông của xã hội loài người, khiến cho những nơi cần nhất lại thiếu các nguồn lực. Trước hết, cần phải chống lại sự nghèo đói, là mảnh đất màu mỡ mà hận thù, chia rẽ và bạo lực bén rễ trong đó. Nhu cầu cấp bách của một quốc gia văn minh là quan tâm đến công dân của mình, đặc biệt là những người yếu đuối và thiệt thòi nhất."

Kiểm soát vũ khí

Một hình ảnh tượng trưng khác là những bờ kè ngăn lũ lụt do sông gây nên, Đức Thánh Cha nói rằng trong đời sống con người cũng cần những bờ kè. "Trước hết, cần phải kiểm soát dòng vũ khí mà bất chấp lệnh cấm, vẫn tiếp tục đến nhiều quốc gia trong khu vực và cả ở Nam Sudan: ở đây cần nhiều thứ, nhưng chắc chắn không phải là cần thêm những công cụ giết người khác." Còn có các bờ kè khác cần thiết như việc phát triển các chính sách y tế đầy đủ, nhu cầu về cơ sở hạ tầng quan trọng và đặc biệt là mục tiêu quan trọng của việc xóa mù chữ và giáo dục.


ĐTC gặp gỡ các cấp chính quyền, xã hội dân sự của Nam Sudan và ngoại giao đoàn

Hợp tác quốc tế

Như "sông Nile Trắng rời Nam Sudan, đi qua các quốc gia khác, hợp với sông Nile Xanh rồi đổ ra biển. Những dòng sông không có biên giới; chúng kết nối các lãnh thổ khác nhau," Đức Thánh Cha nói rằng để đạt được sự phát triển phù hợp, hơn bao giờ hết, điều cần thiết là phải thúc đẩy các mối quan hệ tích cực với các quốc gia khác, bắt đầu từ những quốc gia trong khu vực. Ngài cảm ơn sự đóng góp quý báu của cộng đồng quốc tế đối với đất nước này, và tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với những nỗ lực nhằm thúc đẩy hòa giải và phát triển. Nhưng kêu gọi một cách tiếp cận trực tiếp và đặc biệt là không áp đặc các mô hình có sẵn nhưng không phù hợp với thực tế địa phương.

Đức Thánh Cha cũng chân thành chia sẻ rằng một số điều ngài đã nói có vẻ thẳng thừng và trực tiếp. Ngài xin họ hiểu rằng nó xuất phát từ tình cảm và sự quan tâm mà ngài dành cho cuộc sống của Nam Sudan, nơi ngài cùng với những người anh em đến viếng thăm như một người hành hương của hòa bình.

Cầu nguyện cho Nam Sudan

Và kết thúc bài diễn văn, Đức Thánh Cha nói: "Chúng tôi muốn gửi đến quý vị những lời cầu nguyện chân thành và sự hỗ trợ của chúng tôi để Nam Sudan có thể trải nghiệm sự hòa giải và thay đổi đường hướng. Cầu mong con đường sống còn của nó không còn bị lũ lụt bạo lực lấn át, không còn bị sa lầy trong đầm lầy tham nhũng và bị ngăn chặn bởi sự tràn ngập của nghèo đói. Xin Chúa Trời, Đấng yêu thương mảnh đất này, ban cho nước này một mùa bình an và thịnh vượng mới. Xin Chúa phù hộ cho Cộng hòa Nam Sudan!"

Kết thúc cuộc gặp gỡ Đức Thánh Cha trở về Toà Sứ thần cách đó 2 km dùng bữa tối và nghỉ ngơi.

Nguồn: vaticannews.va/vi

-------------

BẢN TIN CHIỀU THỨ SÁU 3/2/2023