CẬP NHẬT TIN ĐỨC THÁNH CHA
TÔNG DU NAM SUDAN TỪ NGÀY 03-05/02/2023
(Cập nhật lúc 08h30 ngày 06.02.2023)
----------
BẢN TIN NGÀY CHÚA NHẬT 05.02.2023
----------
THÁNH LỄ DO ĐỨC THÁNH
CHA CHỦ SỰ TẠI LĂNG “JOHN GARANG”
Văn Yên, SJ - Vatican News
Vatican News (05.02.2023) – Sáng Chúa Nhật 5/2, Đức Thánh Cha đã dâng Thánh Lễ với khoảng 100 ngàn người Nam Sudan tại Lăng “John Garang” ở Juba của Nam Sudan. Đây là sự kiện cuối cùng của ĐTC trong chuyến tông du 5 ngày đến CHDC Congo và Nam Sudan. Thánh Lễ diễn ra trong bầu khi vui nhộn của văn hoá Nam Sudan với các bài hát và điệu vũ xuyên suốt cử hành phụng vụ.
Đức Thánh Cha mở đầu
bài giảng bằng cách lấy lại lời của thánh Phaolô gởi cộng đoàn Côrintô trong
bài đọc hai: “khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc
triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Vì hồi còn ở giữa
anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê-su Ki-tô,
mà là Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá.” (1Cr 2,1-2).
Ngài nói rằng: sự lo lắng của Phaolô cũng là của tôi, được ở đây với anh chị em
nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa của tình yêu, Thiên Chúa đã mang lại bình
an qua thập giá của Người; Chúa Giêsu, Thiên Chúa chịu đóng đinh vì tất cả
chúng ta.
Đức Thánh Cha khai
triển hai hình ảnh trong bài đọc Tin Mừng được đọc trong Thánh Lễ: “Anh em là
muối đất […]. Anh em là ánh sáng thế gian” (Mt 5:13.14).
Anh em là muối đất
Muối được dùng để tạo
hương vị cho thức ăn, mang lại hương vị cho mọi thứ. Thiếu muối, mọi sự trở nên
nhạt nhẽo, vô vị. Và Chúa Giêsu nói đến muối ngay sau khi công bố các Mối phúc
cho các môn đệ, và chúng ta hiểu đó là muối của đời sống Kitô hữu. “Các Mối
Phúc khẳng định rằng để có phúc, tức là được hạnh phúc trọn vẹn, chúng ta không
được cố tỏ ra mạnh mẽ, giàu sang hống hách, nhưng phải khiêm nhường, hiền lành
và thương xót; không làm hại ai, nhưng là người kiến tạo hòa bình cho mọi người.”
Với hình ảnh này, Đức Thánh Cha khuyến khích người dân Nam Sudan mang lại hương
vị cho mảnh đất họ đang ở.
Ngoài ra, muối còn để
bảo quản thực phẩm. Vậy nên, điều này cũng nhắc nhở chúng ta về nhu cầu chính yếu
là gìn giữ mối tương quan với Thiên Chúa. “Vào thời cổ đại, khi con người hoặc
các dân tộc thiết lập tình bạn hữu với nhau, họ thường ước định bằng cách trao
đổi một ít muối; chúng ta là muối được mời gọi làm chứng cho giao ước với Thiên
Chúa trong niềm hân hoan, với lòng biết ơn, chứng tỏ rằng chúng ta là những người
có khả năng tạo ra những mối dây bạn hữu, sống trong tình huynh đệ, xây dựng những
mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với nhau, ngăn chặn không để cho sự băng hoại
của sự dữ, căn bệnh chia rẽ, sự bẩn thỉu của công việc xấu xa, tai họa của sự bất
công hoành hành.”
Đức Thánh Cha vừa
khuyến khích và cũng vừa cảm ơn anh chị em tín hữu Nam Sudan là muối đất tại đất
nước này. Ngài nói: “Tuy nhiên, đối diện quá nhiều vết thương, bạo lực làm gia
tăng chất độc của hận thù; đối diện với sự gian ác gây ra đau khổ và nghèo đói,
anh chị em dường như quá nhỏ bé và bất lực. Tuy nhiên, khi anh chị em có cám dỗ
cảm thấy quá bất cân xứng, hãy thử nhìn vào muối và những hạt li ti của nó: nó
là một thành phần nhỏ và khi đã lên dĩa thức ăn, nó sẽ biến mất, tan chảy,
nhưng đây chính xác là cách nó mang lại hương vị cho toàn thể. Do đó, Kitô hữu
chúng ta, mặc dù mong manh và nhỏ bé, ngay cả khi sức mạnh của chúng ta dường
như không đáng kể so với tầm quan trọng của các vấn đề và sự điên cuồng của bạo
lực, (chúng ta) cũng có thể đóng góp một cách quyết định để thay đổi lịch sử.”
Anh em là ánh sáng thế gian
Về hình ảnh thứ hai:
ánh sáng - Anh em là ánh sáng thế gian. Chính Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian,
và Người nói với các môn đệ rằng họ cũng là ánh sáng thế gian. “Điều này có
nghĩa là, bằng cách chào đón ánh sáng của Chúa Kitô, ánh sáng là Chúa Kitô,
chúng ta trở nên sáng ngời, chúng ta chiếu tỏa ánh sáng của Thiên Chúa!”
Lời mời gọi trở thành
ánh sáng thế gian của Chúa Giêsu thật rõ ràng: chúng ta, những môn đệ của Người,
được mời gọi chiếu sáng như thành trì trên cao, như ngọn đèn không thể tắt. Nói
cách khác, trước khi lo lắng về bóng tối bao quanh chúng ta, trước khi hy vọng
rằng một cái gì đó xung quanh chúng ta sẽ sáng lên, thì chúng ta cần phải tỏa
sáng, chiếu sáng bằng cuộc sống và công việc của mình cho những thành phố, làng
mạc và nơi chúng ta sống, những người mà chúng ta gặp gỡ, những hoạt động chúng
ta thực hiện. Chúa ban cho chúng ta sức mạnh, sức mạnh để trong Người chúng ta
trở nên ánh sáng cho mọi người; để mọi người có thể nhìn thấy những công việc tốt
lành của chúng ta và khi nhìn thấy điều tốt đẹp đó - Chúa Giêsu nhắc chúng ta
-, họ sẽ mở lòng kinh ngạc trước Thiên Chúa và tôn vinh Người (x. c. 16): nếu
chúng ta sống như con cái và anh em trên mặt đất, mọi người sẽ khám phá ra rằng
họ có một Cha Trên trời. Do đó, chúng ta được mời gọi thắp lên tình yêu: không
để cho ánh sáng của chúng ta vụt tắt, dưỡng khí của lòng bác ái biến mất khỏi
cuộc sống của chúng ta. Vì vậy, miền đất xinh đẹp và bị tra tấn này cần ánh
sáng mà mỗi anh chị em có, hay đúng hơn, cần thứ ánh sáng là mỗi anh chị em!
Cuối cùng, ĐTC cầu
chúc: “tôi cầu chúc anh chị em trở thành muối rải khắp và tan chảy cách quảng đại
để tạo cho Nam Sudan hương vị huynh đệ của Tin Mừng; trở thành những cộng đoàn
Kitô sáng ngời, giống như những thành phố được xây trên núi, có thể soi sáng điều
tốt lành cho mọi người và cho thấy rằng sống tự do, có hy vọng, cùng nhau xây dựng
một tương lai hòa giải là điều khả thi và tốt đẹp.
Cuối Thánh Lễ, ĐTC cảm
ơn tất cả mọi người đã cộng tác trong việc chuẩn bị cho chuyến tông du của
ngài. Ngài khuyến khích những người dân Nam Sudan đừng đánh mất hy vọng, và đồng
thời, cầu chúc họ sớm có được hoà bình.
Kết thúc Thánh Lễ,
ĐTC ra sân bay Juba cách đó 7km để trở về Roma. Kết thúc chuyến tông du 5 ngày
đến CHDC Congo và Nam Sudan.
Nguồn: vaticannews.va/vi
----------
BẢN TIN NGẮN THỨ BẢY 04.02.2023
------------
NGÀY 05.02.2023
Lúc 00:00 (Giờ Việt Nam)
ĐỨC THÁNH CHA CHỦ SỰ BUỔI CẦU NGUYỆN ĐẠI KẾT TẠI
LĂNG "JOHN GARANG"
Hồng Thủy - Vatican News
Vatican News (04.02.2023) – Trong buổi cầu nguyện đại kết tại Lăng "John Garang", Đức Thánh Cha mời gọi các Kitô hữu cầu nguyện và làm việc vì sự hiệp nhất huynh đệ giữa các Kitô hữu và hãy giúp nhau truyền bá thông điệp hòa bình trong xã hội, truyền bá phong cách bất bạo động của Chúa Giêsu, để nơi những người tự xưng là tín hữu không còn chỗ cho một nền văn hóa dựa trên tinh thần báo thù.
Hoạt động cuối cùng của Đức Thánh Cha trong ngày
thứ hai của chuyến viếng thăm Nam Sudan là chủ sự buổi Cầu nguyện Đại kết tại
Lăng John Garang.
Sau khi gặp gỡ những người di tản nội địa tại Hội
trường Tự do, Đức Thánh Cha cùng Đức Tổng Giám mục Anh giáo của Canterbury và vị
Điều hành Tổng công nghị của Giáo hội Scotland di chuyển đến Lăng John Garang gần
đó.
Lăng John Garang
Lăng này là nơi an nghỉ của tiến sĩ John Garang
de Mabior. Ông là lãnh đạo Lực lượng và Phong trào Giải phóng Nhân dân Sudan từ
năm 1983 đến năm 2005, năm ký Hiệp ước Hoà bình Toàn cầu, với kết quả là Nam
Sudan được độc lập vào năm 2011. Tuy nhiên ông John Garang không thể chứng kiến
sự kiện này vì ông đã qua đời do tai nạn máy bay sau khi đã tuyên thệ làm phó tổng
thống thứ nhất của Sudan và Tổng thống của chính phủ Nam Sudan.
Chính trên lăng mộ của ông John Garang, vào ngày
9/7/2011, ông Salva Kiir Mayardit, Tổng thống hiện tại của Nam Sudan, đã tuyên
bố đất nước độc lập.
Đức Thánh
Cha chủ sự buổi Cầu nguyện đại kết tại Lăng "John Garang"
Cầu nguyện đại kết: Con cầu nguyện để họ
nên một... (Ga 17,21)
Chủ đề của buổi cầu nguyện là ‘Con cầu nguyện để
họ nên một...’ (Ga 17,21). Tham dự buổi cầu nguyện đại kết có đại diện của các
Giáo hội Kitô tại Nam Sudan.
Bắt đầu buổi cầu nguyện, mục sư Thomas Tut Puot
Mut, Chủ tịch Hội đồng các Giáo hội của Nam Sudan, đã đại diện chào mừng Đức
Thánh Cha và các phái đoàn đại kết.
Đoạn sách Công vụ Tông đồ (2,42-47) được công bố
trong buổi cầu nguyện đại kết, thuật lại việc các tín hữu tiên khởi chuyên cần
nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng cầu
nguyện, đồng tâm nhất trí và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng
đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ. Sau đó, đoạn Tin Mừng thánh
Gioan (17,20-26) thuật lại lời Chúa Giêsu cầu nguyện cho tất cả được hiệp nhất,
được trở nên một, “như Cha ở trong con và con ở trong Cha, để họ cũng ở trong
chúng ta.”
Trong buổi cầu nguyện, các tín hữu thuộc các
Giáo hội Kitô khác nhau cũng đã tuyên xưng đức tin, bằng cách cùng nhau đọc lại
kinh Tin Kính các Tông đồ. Sau đó, những lời cầu nguyện khẩn cầu lòng thương
xót cho quốc gia đã được các tín hữu thuộc các Giáo hội Kitô khác nhau ở Nam
Sudan dâng lên Thiên Chúa.
Đức Thánh
Cha chủ sự buổi Cầu nguyện đại kết tại Lăng "John Garang"
Diễn văn của Đức Thánh Cha
Mở đầu bài chia sẻ, Đức Thánh Cha nói rằng mọi
người đang quy tụ, như là Dân Thánh của Chúa, cầu nguyện cho dân tộc đang bị
thương tích này. Và ngài nhấn mạnh: “Là Kitô hữu, cầu nguyện là điều đầu tiên
và quan trọng nhất mà chúng ta được mời gọi thực hiện để có thể hoạt động cho sự
thiện và có sức mạnh để kiên trì trên hành trình của chúng ta.” Từ đó ngài chia
sẻ về ba động từ: Cầu nguyện, làm việc và bước đi.
1. Cầu nguyện
Trước hết là cầu nguyện. Đức Thánh Cha khẳng định
rằng sự dấn thân của các cộng đoàn Kitô hữu trong việc thăng tiến con người,
trong tình liên đới và hòa bình sẽ vô ích nếu không có lời cầu nguyện.
Suy tư về ý nghĩa của việc cầu nguyện trong đời
sống và sứ vụ lãnh đạo dân tộc của ông Môsê trên hành trình tìm đến tự do, đặc
biệt qua biến cố tại Biển Đỏ: trước mặt họ là một bức tường nước không thể vượt
qua được và đàng sau là quân địch đang tiến đến, với chiến xa và ngựa, Đức
Thánh Cha nhận xét rằng trong hoàn cảnh tuyệt vọng đó, ông Môsê khuyên dân
chúng: |Đừng sợ! Cứ đứng vững, rồi anh em sẽ thấy việc Đức Chúa làm
hôm nay để cứu thoát anh em” (Xh 14,13). Ông có được sự chắc chắn như vậy là nhờ
lắng nghe Chúa (xem các câu 2-4), Đấng đã hứa với ông rằng Người sẽ tỏ vinh
quang của Người. Và Đức Thánh Cha khẳng định: “Sự kết hợp với Thiên Chúa, sự
tin tưởng vào Người được vun trồng trong cầu nguyện, là bí quyết nhờ đó ông
Môsê có thể lãnh đạo dân chúng đi từ áp bức đến tự do.”
Đức Thánh
Cha chủ sự buổi Cầu nguyện đại kết tại Lăng “John Garang”
Cầu nguyện ban cho chúng ta sức
mạnh để tiến bước
Đối với chúng ta cũng vậy. Đức Thánh Cha nói: “Cầu
nguyện ban cho chúng ta sức mạnh để tiến bước, để vượt qua những nỗi sợ hãi, để
thoáng thấy, ngay cả trong bóng tối, ơn cứu độ mà giờ đây Thiên Chúa đang chuẩn
bị. Hơn nữa, cầu nguyện kéo ơn cứu độ của Thiên Chúa xuống trên con người.” Đặc
biệt, các mục tử của dân Chúa có bổn phận đặc biệt chuyển cầu cho đoàn chiên của
mình để xin Chúa của sự bình an can thiệp nơi mà con người không thể mang lại
bình an.
Hãy chuyên cần và đồng tâm cầu
nguyện
Và Đức Thánh Cha mời gọi các Kitô hữu thuộc các
hệ phái khác nhau hãy hiệp nhất với nhau, như một gia đình duy nhất, có trách
nhiệm cầu nguyện cho mọi người; hãy chuyên cần và đồng tâm cầu nguyện (xem Cv
1,14) để Nam Sudan, giống như dân Chúa trong Kinh Thánh, ‘có thể đến được miền
đất hứa.’”
Đức Thánh
Cha chủ sự buổi Cầu nguyện đại kết tại Lăng “John Garang”
2. Làm việc vì hoà bình
Về động từ thứ hai - làm việc, theo
Đức Thánh Cha, chúng ta được mời gọi làm việc là vì hoà bình,
vì Chúa Giêsu muốn chúng ta trở thành “những người kiến tạo hòa bình” (Mt
5,9). “Người muốn Giáo hội của Người không chỉ là dấu chỉ và khí cụ của sự kết
hợp mật thiết với Thiên Chúa, mà còn là sự hiệp nhất của toàn thể nhân loại
(x. Lumen gentium, 1).” Chúa Kitô “là bình an của chúng ta” chính bởi
vì Người tái lập sự hiệp nhất: Người là Đấng “làm cho cả hai nên một, phá đổ những
bức tường ngăn cách, thù hận” (x. Ep 2,14). Đức Thánh Cha giải thích: “Đây là
bình an của Thiên Chúa: không chỉ là một thỏa thuận đình chiến giữa các cuộc
xung đột, nhưng là một sự hiệp thông huynh đệ, đến từ việc liên kết với nhau, không
phải từ việc nuốt chửng nhau; từ tha thứ chứ không từ chế ngự; từ hòa giải chứ
không từ áp đặt.”
Ai theo Chúa Kitô thì luôn chọn
bình an; ai gây chiến tranh và bạo lực là phản bội Chúa
Và Đức Thánh Cha kêu gọi: "Chúng ta hãy làm
việc không mệt mỏi vì nền hòa bình mà Thần Khí của Chúa Giêsu và Chúa Cha thúc
giục chúng ta xây dựng: một nền hòa bình hội nhập sự đa dạng và thúc đẩy sự hiệp
nhất trong sự đa dạng. Đây là bình an của Chúa Thánh Thần, Đấng dung hòa những
khác biệt, trong khi thần khí thù địch với Thiên Chúa và con người lợi dụng những
khác biệt để chia rẽ.” Đức Thánh Cha lưu ý rằng “những ai gọi mình là Kitô hữu
đều phải biết chọn đứng về phía nào. Ai theo Chúa Kitô thì luôn chọn bình an;
ai gây chiến tranh và bạo lực là phản bội Chúa và chối bỏ Tin Mừng của Người.
Điều Chúa Giêsu dạy chúng ta thì rất rõ ràng: yêu thương mọi người, vì mọi người
đều được Cha chung trên trời yêu thương như con cái. Tình yêu của người Kitô hữu
không chỉ dành cho người thân cận của mình, mà còn dành cho mỗi người, bởi vì mỗi
người trong Chúa Giêsu đều là người thân cận, anh chị em của chúng ta - thậm
chí cả kẻ thù của chúng ta (x. Mt 5,38-48). Điều này càng đúng hơn biết bao đối
với những người là thành viên của cùng một dân tộc, mặc dù thuộc các nhóm sắc tộc
khác nhau.”
Hãy cùng nhau làm việc vì sự
hiệp nhất huynh đệ
Đức Thánh Cha mời gọi hãy cùng nhau làm việc vì
sự hiệp nhất huynh đệ này giữa các Kitô hữu chúng ta và hãy giúp nhau truyền bá
thông điệp hòa bình trong xã hội, truyền bá phong cách bất bạo động của Chúa
Giêsu, để nơi các tín hữu không còn chỗ cho một nền văn hóa dựa trên tinh thần
báo thù.
Đức Thánh
Cha chủ sự buổi Cầu nguyện đại kết tại Lăng “John Garang”
3. Bước đi: làm việc cùng nhau
Sau các động từ cầu nguyện và làm việc, Đức
Thánh Cha chia sẻ về động từ thứ ba: bước đi. Ngài cảm ơn các cộng
đồng Kitô giáo đã dấn thân mạnh mẽ để thúc đẩy các tiến trình hòa giải, cảm ơn
chứng tá đức tin của họ, một chứng tá xuất phát từ nhận thức, được diễn tả
không chỉ bằng lời nói nhưng còn bằng hành động, rằng “trước những chia rẽ lịch
sử, có một thực tại bất di bất dịch: chúng ta là Kitô hữu, chúng ta thuộc về
Chúa Kitô.” Ngài nhận xét rằng có một điều tốt đẹp là “giữa quá nhiều xung đột,
những người tuyên xưng đức tin Kitô giáo chưa bao giờ làm dân tộc bị chia rẽ,
nhưng đã và vẫn tiếp tục là một yếu tố của sự hiệp nhất.”
Việc gieo rắc Tin Mừng phải
góp phần gieo rắc sự hiệp nhất
Đức Thánh Cha cũng khen ngợi rằng “Truyền thống
đại kết của Nam Sudan là một kho tàng quý giá, một hành động ngợi khen danh
Chúa Giêsu, một hành động yêu thương dành cho Giáo hội, hiền thê của Người, một
mẫu gương cho tất cả để tiến tới trên con đường hiệp nhất Kitô giáo.” Do đó, di
sản này phải được gìn giữ trong cùng tinh thần đó: “Những chia rẽ trong Giáo hội
trong các thế kỷ qua không được ảnh hưởng đến những người được loan báo Tin Mừng,
nhưng việc gieo Tin Mừng phải góp phần gieo sự hiệp nhất nhiều hơn. Chủ nghĩa bộ
lạc và chủ nghĩa bè phái nuôi dưỡng bạo lực trong nước không được ảnh hưởng đến
các mối quan hệ giữa các tôn giáo; ngược lại, ước gì chứng tá về sự hiệp nhất của
các tín hữu phải được tuôn đổ trên toàn dân.”
Đức Thánh
Cha chủ sự buổi Cầu nguyện đại kết tại Lăng “John Garang”
Ký ức và dấn thân
Để giúp các Kitô hữu kiên trì tiếp tục cuộc hành
trình của mình, Đức Thánh Cha đưa ra hai yếu tố quan trọng: ký ức và dấn
thân. Trước hết, về ký ức, Đức Thánh Cha mời gọi các Kitô hữu đừng
sợ mình không sống theo gương mẫu của các vị tiền nhân, ngược lại hãy cảm thấy
bị thúc đẩy bởi những người đã mở đường cho họ.
Đừng bao giờ hành động như những
đối thủ cạnh tranh
Chia sẻ về sự dấn thân, Đức Thánh
Cha nói: “Chúng ta tiến tới sự hiệp nhất khi tình yêu được thể hiện cách cụ thể,
khi chúng ta cùng nhau giúp đỡ những người bị gạt ra bên lề, những người bị
thương tích và bị từ chối.” Ngài nhận xét rằng các Kitô hữu đã thực hiện điều
này trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong việc chăm sóc sức khỏe, giáo dục, bác
ái. Ngài mời gọi họ hãy tiếp tục dấn thân nhưng “đừng bao giờ hành động như những
đối thủ cạnh tranh, mà như là các thành viên trong gia đình, những anh chị em,
những người, bằng lòng cảm thương đối với những người đau khổ, những người được
Chúa Giêsu yêu quý, đã tôn vinh Thiên Chúa và làm chứng cho tình thân hữu mà
Người mong muốn.”
Đức Thánh
Cha chủ sự buổi Cầu nguyện đại kết tại Lăng “John Garang”
Tiếp tục buổi cầu nguyện, Đức cha Stephen Ameyu
Martin Mulla, Tổng Giám mục giáo phận Juba, mời gọi tất cả cùng đọc kinh Lạy
Cha bằng các ngôn ngữ khác nhau mà người dân Nam Sudan sử dụng.
Sau cùng, Đức Thánh Cha và hai vị lãnh đạo của
Giáo hội Anh giáo và Giáo hội Scotland cùng ban phép lành cho tất cả tín hữu hiện
diện.
Kết thúc giờ cầu nguyện Đức Thánh Cha trở về Toà
Sứ thần cách đó 2 km để dùng bữa tối và nghỉ đêm, kết thúc ngày thứ hai viếng
thăm Nam Sudan.
Chúa Nhật ngày 5/2/2023 Đức Thánh Cha sẽ chủ sự
Thánh lễ tại Lăng John Garang trước khi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu và
lên đường trở về Roma. Vatican News Tiếng Việt sẽ truyền hình trực tiếp Thánh Lễ
với thuyết minh tiếng Việt, lúc 1h45 chiều Chúa Nhật, 5/2/2023.
Đức Thánh
Cha chủ sự buổi Cầu nguyện đại kết tại Lăng “John Garang”
Nguồn: vaticannews.va/vi
-----------
NGÀY 04.02.2023
Lúc 22:30 (Giờ Việt Nam)
ĐỨC THÁNH CHA
PHANXICÔ GẶP NHỮNG NGƯỜI DI TẢN NỘI ĐỊA
Văn Yên, SJ - Vatican News
Vatican News (04.02.2023) – Sau khi nghỉ trưa, lúc 4 giờ 30 giờ chiều, Đức Thánh Cha đã đến Hội trường Tự do, bên cạnh Lăng “John Garang” để gặp những người di tản nội địa của Nam Sudan. Ước tính trong năm 2022, khoảng 33.000 người sống trong các trại di tản nội địa, tăng hơn 2.000 người so với năm 2021.
Buổi gặp gỡ bắt đầu bằng
lời cầu nguyện và các chứng từ của các em nhỏ sống trong các trại di tản nội địa.
Sau đó, ĐTC đã đáp lời bằng những lời khích lệ và khuyến khích họ hoà giải.
Ngài nói: “Tôi đã nghĩ đến anh chị em từ lâu, mang trong tim niềm khao khát được
gặp anh chị em, được nhìn vào mắt anh chị em, được bắt tay và ôm lấy anh chị
em: cuối cùng thì tôi cũng ở đây, cùng với những người anh em mà tôi cùng chia
sẻ cuộc hành hương hòa bình này, để nói lên tất cả sự gần gũi và lòng quý mến của
tôi dành cho anh chị em. Tôi hiện diện cùng anh chị em, đau khổ cho anh chị em
và với anh chị em.”
Kêu gọi chấm dứt bạo lực
Đức Thánh Cha mạnh mẽ
nói rằng: “với tất cả nỗ lực của mình, tôi lập lại lời kêu gọi chân thành nhất
nhằm chấm dứt mọi xung đột, nghiêm túc thực hiện lại tiến trình hòa bình để bạo
lực chấm dứt và mọi người có thể trở lại một cuộc sống xứng đáng. Chỉ có hòa
bình, sự ổn định và công bằng mới có phát triển và tái hội nhất xã hội.” Ngài
nói với các trẻ em: “Tương lai không thể ở trong các trại tị nạn. Tất cả những
đứa trẻ cần có cơ hội đến trường và cả không gian để chơi bóng đá! Xã hội này cần
được phát triển như một xã hội cởi mở, hòa nhập, hình thành một dân tộc duy nhất
vượt qua những thách thức của hội nhập, các con cần được học các ngôn ngữ đang
sử dụng trên khắp đất nước chứ không chỉ trong một nhóm dân tộc của riêng
mình.”
Tình trạng khủng khoảng tị nạn
Đức Thánh Cha cảm ơn
Phó Đại diện Đặc biệt của Liên Hiệp Quốc tại Nam Sudan, bà Sara Beysolow
Nyanti, đã nói về cuộc khủng hoảng người tị nạn lớn nhất trên Lục địa vẫn tồn tại,
với ít nhất bốn triệu trẻ em của vùng đất này phải di tản, với tình trạng bấp
bênh lương thực và suy dinh dưỡng ảnh hưởng đến hai phần ba dân số và với những
dự đoán về một thảm kịch nhân loại có thể tồi tệ hơn trong năm nay. Ngài cũng cảm
ơn bà và nhiều người khác đã dấn thân không mệt mỏi cho người dân Nam Sudan.
Phụ nữ là chìa khoá để thay đổi
Đặc biệt, Đức Thánh
Cha xác tín: các bà mẹ, phụ nữ là chìa khóa để thay đổi đất nước: nếu
họ nhận được cơ hội thích hợp, bằng sự cần cù và năng khiếu bảo vệ sự sống của
họ, họ sẽ có khả năng thay đổi bộ mặt của Nam Sudan, để mang lại cho miền đất
này một sự phát triển thanh bình và gắn kết! Nhưng, tôi xin anh chị em, tôi xin
tất cả cư dân của những vùng đất này: phụ nữ cần được bảo vệ, tôn trọng, đánh
giá cao và tôn vinh. Xin vui lòng bảo vệ, tôn trọng, coi trọng và tôn vinh mọi
phụ nữ, trẻ em, thiếu nữ, thanh niên, người lớn, người mẹ, người bà. Không có họ,
sẽ không có tương lai.
Viết lại trang sử mới
Đức Thánh Cha khuyến
khích những người dân Nam Sudan: “anh chị em là hạt giống của một Nam Sudan mới,
hạt giống cho sự phát triển màu mỡ và xum xuê của đất nước. Chính anh chị em,
thuộc tất cả các dân tộc khác nhau, đã đau khổ và đang đau khổ, nhưng không muốn
đáp lại sự ác bằng sự ác hơn. Chính anh chị em, những người hiện đang lựa chọn
tình huynh đệ và sự tha thứ, đang vun đắp cho một ngày mai tốt đẹp hơn.”
Để được như vậy, như
cây luôn có gốc rễ, những người “những vùng đất này người ta ‘không bao giờ được
quên cội nguồn’, bởi vì ‘tổ tiên nhắc cho chúng ta biết chúng ta là ai và chúng
ta phải đi trên đường lối nào... Không có tổ tiên, chúng ta lạc lối, sợ hãi và
không có kim chỉ nam. Không có tương lai nếu không có quá khứ’ (C. Carlassare
, La capanna di Padre Carlo. Comboniano tra i Nuer , 2020,
65). Ở Nam Sudan, những người trẻ lớn lên biết kế thừa những câu chuyện của người
lớn tuổi và, nếu câu chuyện của những năm gần đây được đặc trưng bởi bạo lực,
thì thực sự, có thể cần phải khai mở một câu chuyện mới, bắt đầu với anh chị
em: một trình thuật mới về cuộc gặp gỡ... nơi mà những gì đã phải
chịu đựng không bị lãng quên, nhưng được sống bởi ánh sáng của tình huynh đệ; một
câu chuyện không tập trung vào bi kịch thời sự mà tập trung vào khát vọng hòa
bình cháy bỏng.” Đức Thánh Cha khuyến khích: “Chính anh chị em, những người trẻ
thuộc các nhóm dân tộc khác nhau, là những trang đầu tiên của câu chuyện này! Nếu
xung đột, bạo lực và hận thù đã tước đi khỏi những trang đời đầu tiên của nước Cộng
hòa này những ký ức tốt đẹp, thì chính anh chị em là người viết lại lịch sử hòa
bình của nó!”
Cảm ơn những người đã dấn
thân cho Nam Sudan
Đức Thánh Cha cũng gởi
lời cảm ơn đến những người đã dấn thân giúp đỡ những người di tản. Ngài cảm ơn
đặc biệt đến các nhà truyền giáo, các tổ chức nhân đạo và các tổ chức quốc tế,
đặc biệt là Liên Hiệp Quốc vì công việc vĩ đại mà họ đã và đang làm. Ngài kêu gọi:
“Tôi hết lòng khẩn xin tất cả mọi người: chúng ta hãy giúp đỡ Nam Sudan, chúng
ta đừng bỏ mặc người dân Nam Sudan, những người đã và đang phải chịu đựng rất
nhiều đau khổ!”
Cuối cùng, Đức Thánh
Cha và cùng Đức TGM Justin và Vị Điều hành Tổng Công nghị của Giáo hội Scotland
Iain ban phúc lành cho người dân Nam Sudan, đặc biệt là cho các trẻ em. Ngài
nói: “Với phép lành này, tôi cũng mang đến cho anh chị em phước lành của rất
nhiều anh chị em Kitô hữu trên thế giới, những người muốn ôm lấy và khích lệ
anh chị em.”
Nguồn: vaticannews.va/vi
------------
NGÀY 04.02.2023
Lúc 15:00 (Giờ Việt Nam)
ĐỨC THÁNH CHA GẶP GỠ CÁC GIÁM MỤC, LINH MỤC, TU SĨ NAM NỮ,
CHỦNG SINH VÀ GIÁO LÝ VIÊN CỦA NAM SUDAN
Ngọc Yến - Vatican News
Vatican News (04.02.2023) – Đức Thánh Cha mời gọi các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ và chủng sinh của Nam Sudan noi gương ông Môsê luôn ngoan nguỳ trước sáng kiến của Chúa, gần gũi với Chúa, và luôn là người chuyển cầu cho dân trước Chúa.
Sáng
thứ Bảy ngày 04/02, ngày thứ hai trong chuyến tông du của Đức Thánh Cha đến Nam
Sudan, vào lúc 08 giờ 45’ giờ địa phương, từ Toà Sứ thần, Đức Thánh Cha đến Nhà
thờ Chính toà thánh Têrêsa, cách đó 2 km để gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu
sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo lý viên.
Đức Thánh Cha chào một em bé
Nhà thờ
Chính toà thánh Têrêsa
Nhà
thờ Chính toà thánh Têrêsa, hay Nhà thờ Juba, bắt đầu xây dựng vào năm 1952, nằm
trên Đại lộ Thống nhất ở Bahr al Jabal, quận Kotor. Đây cũng là Toà của Tổng
Giáo Phận Juba, được thành lập vào ngày 12/12/1974 bởi thánh Giáo
hoàng Phaolô VI.
Nhà thờ Chính toà
Hội đồng
Giám mục Sudan
Hội
đồng Giám mục Sudan gồm các Giám mục của Sudan và Nam Sudan. Giáo hội ở Sudan
có một tổng giáo phận và một giáo phận trực thuộc. Giáo hội Nam Sudan có một tổng
giáo phận và sáu giáo phận trực thuộc. Sau khi Nam Sudan độc lập vào năm 2011,
để thuận tiện cho hoạt động mục vụ, mỗi quốc gia có một trụ sở giám mục riêng,
một ở Juba của Nam Sudan và một ở Khartoum của Sudan. Chủ tịch Hội đồng Giám mục
Sudan là Đức cha Yunan Tombe Trille Kuku Andali, Giám mục của El Obeid tại
Sudan. Hội đồng Giám mục Sudan là thành viên của Hội đồng Giám mục Đông phi và
Liên Hội đồng Giám mục châu Phi và Madagascar.
Các Giám mục
Bài
huấn dụ của Đức Thánh Cha
Đức
Thánh Cha đến Nhà thờ Chính toà vào lúc 9 giờ. Tại đây ngài được Đức Tổng Giám
Mục và cha sở trao Thánh giá để hôn và nước thánh để rảy. Sau đó tất cả tiến
vào Nhà thờ.
Sau
bài thánh ca, buổi gặp gỡ được bắt đầu bằng lời chào mừng của Chủ tịch Hội Đồng
Giám mục, tiếp đến là chứng tá của một linh mục và một nữ tu.
Đức Thánh Cha chào các tín hữu
Nước sông
Nile, dấu hiệu giải thoát và cứu độ
Trong
bài diễn văn liền sau đó, trước hết Đức Thánh Cha lấy hình ảnh nước
sông Nile của đất nước để nói về hành động của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá. Nước
là lòng trắc ẩn của Thiên Chúa làm dịu cơn khát khi chúng ta đang lang thang
trong sa mạc, là lòng thương xót thanh tẩy chúng ta khi chúng ta rơi vào vũng lầy
tội lỗi, trong bí tích Thánh tẩy, Người đã thánh hoá chúng ta “bằng nước tái
sinh và đổi mới trong Thánh Thần” (Tt 3, 5).
Chính
từ quan điểm Kinh Thánh mà Đức Thánh Cha muốn nhìn dòng nước của sông Nile theo
cái nhìn mới. Một mặt, trong lòng sông này, đổ vào trong đó dòng nước mắt của một
dân tộc bị đắm chìm trong đau khổ, tử đạo và bạo lực; một dân tộc cầu khẩn như
tác giả thánh vịnh: “Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Xion” (Tv
137, 1).
Đức
Thánh Cha cho rằng, nước của dòng sông vĩ đại này chứa đựng tiếng rên rỉ đau khổ
của các cộng đoàn anh chị em, tiếng kêu đau đớn của nhiều cuộc đời bị tan vỡ,
thảm kịch của một dân tộc phải chạy trốn, nỗi đau của những phụ nữ và sợ hãi
ghi sâu trong mắt trẻ em. Tuy nhiên, đồng thời nước của dòng sông vĩ đại đưa
chúng ta trở lại câu chuyện của Môsê, dấu hiệu giải thoát và cứu độ. Thực tế, từ
dòng nước đó Môsê đã được cứu, dẫn dân đi vào giữa Biển Đỏ. Dòng nước đã trở
thành phương tiện cứu độ, biểu tượng trợ giúp của Thiên Chúa, Đấng thấy sự đau
khổ của con cái, lắng nghe tiếng kêu khóc và đến cứu họ (Xh 3,7).
Từ
câu chuyện của Môsê, Đức Thánh Cha dẫn vào thực tế với câu hỏi: “Làm thế nào
chúng ta có thể thi hành thừa tác vụ trong vùng đất này, dọc theo bờ sông đã đẫm
máu người vô tội, giữa những khuôn mặt đẫm lệ của những người được giao phó cho
chúng ta? Để cố gắng trả lời, tôi dừng lại ở hai thái độ của Môsê: ngoan
nguỳ và chuyển cầu”.
Đức Thánh Cha gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ nam
nữ, chủng sinh và giáo lý viên của Nam Sudan
Sự ngoan nguỳ
của Môsê trước sáng kiến của Chúa
Đức
Thánh Cha quảng diễn tiếp: Lúc đầu, ông Môsê tự mình chống bất công
và áp bức. Được công chúa của Pharaoh cứu từ sông Nile, ông phát hiện ra danh
tính của mình. Xúc động trước đau khổ và sỉ nhục của anh em mình, một ngày Môsê
quyết định thi hành công lý một mình qua việc đánh chết một người Ai Cập vì đã
ngược đãi một người Do Thái. Tuy nhiên, sau sự kiện này, ông đã
phải chạy trốn và ở lại sa mạc trong nhiều năm. Ở đó, ông
đã trải qua một sa mạc nội tâm. Ông đã nghĩ đến việc đối phó với
bất công một mình và bây giờ, kết quả là ông trở thành kẻ phải chạy trốn,
sống trong cô đơn, nếm trải cảm giác thất bại cay đắng. Sai lầm
của Môsê là gì? Đó là nghĩ mình là trung tâm, chỉ dựa vào sức mạnh
mình. Nhưng như thế, ông vẫn là một tù nhân của những phương
pháp tồi tệ nhất của con người, như đáp trả bạo lực bằng bạo lực.
Liên
hệ đến thực tế, Đức Thánh Cha nhận định rằng, trong cuộc sống của chúng ta, đôi
khi cũng có thể xảy ra như thế. Trong sâu thẳm chúng ta nghĩ mình là trung tâm,
chúng ta có thể tự làm được mọi chuyện, nếu không phải trong lý thuyết thì ít
ra trong thực tế. Chúng ta cho rằng với tài khéo của mình, chúng ta có thể tìm
câu trả lời cho những đau khổ và những nhu cầu của dân chúng qua các phương tiện
của con người, như tiền bạc, trí thông minh, quyền lực. Trái lại, hoạt động của
chúng ta đến từ Chúa, Người là Thiên Chúa chúng ta và chúng ta được kêu gọi để
trở thành những khí cụ ngoan nguỳ trong tay Người. Môsê đã học được điều này,
khi một ngày Chúa chủ động đến gặp ông, hiện ra “trong đám lửa từ giữa bụi cây”
(Xh 3, 2).
Khi
chúng ta ngoan nguỳ để Chúa uốn nắn, chúng ta sẽ sống thừa tác vụ theo một cách
mới. Trước Vị Mục Tử Nhân Lành, chúng ta hiểu rằng chúng ta không phải là những
người đứng đầu bộ lạc, nhưng là những mục tử đầy lòng trắc ẩn và thương xót;
không phải là những ông chủ của dân, nhưng là những người phục vụ, những người
được kêu gọi rửa chân cho anh chị em; không phải là một tổ chức thế gian, quản
lý của cải dưới đất, nhưng là cộng đoàn con cái Chúa. Rồi chúng ta làm như Môsê
đã làm trước Chúa: cởi dép ở chân ra với sự tôn kính và khiêm nhường (Xh 3, 5),
cởi bỏ sự tự phụ, để Chúa thu hút và nuôi dưỡng cuộc gặp gỡ với Người
trong cầu nguyện; mỗi ngày đến gần với mầu nhiệm Thiên Chúa, để Người đốt cháy
bụi gai kiêu ngạo và những tham vọng của chúng ta, và làm cho chúng ta trở
thành những người đồng hành khiêm tốn trong hành trình của những người được
trao phó cho chúng ta.
Các tín hữu chào đón Đức Thánh Cha
Chuyển cầu
cho dân
Được
lửa Thiên Chúa thanh tẩy và soi sáng, Môsê đã trở thành phương tiện cứu độ cho
những anh chị em của ông đang đau khổ. Thái độ ngoan nguỳ của ông trước Chúa
làm cho ông có khả năng chuyển cầu cho họ. Khía cạnh thứ hai của tính cách Môsê
mà tôi muốn nói với anh chị em đó là chuyển cầu. Ông
kinh nghiệm về một Thiên Chúa đầy lòng trắc ẩn, Đấng không dửng dưng trước tiếng
kêu của dân nhưng xuống giải cứu họ.
Vào những
thời điểm quan trọng và khó khăn nhất, ông Môsê lên núi để cầu thay cho
dân, nghĩa là đứng vào vị trí của dân để đưa họ đến gần Chúa, rồi đi xuống.
Cầu thay không có nghĩa đơn giản là “cầu nguyện cho ai đó”. Theo nguyên ngữ,
có nghĩa là “bước vào giữa”, sẵn sàng bước vào giữa một hoàn cảnh. Như vậy,
chuyển cầu là đi xuống và đặt mình ở giữa dân mình, đóng vai trò như cầu nối họ
với Thiên Chúa.
Các
mục tử được yêu cầu trau dồi nghệ thuật “bước vào giữa” này. Đó là bước vào giữa
những đau khổ và nước mắt của dân, vào giữa sự đói khát Thiên Chúa và khát khao
tình thương của anh chị em. Nhiệm vụ đầu tiên của chúng ta không phải là trở
thành một Giáo hội được tổ chức hoàn hảo, nhưng là một Giáo hội, nhân danh Chúa
Kitô, đứng vững giữa cuộc sống đầy khó khăn của dân chúng, một Giáo hội vì con
người sẵn sàng để cho tôi xắn tay áo và chịu bẩn tay.
Đức
Thánh Cha nhắn nhủ, khi thi hành thừa tác vụ, các linh mục và tu sĩ
không chạy theo uy tín tôn giáo và xã hội, nhưng bước đi giữa và bên cạnh
dân, học cách lắng nghe và đối thoại, hợp tác giữa chúng ta với nhau, những thừa
tác viên và với giáo dân. Tôi muốn nhắc lại điều quan trọng này: cùng
nhau. Các giám mục và linh mục, linh mục và phó tế, mục tử và chủng sinh,
các thừa tác viên chức thánh và tu sĩ – luôn nuôi dưỡng sự tôn trọng đối với
nét đặc thù kỳ diệu của đời sống tu trì. Giữa chúng ta, hãy cố gắng vượt thắng
cám dỗ lo cho cá nhân, lợi ích nhóm. Là điều đáng buồn khi các mục tử không có
khả năng hiệp thông, khi không hợp tác và thậm chí dửng dưng với nhau! Chúng ta
hãy vun đắp sự tôn trọng lẫn nhau, gần gũi và hợp tác cụ thể. Nếu chính chúng
ta không làm được điều này, làm sao chúng ta có thể rao giảng cho người khác?
Đức Thánh Cha chào một tín hữu
Ông Môsê cầu
nguyện cho dân với cây gậy trong tay: Lời ngôn sứ
Đức
Thánh Cha chỉ ra nghệ thuật cầu thay của Môsê: Với đôi tay, ông cầu nguyện. Kinh
Thánh cho thấy ba hình ảnh: Môsê tay cầm gậy, Môsê dang tay, Môsê giơ
tay lên trời.
Hình
ảnh đầu tiên, Môsê với cây gậy trong tay, cho chúng ta biết rằng ông can thiệp bằng
lời ngôn sứ. Với cây gậy, ông làm nên những điều kỳ diệu, những dấu hiệu về
sự hiện diện và quyền năng Chúa; nhân danh Chúa ông lên tiếng, mạnh mẽ tố cáo sự
áp bức mà dân đang phải chịu đựng, và yêu cầu Pharaô phải để họ ra đi.
Linh
mục và tu sĩ cũng được mời gọi chuyển cầu cho dân, lên tiếng chống lại bất
công và lạm quyền áp bức và sử dụng bạo lực để đạt được mục đích riêng giữa đám
mây xung đột. Nếu chúng ta muốn là những mục tử chuyển cầu, chúng ta không
thể giữ thái độ trung lập trước những nỗi đau do những hành vi bất công và bạo
lực gây ra. Bởi vì ở đâu có một người nam hay người nữ bị xúc phạm các quyền cơ
bản là xúc phạm đến Chúa Kitô.
Đức Thánh Cha chào thăm các tín hữu
Ông Môsê cầu
nguyện cho dân với đôi tay dang rộng
Hình
ảnh thứ hai là Môsê với đôi tay dang rộng. Kinh Thánh cho chúng ta biết
ông “đã giơ tay trên mặt biển” (Xh 14,21). Đôi bàn tay mở rộng của ông là dấu
hiệu cho thấy Chúa sắp thể hiện uy lực. Sau đó, ông Môsê cầm bia Chứng Ước
trong tay (Xh 34,29) và cho dân chúng thấy; bàn tay giơ cao của ông chứng tỏ sự gần
gũi của Thiên Chúa, Đấng luôn hoạt động đồng hành với dân
Người. Tự nó, lời ngôn sứ không đủ để giải thoát khỏi sự dữ: cần phải giang rộng
vòng tay với anh chị em, để nâng đỡ họ trên hành trình. Chúng ta có thể hình
dung Môsê chỉ đường và nắm tay mọi người để khuyến khích họ kiên trì bước đi.
Trong bốn mươi năm, ở tuổi già, ông vẫn ở bên cạnh họ: đó là ý nghĩa của sự gần
gũi. Đó không phải là một nhiệm vụ dễ dàng: ông thường phải nâng đỡ tinh thần của
những người đang chán nản và mệt mỏi, đói và khát, hay lầm bầm và thờ ơ. Và khi
thực hiện nhiệm vụ này, Môsê cũng phải đấu tranh với chính mình, vì nhiều lúc,
ông cũng trải qua những giây phút tăm tối và u sầu, như khi ông thưa với Chúa:
“Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài ? Tại sao con lại không đẹp lòng Ngài, khiến
Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con? [...] Một mình con không thể gánh cả
dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con” (Ds 11,11.14). Tuy nhiên,
Môsê đã không lùi bước: luôn ở gần Thiên Chúa và không quay lưng lại với dân.
Đức
Thánh Cha nói: “Đây cũng là nhiệm vụ của chúng ta: dang tay ra, thức tỉnh anh
chị em chúng ta, nhắc nhở họ rằng Thiên Chúa trung thành với các lời hứa của
Người, thúc giục họ tiến bước. Bàn tay chúng ta được “xức dầu bằng Thần Khí”
không chỉ để thực hiện các nghi thức thánh, nhưng còn để khuyến khích, giúp đỡ
và đồng hành với mọi người để giúp họ thoát ra khỏi những gì làm họ tê liệt,
khép kín, làm họ sợ hãi.”.
Đức Thánh Cha chào thăm các tín hữu
Ông Môsê cầu
nguyện cho dân hai tay giơ lên trời
Hình
ảnh thứ ba: Môsê với hai tay giơ lên trời. Khi dân phạm tội, làm một con
bò con bằng vàng, Môsê lại đi lên núi. Ông cầu nguyện, đó thực
sự là một cuộc đấu tranh với Chúa, cầu xin Người không bỏ rơi Israel. Ông đi xa
đến mức nói: “Dân này đã phạm một tội lớn! Họ đã làm cho mình một tượng thần bằng
vàng! Nhưng giờ đây, ước gì Ngài miễn chấp tội họ! Bằng không, thì xin Ngài xoá
tên con khỏi cuốn sách Ngài đã viết” (Xh 32, 31-32). Môsê đứng với dân chúng
cho đến phút cuối, giơ tay thay mặt họ. Ông không nghĩ đến việc tự cứu mình;
ông không bán dân vì lợi ích của mình! Ông can thiệp, đấu tranh với Chúa; ông vẫn
giơ tay cầu nguyện trong khi các anh em của ông chiến đấu trong thung lũng bên
dưới (Xh 17, 8-16). Mang những cuộc đấu tranh của người dân đến trước mặt Chúa
trong lời cầu nguyện, nhận sự tha thứ cho họ, thực hiện sự hòa giải như những
kênh của lòng thương xót Chúa: đây là nhiệm vụ của chúng ta với tư cách là những
người chuyển cầu.
Kết
thúc bài diễn văn, Đức Thánh Cha cám ơn các giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng
sinh và giáo lý viên vì những gì “anh chị em làm giữa rất nhiều thử thách và
đau khổ. Thay mặt cho toàn thể Giáo hội, cám ơn anh chị em về sự cống hiến, cam
đảm, sự hy sinh và sự kiên nhẫn. Anh chị em thân mến, tôi ước mong anh chị em
luôn là những mục tử và chứng nhân quảng đại, được trang bị chỉ bằng lời cầu
nguyện và bác ái; anh chị em hãy để cho mình không ngừng ngạc nhiên trước ân sủng
Chúa; và trở thành một phương tiện cứu rỗi cho những người khác, những ngôn sứ
của sự gần gũi đồng hành với mọi người, những người chuyển cầu với những cánh
tay giơ cao.”
Buổi
gặp gỡ kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành của Đức Thánh Cha.
Nguồn: vaticannews.va/vi
------------
NGÀY 03.02.2023
Lúc 23:00 (Giờ Việt Nam)
ĐỨC THÁNH CHA GẶP GỠ CÁC LÃNH ĐẠO CHÍNH QUYỀN VÀ
DÂN SỰ CỦA NAM SUDAN
Hồng Thủy - Vatican News
Vatican News (03.02.2023) – Đức Thánh Cha kêu gọi các nhà lãnh đạo của Nam Sudan dừng đổ máu, đừng biến nước này thành nghĩa trang nhưng hãy giúp nó trở lại là ngôi vườn xinh đẹp.
Sau khi viếng thăm xã giao Tổng thống và các Phó Tổng thống của Cộng hoà Nam Sudan, Đức Thánh Cha đã đến hoa viên của Dinh Tổng thống để gặp gỡ các cấp chính quyền, xã hội dân sự của Nam Sudan và ngoại giao đoàn tại nước này.
Khoảng 250 người gồm các lãnh đạo chính trị và
tôn giáo, các nhân vật ngoại giao và các đại diện xã hội dân sự đã hiện diện để
chào đón Đức Thánh Cha.
Cùng Đức Thánh Cha đến thăm Nam Sudan có Tổng
Giám mục Anh giáo Justin Welby của Canterbury và vị Điều hành Đại Hội đồng Giáo
hội Scotland.
Sau bài nói chuyện của Tổng thống Nam Sudan,
trong bài diễn văn của mình, Đức Thánh Cha kêu gọi các vị lãnh đạo của Nam
Sudan hãy là những nguồn nước mát tưới cho đất nước khô cằn vì bạo lực và xung
đột. Ngài kêu gọi đừng đổ máu, dừng bạo lực, thôi phá huỷ và nhất là chống nạn
tham nhũng.
ĐTC gặp gỡ
các cấp chính quyền, xã hội dân sự của Nam Sudan và ngoại giao đoàn
Cuộc hành hương vì hòa giải và hoà bình
Đức Thánh Cha khẳng định ngay từ đầu rằng ngài đến
Nam Sudan "như một người hành hương hòa giải, với ước mơ được đồng hành với
quý vị trên con đường dẫn đến hòa bình, một con đường cong queo nhưng không thể
trì hoãn được nữa. Và ngài nói rằng ngài bắt đầu cuộc hành hương đại kết
vì hòa bình này sau khi nghe thấy "tiếng kêu của cả một dân tộc
đang than khóc vì bạo lực mà họ phải gánh chịu, vì tình trạng thiếu an ninh kéo
dài, vì sự nghèo đói tấn công họ và những thảm họa thiên nhiên hoành
hành."
Từ hình ảnh sông Nile, con sông dài nhất thế giới,
cũng chảy qua Nam Sudan, với những nguồn mạch của nó, Đức Thánh Cha suy tư về
những nguồn suối tươi mới và đầy sức sống để tưới mát lại cho đất nước Nam
Sudan bị khô cằn vì xung đột và chiến tranh.
ĐTC gặp gỡ
các cấp chính quyền, xã hội dân sự của Nam Sudan và ngoại giao đoàn
Lời kêu gọi các nhà lãnh đạo
Trước hết, theo Đức Thánh Cha, các nhà lãnh đạo
chính là những nguồn suối này, "những nguồn suối tưới mát sự chung sống,
những người cha, người mẹ của đất nước non trẻ này." Ngài nói:
"Quý vị được kêu gọi tái tạo đời sống xã hội, như những nguồn thịnh vượng
và hòa bình trong lành, bởi vì người dân Nam Sudan cần điều này: cần những người
cha chứ không cần những ông chủ; cần những bước phát triển ổn định chứ không cần
sự sa sút không ngừng."
Đừng đổ máu nữa!
Để Nam Sudan không bị biến thành một nghĩa
trang, mà trở lại là một khu vườn tươi tốt, Đức Thánh Cha cầu xin các vị lãnh đạo
chấp nhận một lời đơn giản, của Chúa Kitô. Đó là "đừng đổ máu nữa, đừng
xung đột nữa, bạo lực và buộc tội lẫn nhau chống lại những người phạm tội đã đủ
rồi, đừng để người dân phải đói khát hòa bình nữa. Phá hủy đã đủ rồi, đã đến
lúc xây dựng! Hãy bỏ lại đàng sau thời gian chiến tranh và để thời gian hòa
bình bừng lên!"
ĐTC gặp gỡ
các cấp chính quyền, xã hội dân sự của Nam Sudan và ngoại giao đoàn
Quyền hành là để phục vụ cộng đồng
Tiếp đến, nói về tên gọi Cộng hoà của Nam Sudan,
nghĩa là thừa nhận quốc gia là một thực tại chung, của mọi người và mọi người đều
có trách nhiệm chủ trì và điều hành, vì công ích. Và Đức Thánh Cha khẳng định:
"Mục đích của quyền hành là để phục vụ cộng đồng." Ngài cảnh giác về
cám dỗ dùng quyền lực để mưu ích riêng và nói rằng cần thực sự mang tính cộng
hoà, "bắt đầu từ những thiện ích chính yếu: nguồn tài nguyên dồi dào mà
Chúa đã ban cho miền đất này không để dành riêng cho một số ít người, mà là gia
sản của tất cả mọi người, và các kế hoạch phục hồi kinh tế phải tương ứng với
các dự án để phân phối của cải một cách công bằng."
Cổ võ dân chủ
Sự phát triển của một nền dân chủ lành mạnh là nền
tảng cho sự tồn tại của một nền Cộng hòa. Đức Thánh Cha giải thích rằng dân chủ
bảo về sự phân biệt đúng đắn về các quyền lực; nó cũng bao gồm việc tôn trọng
nhân quyền, đặc biệt là quyền tự do bày tỏ ý kiến của mình.
Cùng nhau
Đức Thánh Cha nói rằng đã đến lúc biến lời nói
thành hành động, đến lúc dấn thân thực hiện một sự biến đổi khẩn
cấp và cần thiết. Ngài nói: "Chúng ta hãy hiểu nhau và thực hiện Thỏa thuận
hòa bình, cũng như Lộ trình! Trong một thế giới đầy chia rẽ và xung
đột, đất nước này tổ chức một cuộc hành hương đại kết vì hòa bình, một điều hiếm
có; nó là một sự thay đổi đường hướng, một cơ hội để Nam Sudan bắt
đầu chèo thuyền trở lại trong vùng nước lặng, nối lại đối thoại, không có sự giả
hình và chủ nghĩa cơ hội. Ước gì đây là cơ hội để mọi người làm sống lại
niềm hy vọng: ước gì mỗi người dân hiểu rằng không còn thời gian để mình bị
cuốn theo dòng nước không lành mạnh của hận thù, của chủ nghĩa bộ tộc, chủ
nghĩa vùng miền và khác biệt sắc tộc; đã đến lúc cùng nhau chèo
thuyền hướng tới tương lai!"
ĐTC gặp gỡ
các cấp chính quyền, xã hội dân sự của Nam Sudan và ngoại giao đoàn
Gặp gỡ
Sông Nile Trắng, với dòng nước thật trong, được
tạo thành bởi sự hợp lưu của sông Nile với một dòng sông khác ở Hồ No. Nói cách
khác, nó phát sinh từ một cuộc gặp gỡ. Từ đó, Đức Thánh Cha nhận định
rằng "nếu đằng sau mọi bạo lực là sự tức giận và oán giận, và đằng sau mọi
tức giận và oán giận là ký ức chưa lành về những vết thương, sự sỉ nhục và sai
trái, thì cách duy nhất để thoát khỏi điều này là gặp gỡ: đón nhận người khác
như anh em và dành chỗ cho họ, ngay cả khi nó có nghĩa là lùi lại phía sau.
Thái độ này, cần thiết cho các tiến trình hòa bình, cũng không thể thiếu cho sự
phát triển gắn kết của xã hội."
Vai trò của người trẻ và phụ nữ
Đức Thánh Cha kêu gọi dành không gian cho người
trẻ để họ hành động cho tương lai. Ngài cũng kêu gọi cho phụ nữ được tham gia
nhiều hơn vào các tiến trình chính trị và ra quyết định. "Các phụ nữ cần
được tôn trọng, vì ai bạo hành phụ nữ là xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng đã nhận
lấy thân thể từ một người phụ nữ."
Tiếp tục bài diễn văn, Đức Thánh Cha kêu gọi quốc
gia trẻ trung Nam Sudan khám phá lại mầu nhiệm của sự gặp gỡ, ân sủng của tập
thể. "Chúa Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, đã dạy chúng ta rằng chúng ta càng trở
nên bé nhỏ, dành chỗ cho người khác và đón nhận mọi người lân cận như anh chị
em, thì chúng ta càng trở nên vĩ đại hơn trước mắt Chúa." "Chúng ta cần
nhìn vượt trên các nhóm và sự khác biệt để bước đi như một dân tộc duy nhất,
trong đó, như đã xảy ra với sông Nile, các nhánh khác nhau mang lại sự phong
phú." Đặc biệt Đức Thánh Cha kêu gọi đảm bảo sự an ninh cần thiết cho các
nhà hoạt động cứu trợ nhân đạo và để công việc của họ được hỗ trợ cần thiết.
ĐTC gặp gỡ
các cấp chính quyền, xã hội dân sự của Nam Sudan và ngoại giao đoàn
Bảo vệ thiên nhiên
Nói về những thảm kịch thiên nhiên, Đức Thánh
Cha nói về thiên nhiên bị thương tích và tàn phá, và từ chỗ là nguồn sống có thể
trở thành mối đe doạ chết chóc, như gây nên lũ lụt. Ngài mời gọi phải quan tâm
đến thiên nhiên và nghĩ đến tương lai và các thế hệ mai sau. Đặc biệt ngài nói
rằng cần chống lại nạn phá rừng do lòng tham lợi nhuận gây ra.
Chống tham nhũng
Một lần nữa, dùng hình ảnh làm sạch lòng sông để
tránh lũ lụt, Đức Thánh Cha nói rằng đời sống xã hội Nam Sudan cũng cần được tẩy
rửa bằng cuộc chiến chống tham nhũng. Ngài nói: "Sự phân phối
các nguồn quỹ không công bằng, những kế hoạch bí mật để làm giàu, những thỏa
thuận bảo trợ, sự thiếu minh bạch: tất cả những điều này làm ô nhiễm lòng sông
của xã hội loài người, khiến cho những nơi cần nhất lại thiếu các nguồn lực.
Trước hết, cần phải chống lại sự nghèo đói, là mảnh đất màu mỡ mà hận thù, chia
rẽ và bạo lực bén rễ trong đó. Nhu cầu cấp bách của một quốc gia văn minh là
quan tâm đến công dân của mình, đặc biệt là những người yếu đuối và thiệt thòi
nhất."
Kiểm soát vũ khí
Một hình ảnh tượng trưng khác là những bờ kè
ngăn lũ lụt do sông gây nên, Đức Thánh Cha nói rằng trong đời sống con người
cũng cần những bờ kè. "Trước hết, cần phải kiểm soát dòng vũ khí mà bất chấp
lệnh cấm, vẫn tiếp tục đến nhiều quốc gia trong khu vực và cả ở Nam Sudan: ở
đây cần nhiều thứ, nhưng chắc chắn không phải là cần thêm những công cụ giết
người khác." Còn có các bờ kè khác cần thiết như việc phát triển các chính
sách y tế đầy đủ, nhu cầu về cơ sở hạ tầng quan trọng và đặc biệt là mục tiêu
quan trọng của việc xóa mù chữ và giáo dục.
ĐTC gặp gỡ
các cấp chính quyền, xã hội dân sự của Nam Sudan và ngoại giao đoàn
Hợp tác quốc tế
Như "sông Nile Trắng rời Nam Sudan, đi qua
các quốc gia khác, hợp với sông Nile Xanh rồi đổ ra biển. Những dòng sông không
có biên giới; chúng kết nối các lãnh thổ khác nhau," Đức Thánh Cha nói rằng
để đạt được sự phát triển phù hợp, hơn bao giờ hết, điều cần thiết là phải thúc
đẩy các mối quan hệ tích cực với các quốc gia khác, bắt đầu từ những quốc gia
trong khu vực. Ngài cảm ơn sự đóng góp quý báu của cộng đồng quốc tế đối với đất
nước này, và tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với những nỗ lực nhằm thúc đẩy hòa giải
và phát triển. Nhưng kêu gọi một cách tiếp cận trực tiếp và đặc biệt là không
áp đặc các mô hình có sẵn nhưng không phù hợp với thực tế địa phương.
Đức Thánh Cha cũng chân thành chia sẻ rằng một số
điều ngài đã nói có vẻ thẳng thừng và trực tiếp. Ngài xin họ hiểu rằng nó xuất
phát từ tình cảm và sự quan tâm mà ngài dành cho cuộc sống của Nam Sudan, nơi
ngài cùng với những người anh em đến viếng thăm như một người hành hương của
hòa bình.
Cầu nguyện cho Nam Sudan
Và kết thúc bài diễn văn, Đức Thánh Cha nói:
"Chúng tôi muốn gửi đến quý vị những lời cầu nguyện chân thành và sự hỗ trợ
của chúng tôi để Nam Sudan có thể trải nghiệm sự hòa giải và thay đổi đường hướng.
Cầu mong con đường sống còn của nó không còn bị lũ lụt bạo lực lấn át, không
còn bị sa lầy trong đầm lầy tham nhũng và bị ngăn chặn bởi sự tràn ngập của
nghèo đói. Xin Chúa Trời, Đấng yêu thương mảnh đất này, ban cho nước này một
mùa bình an và thịnh vượng mới. Xin Chúa phù hộ cho Cộng hòa Nam Sudan!"
Kết thúc cuộc gặp gỡ Đức Thánh Cha trở về Toà Sứ
thần cách đó 2 km dùng bữa tối và nghỉ ngơi.
Nguồn: vaticannews.va/vi
-------------
BẢN TIN CHIỀU THỨ SÁU 3/2/2023