Trên thềm đền thờ, hai bên bàn thờ là khu vực dành riêng cho hàng trăm Hồng Y và Giám Mục. Một bức tranh thảm lớn có hình của thánh Gioan Maria Vianney, bổn mạng của các cha sở trong Giáo Hội, được treo tại bao lớn chính của Đền thờ Thánh Phêrô.

Bầu trời nắng chang chang như giữa mùa hè. Nhiều vị đồng tế dùng nón, dùng dù để che nắng. Tại buổi lễ này, dường như giáo dân ít hơn các linh mục.

Trong bài giảng, sau khi nhắc đến sự cao cả và vẻ đẹp của chức linh mục mà thánh Cha Sở họ Ars thường nhắc nhở chúng ta, đặc biệt trong Năm Linh mục này. Sau đây là toàn văn bài giảng của Đức Thánh Cha:

THÁNH LỄ BẾ MẠC NĂM THÁNH LINH MỤC

ĐỨC GIÁO HOÀNG BÊNÊĐICTÔ XVI

BÀI GIẢNG

Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu

Quảng trường Thánh Phêrô

Thứ Sáu, ngày 11/6/2010

[Đa phương tiện]

Anh em linh mục thân mến,

Anh chị em thân mến,

Đã sắp kết thúc Năm thánh Linh mục mà chúng ta đã cử hành nhân dịp kỷ niệm 150 năm ngày qua đời của Thánh Gioan Vianney – Cha sở họ Ars, mẫu gương của thừa tác vụ linh mục trong thế giới hôm nay. Trong suốt năm qua, chúng ta đã để thánh nhân dẫn dắt, giúp chúng ta tái khám phá một cách sâu xa hơn vẻ cao cả và nét đẹp huy hoàng của thừa tác vụ linh mục. Linh mục không chỉ là người đảm nhiệm một chức vụ, như vẫn thấy trong các cơ cấu xã hội vốn cần thiết để vận hành. Trái lại, linh mục thực hiện điều mà không một con người nào có thể tự mình làm được, đó là nhân danh Chúa Kitô, linh mục công bố lời xá giải các tội của nhân loại chúng ta, và nhờ đó, khởi đi từ Thiên Chúa, linh mục biến đổi toàn bộ đời sống nhân loại chúng ta. Trên lễ vật bánh và rượu, linh mục đọc những lời tạ ơn của Đức Kitô – lời mang quyền năng biến đổi bản thể – những lời làm cho chính Đức Kitô, Đấng Phục Sinh, chính Thân Mình và Máu Người hiện diện; lời ấy biến đổi các yếu tố trần thế, làm cho thế giới được mở ra đón nhận Thiên Chúa và kết hợp thế giới với Ngài. Như thế, chức linh mục không đơn thuần là một “chức vụ”, mà là một bí tích: Thiên Chúa dùng đến chúng ta – những con người mọn hèn – để qua chúng ta, Ngài hiện diện giữa con người và Ngài hành động vì phần rỗi của họ. Sự “liều lĩnh” của Thiên Chúa, Đấng tự phó thác chính Ngài cho con người – Đấng, dù thấu rõ sự yếu đuối của chúng ta, vẫn xem con người là những người có khả năng hành động và hiện diện thay cho Ngài – chính sự liều lĩnh này là vẻ cao cả đích thực ẩn giấu nơi từ “chức linh mục”. Việc Thiên Chúa tin tưởng chúng ta có thể đảm nhận điều ấy; việc Ngài kêu gọi con người cộng tác vào sứ vụ của Ngài và và do đó từ bên trong Ngài ràng buộc Ngài với họ – đó là điều mà chúng ta đã chiêm niệm và một lần nữa đề cao trong suốt năm qua. Chúng ta muốn đánh thức lại niềm vui vì sự gần gũi của Thiên Chúa, và lòng tri ân vì Ngài phó thác chính Ngài nơi sự yếu đuối của chúng ta; vì Ngài hằng hướng dẫn và nâng đỡ chúng ta mỗi ngày. Qua đó, chúng ta cũng muốn một lần nữa làm chứng cho các bạn trẻ thấy rằng: Ơn gọi này, mối tương quan phục vụ cho Thiên Chúa và với Thiên Chúa này, thật sự tồn tại – và chính Thiên Chúa vẫn đang chờ đợi lời thưa “vâng” của chúng ta.

Cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta cũng muốn một lần nữa minh định rằng: chúng ta phải cầu xin Thiên Chúa ban thêm những ơn gọi ấy. Chúng ta phải tha thiết nài xin Thiên Chúa sai những thợ gặt đến cánh đồng của Ngài; và chính lời khẩn cầu này, đồng thời, lại là cách thức Thiên Chúa gõ cửa trái tim của các bạn trẻ – những người cảm thấy mình có khả năng thực hiện điều mà Thiên Chúa biết họ có thể đảm đương. Thật không ngạc nhiên khi ánh sáng mới toả ra từ chức linh mục thì không làm vừa lòng “kẻ thù”; hắn muốn ánh sáng ấy tắt ngúm, để rồi Thiên Chúa bị loại trừ khỏi thế giới. Và quả vậy, chính trong năm tràn đầy niềm vui này đối với Bí tích Truyền chức thánh, tội lỗi của một số linh mục đã bị đưa ra ánh sáng – đặc biệt là những hành vi lạm dụng đối với trẻ vị thành niên, nơi đó, chức linh mục – lẽ ra phải là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa quan tâm đến sự thiện hảo của con người – lại trở nên hoàn toàn trái ngược. Chúng ta cũng khẩn thiết cầu xin sự tha thứ từ Thiên Chúa và từ các nạn nhân, đồng thời long trọng cam kết thực hiện mọi biện pháp cần thiết để những hành vi ấy không bao giờ được phép tái diễn. Trong việc đón nhận các ứng sinh vào thừa tác vụ linh mục và trong suốt tiến trình đào tạo, chúng ta sẽ làm hết sức để phân định tính xác thực của ơn gọi, cũng như đồng hành với các linh mục trên hành trình của họ, để Chúa bảo vệ và nâng đỡ họ trong những hoàn cảnh gian nan và giữa muôn vàn hiểm nguy của cuộc sống.

Nếu năm Linh mục chỉ là sự tôn vinh khả năng cá nhân của con người, thì tất cả những biến cố vừa qua hẳn đã làm cho năm ấy trở nên vô nghĩa. Thế nhưng, đối với chúng ta, điều xảy đến lại hoàn toàn ngược lại: chúng ta đã thăng tiến một tâm tình biết ơn sâu xa đối với hồng ân của Thiên Chúa – một hồng ân được chứa đựng trong “những bình sành dễ vỡ” (x. 2 Cr 4,7), và luôn luôn, ngay cả giữa sự yếu đuối của con người, vẫn làm cho tình yêu của Thiên Chúa trở nên hiện diện cách cụ thể trong thế gian này. Vì thế, chúng ta hãy đón nhận tất cả những gì đã xảy ra như một lời mời gọi thanh luyện; như một sứ mạng mà chúng ta mang theo hướng về tương lai, và nhờ đó, chúng ta biết nhận ra và thêm lòng yêu mến hồng ân cao cả mà mình đã lãnh nhận từ Thiên Chúa. Như thế, hồng ân ấy trở nên một đòi hỏi: mời gọi chúng ta đáp lại sự can đảm và khiêm hạ của Thiên Chúa bằng chính lòng can đảm và khiêm hạ của chúng ta. Vào chính giờ phút này, Lời Chúa mà chúng ta đã hát lên trong câu dẫn vào Thánh lễ của phụng vụ hôm nay có thể nói với chúng ta về ý nghĩa của việc trở thành và sống tư cách linh mục: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29).

Hôm nay, chúng ta cử hành lễ trọng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Và trong phụng vụ, chúng ta được chiêm ngắm Trái tim Chúa Giêsu, Trái tim đã bị đâm thâu bởi ngọn giáo của người lính Rôma khi Người đã chết. Thật vậy, Trái tim Chúa Giêsu đã được mở ra vì chúng ta và trước mặt chúng ta – và như thế, chính Trái tim Thiên Chúa đã được tỏ lộ. Phụng vụ giải thích cho chúng ta ngôn ngữ của Trái tim Chúa Giêsu; và Trái tim ấy nói với chúng ta, trước hết và trên hết, rằng Thiên Chúa là mục tử của nhân loại. Điều ấy cũng mặc khải cho chúng ta thấy cội rễ chức linh mục của Chúa Giêsu, được in khắc tận sâu thẳm trong Trái tim Người; đồng thời, điều ấy cũng bày tỏ nền tảng vững chắc và là tiêu chuẩn sống động cho mọi thừa tác vụ linh mục – một thừa tác vụ luôn phải bén rễ nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu và phải được thực thi khởi đi từ chính Thánh Tâm ấy.

Hôm nay, tôi muốn đặc biệt suy niệm về những bản văn phụng vụ mà Hội thánh cất lên như lời đáp lại đối với Lời Chúa được công bố trong các bài đọc. Trong những bài thánh ca ấy, “lời” (Wort) và “đáp lời” (Antwort) thấm nhập và hòa quyện vào nhau. Một mặt, các bài ca này được rút từ chính Lời Chúa; nhưng mặt khác, chúng đồng thời cũng là lời đáp trả của con người, trong đó Lời được tiếp nhận, cất lên và đi vào cuộc sống. Bản văn trung tâm trong phụng vụ hôm nay là Thánh vịnh 23 (22): “Chúa là mục tử chăn dắt tôi” – nơi đó, dân Ítraen cầu nguyện để đón nhận mặc khải về Thiên Chúa như là vị Mục tử, và lấy đó làm kim chỉ nam cho đời sống của mình. “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” – câu mở đầu này diễn tả niềm vui và lòng tri ân vì sự hiện diện ân cần của Thiên Chúa đối với chúng ta. Bài đọc trích sách Êdêkien cũng mở đầu với chủ đề ấy: “Chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm” (Ed 34,11). Chính Thiên Chúa chăm sóc tôi, chăm sóc chúng ta, chăm sóc toàn thể nhân loại. Tôi không bị bỏ rơi, không trôi dạt giữa vũ trụ và trong một xã hội ngày càng khiến tôi trở nên lạc lõng và hoang mang. Thiên Chúa chăm sóc tôi. Ngài không phải là một vị thần xa lạ, một vị thần mà cuộc sống của tôi chẳng là gì cả đối với vị thần ấy. Các tôn giáo trên thế giới, trong mức độ hiểu biết của chúng ta, từ ngàn xưa vẫn luôn thừa nhận rằng suy cho cùng chỉ có một Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa ấy vẫn là một Đấng xa vời. Dường như Ngài đã phó mặc thế giới này cho những quyền lực và thần linh khác. Chính với những thế lực thần linh ấy mà con người phải đối mặt. Vị thần duy nhất kia có thể là Đấng tốt lành, nhưng lại cách biệt, không nguy hiểm, và cũng không mấy hữu ích. Vì thế, người ta cảm thấy không cần phải bận tâm đến vị Thiên Chúa ấy. Người không áp đặt uy quyền trên họ. Điều lạ lùng là lối suy nghĩ này lại xuất hiện trở lại trong thời đại Khai sáng. Khi ấy, người ta vẫn còn nhìn nhận rằng thế giới cần phải có một Đấng Tạo Hóa. Thế nhưng, vị Thiên Chúa này – sau khi sáng tạo vũ trụ – dường như đã rút lui khỏi thế giới. Vũ trụ được điều hành bởi một hệ thống quy luật riêng, và Thiên Chúa không – và không thể – can thiệp vào đó. Thiên Chúa trở thành một nguyên nhân xa vời. Nhiều người có lẽ thậm chí không mong Thiên Chúa quan tâm đến họ. Họ không muốn Ngài “can dự” vào cuộc đời mình. Nhưng ở bất cứ nơi đâu mà tình yêu chăm sóc của Thiên Chúa bị xem là một điều gây trở ngại, thì con người sẽ lạc hướng. Thật là một điều an ủi và dịu ngọt khi biết rằng có Đấng yêu thương và chăm sóc tôi. Nhưng còn quan trọng hơn nữa: có một Thiên Chúa biết tôi, yêu tôi và quan tâm đến tôi. Trong lời Tung hô Tin mừng, Hội thánh lặp lại chính Lời của Chúa: “Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta” (Ga 10,14). Thiên Chúa biết tôi, Ngài lưu tâm đến tôi. Tư tưởng này phải trở nên niềm vui đích thực cho chúng ta. Hãy để cho niềm xác tín ấy thấm sâu vào tận cõi lòng chúng ta. Và từ đó, chúng ta cũng nhận ra điều hệ trọng này: Thiên Chúa muốn chúng ta – trong tư cách linh mục – trong một khoảnh khắc rất nhỏ bé của lịch sử, được hiệp thông với chính nỗi ưu tư mục tử của Ngài dành cho con người. Là linh mục, chúng ta được mời gọi trở thành những người mang trong mình nỗi thao thức của Thiên Chúa dành cho mỗi con người nam nữ – thành những người chăm sóc họ và giúp họ cảm nghiệm cách cụ thể sự quan tâm yêu thương của Thiên Chúa. Dù lĩnh vực hoạt động được trao phó là gì, linh mục, cùng với Chúa, có thể nói: “Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi”. Trong ngôn ngữ của Kinh thánh, “biết” không chỉ mang nghĩa hiểu biết bên ngoài, như biết một số điện thoại. “Biết” nghĩa là nên một trong tương quan nội tâm, là bước vào sự gần gũi thẳm sâu với người khác – nghĩa là yêu thương họ. Chúng ta phải nỗ lực để “biết” mỗi con người nam nữ như Thiên Chúa biết họ, và vì Ngài mà yêu họ; chúng ta phải tìm cách đồng hành với họ trên hành trình của tình bạn với Thiên Chúa.

Chúng ta hãy trở lại với Thánh vịnh. Trong đó, chúng ta đọc thấy: “Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (Tv 23[22],3 tt.). Người Mục tử chỉ cho đoàn chiên của mình con đường ngay chính. Người đi phía trước và dẫn dắt chúng. Nói cách khác, Chúa chỉ cho chúng ta con đường đúng đắn để trở nên con người thật sự. Người dạy chúng ta nghệ thuật sống làm người. Tôi phải sống thế nào để khỏi vấp ngã, khỏi hoang phí cuộc đời trong vô nghĩa? Đây chính là câu hỏi mà mọi người nam nữ đều phải đặt ra – và là câu hỏi luôn luôn còn đó trong suốt cuộc đời. Biết bao bóng tối bao phủ quanh câu hỏi này trong thời đại chúng ta! Chúng ta liên tục nhớ đến lời Chúa Giêsu, Đấng chạnh lòng thương đoàn lũ đông đảo, bởi vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con nữa! Xin chỉ đường cho chúng con! Từ Tin mừng, chúng ta biết điều cốt yếu này: chính Người là con đường. Sống với Đức Kitô, bước theo Người – đó là tìm thấy con đường đúng, để đời sống chúng ta có ý nghĩa, và để đến một ngày, ta có thể nói: “Vâng, sống như thế là đáng sống.” Dân Ítraen mãi mãi tạ ơn Thiên Chúa, bởi vì trong các điều răn, Ngài đã chỉ cho họ con đường dẫn đến sự sống. Thánh vịnh vĩ đại 119 (118) là một lời ca độc đáo chất chứa niềm vui vì sự kiện ấy: chúng ta không còn mò mẫm trong bóng tối. Thiên Chúa đã chỉ cho chúng ta con đường và cách thế bước đi cho ngay thẳng. Sứ điệp của các giới răn đã được cô đọng lại trong đời sống của Chúa Giêsu và trở thành mẫu gương sống động. Nhờ đó, chúng ta hiểu rằng các quy luật từ nơi Thiên Chúa không phải là xiềng xích, nhưng là chính con đường mà Ngài chỉ cho chúng ta. Chúng ta có thể vui mừng vì những giới răn ấy, và hân hoan vì nơi Đức Kitô, các giới răn ấy hiện diện như một hiện thực sống động. Chính Người đã làm cho lòng chúng ta vui mừng. Khi bước đi với Đức Kitô, chúng ta cảm nghiệm được niềm vui của Mặc khải. Và là linh mục, chúng ta cần thông truyền cho người khác chính niềm vui của chúng ta – vì chúng ta đã được chỉ cho thấy con đường đúng để sống.

Tiếp theo là câu nói về “lũng âm u” (thung lũng tối) mà Chúa dẫn chúng ta đi qua. Con đường đời mỗi người rồi sẽ dẫn đến thung lũng của bóng tối sự chết, nơi mà không ai có thể đồng hành với ta. Nhưng chính Người sẽ hiện diện ở đó. Chính Đức Kitô đã đi xuống đêm đen của cái chết. Ngay cả ở nơi ấy, Người cũng không bỏ rơi ta. Ngay cả ở nơi ấy, Người vẫn dẫn dắt ta. Thánh vịnh 139 (138) nói: “Giả như con nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài.” Thật vậy, ngay cả trong cơn hấp hối của cái chết, Chúa vẫn hiện diện. Vì thế, Thánh vịnh đáp ca hôm nay có thể cất lên lời xác tín: ngay cả trong lũng âm u, con cũng không sợ gì nguy khốn. Khi nhắc đến “lũng âm u”, ta cũng có thể liên tưởng đến những thung lũng đen tối của cám dỗ, chán nản, thử thách – những nẻo đường mà ai trong chúng ta cũng phải bước qua. Ngay cả trong những bóng tối ấy của cuộc đời, Chúa cũng hiện diện. Lạy Chúa, trong bóng tối của cám dỗ, vào giờ chạng vạng khi mọi ánh sáng dường như tắt lịm, xin cho con nhận ra rằng Chúa đang ở đó. Xin trợ giúp chúng con, các linh mục của Chúa, để chúng con có thể ở lại bên cạnh những người được Chúa trao phó cho chúng con trong những đêm tối của cuộc đời họ. Để chúng con có thể chỉ cho họ thấy chính ánh sáng của Chúa.

“Cây roi và cây gậy (côn trượng) của Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm”: người mục tử cần có cây roi để bảo vệ đoàn chiên khỏi dã thú đang rình rập, khỏi bọn cướp tìm mồi. Bên cạnh cây roi còn có cây gậy mục tử – cây gậy nâng đỡ và giúp vượt qua những chặng đường khó khăn. Cả hai đều là biểu tượng cho sứ vụ của Hội thánh, cho sứ vụ linh mục. Hội thánh cũng phải sử dụng “cây roi” mục tử – cây roi để bảo vệ đức tin khỏi những ai xuyên tạc, khỏi các trào lưu có thể lạc hướng đoàn chiên. Việc sử dụng cây roi này, thực chất, có thể là một việc phục vụ vì yêu thương. Ngày nay, ta thấy rằng, không thể gọi là yêu thương nếu ta dung túng những lối sống không xứng hợp với bậc sống linh mục. Cũng không thể gọi là yêu thương nếu ta để mặc cho lạc giáo lan tràn, để đức tin bị bóp méo và xói mòn – như thể đức tin chỉ là sản phẩm do con người tạo ra, chứ không còn là hồng ân từ Thiên Chúa, là viên ngọc quý mà ta không thể để bị cướp mất. Tuy vậy, cây roi cũng luôn phải được biến đổi thành cây gậy của mục tử – cây gậy giúp con người vượt qua những nẻo đường gian nan và bước theo Chúa.

Ở phần cuối của Thánh vịnh, ta đọc thấy hình ảnh bàn tiệc được dọn sẵn, dầu xức trên đầu, chén rượu chan chứa, và việc được ở lại trong nhà Chúa. Trong Thánh vịnh, điều này trước hết là lời diễn tả niềm vui tươi lễ hội khi được hiện diện trước nhan Thiên Chúa trong đền thánh, được làm khách của Ngài, được chính Ngài phục vụ, và được cư ngụ trong nhà Ngài. Còn đối với chúng ta – những người cầu nguyện Thánh vịnh này với Đức Kitô và trong thân mình Người là Hội thánh – viễn tượng hy vọng ấy còn mang một chiều sâu và chiều kích rộng lớn hơn nữa. Trong những lời ấy, ta đọc được một mặc khải tiên báo về mầu nhiệm Thánh Thể, nơi đó, chính Thiên Chúa biến ta thành khách mời của Ngài, và Ngài tự hiến chính mình như lương thực – như bánh và rượu quý – vốn là của ăn duy nhất có thể làm thỏa mãn triệt để cơn đói khát của con người. Làm sao chúng ta lại không vui mừng khi nghĩ rằng một ngày nào đó, ta sẽ được làm khách thực sự trong bàn tiệc của Thiên Chúa và cư ngụ trong chính nhà Ngài? Làm sao ta không hân hoan khi biết rằng chính Ngài đã truyền dạy: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”? Làm sao ta không hân hoan khi biết rằng Ngài đã cho phép chúng ta dọn bàn tiệc của Thiên Chúa cho nhân loại, trao ban cho họ Mình và Máu Ngài, ban tặng cho họ hồng ân quý giá là chính sự hiện diện của Ngài? Thật vậy, với tất cả tâm hồn, chúng ta có thể cùng nhau cất lời Thánh vịnh: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời” (Tv 23[22],6).

Sau cùng, chúng ta hãy dừng lại đôi chút nơi hai câu điệp ca hiệp lễ mà phụng vụ Hội thánh trao ban trong ngày lễ hôm nay. Trước tiên là lời kết thúc của Thánh Gioan trong trình thuật cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu: “Một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra” (Ga 19,34). Trái tim Chúa Giêsu bị ngọn giáo đâm thâu. Một khi được mở ra, trái tim ấy trở nên một suối nguồn: máu và nước tuôn trào, nhắc nhớ đến hai bí tích nền tảng làm nên sự sống của Hội thánh: Bí tích Rửa tội và Bí tích Thánh Thể. Từ cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa, từ trái tim mở rộng của Người, phát xuất một nguồn suối hằng sống, vẫn tiếp tục tuôn chảy qua các thế kỷ và làm nên Hội thánh. Trái tim mở ra ấy chính là nguồn mạch của một dòng nước sự sống mới. Chắc chắn ở đây Thánh Gioan cũng muốn gợi lại lời tiên báo của ngôn sứ Êdêkien, người đã được thị kiến thấy từ ngôi đền thờ mới tuôn ra một dòng nước mang lại sự phong nhiêu và sự sống (x. Ed 47). Chính Chúa Giêsu là Đền Thờ mới, và trái tim bị đâm thâu của Người là suối nguồn của một dòng nước sự sống mới, được ban cho chúng ta trong Bí tích Rửa tội và Bí tích Thánh Thể.

Phụng vụ lễ trọng Thánh Tâm Chúa Giêsu còn cho phép sử dụng một câu điệp ca hiệp lễ khác, có nội dung tương tự. Câu này được trích từ Tin mừng theo Thánh Gioan: “Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (x. Ga 7,38). Trong đức tin, chúng ta được “uống” dòng nước hằng sống của Lời Thiên Chúa. Nhờ đó, người tín hữu trở nên như một mạch suối, có thể tuôn đổ nước hằng sống trên vùng đất khô cằn của lịch sử. Chúng ta thấy điều ấy nơi các thánh. Chúng ta thấy điều ấy nơi Mẹ Maria – người nữ vĩ đại của đức tin và tình yêu – người mà qua mọi thế hệ vẫn trở nên suối nguồn của đức tin, của tình yêu và sự sống. Mỗi Kitô hữu, và mỗi linh mục, cũng được mời gọi – khởi đi từ Đức Kitô – trở nên một mạch nguồn thông ban sự sống cho tha nhân. Chúng ta phải trở nên những người mang nước hằng sống đến cho một thế giới khô khát và đang cháy bỏng vì khát mong. Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì đã mở trái tim Chúa ra cho chúng con; vì trong cái chết và sự phục sinh của Chúa, Chúa đã trở thành nguồn mạch sự sống. Xin ban cho chúng con sự sống, cho chúng con sống sự sống được kín múc từ Chúa là nguồn sống của chúng con, và xin cho chính chúng con cũng trở thành suối nguồn sự sống – những suối nguồn có khả năng trao ban dòng nước sự sống cho thời đại chúng con. Chúng con cảm tạ Chúa vì hồng ân của chức vụ linh mục. Lạy Chúa, xin chúc lành cho chúng con, và cho tất cả những ai hôm nay vẫn còn khát khao và tiếp tục đi tìm. Amen.