Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 3 mùa Vọng năm A (11/12/2022) - Sự hồ nghi đôi khi cần thiết cho sự phát triển thiêng liêng
Anh chị em thân mến, chúc Chúa Nhật tốt lành!
Tin Mừng Chúa Nhật III Mùa Vọng này nói với chúng ta về việc Gioan Tẩy Giả, khi ở trong ngục, đã sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Thầy có thật là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11,4). Thực tế, ông Gioan, khi nghe nói về các công việc của Chúa Giê-su, đã bắt đầu nghi ngờ liệu Người có thực sự là Đấng Mê-si-a hay không. Thật vậy, ông đang nghĩ đến một Đấng Mê-si-a nghiêm khắc, Đấng khi đến sẽ thực thi công lý với quyền năng bằng cách trừng phạt những kẻ tội lỗi. Tuy nhiên, giờ đây Chúa Giêsu đã có những lời nói và cử chỉ đầy lòng trắc ẩn đối với mọi người, mà trung tâm hành động của Người là lòng thương xót với sự tha thứ, nhờ vậy “Người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (c. 6). Tuy nhiên, chúng ta nên chú ý đến sự khủng hoảng này của Gioan Tẩy giả, bởi vì nó cũng có thể nói lên điều gì đó quan trọng đối với chúng ta.
Hồ nghi đôi khi cần thiết
Bản văn nhấn mạnh rằng Gioan đang ở trong tù, và điều này, hơn cả nơi chốn thể lý, cho thấy tình trạng bên trong mà ông đang trải qua: trong tù nơi bóng tối, ông không có khả năng nhìn rõ và nhìn xa hơn. Thật vậy, Gioan Tẩy Giả không còn có thể nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Mêsia được mong đợi nữa. Và vì nghi ngờ, ông nên sai các môn đệ đi kiểm chứng: “Anh em đi và xem người này có phải là Đấng Mê-si-a không”. Chúng ta ngạc nhiên vì điều này xảy ra với chính Gioan, người đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu ở sông Giođan và đã chỉ cho các môn đệ biết Người là Chiên Thiên Chúa (x. Ga 1,29). Nhưng điều đó cũng có nghĩa là ngay cả người có niềm tin lớn nhất cũng đi qua đường hầm của sự nghi ngờ. Và thực ra, đường hầm hồ nghi không thể tránh khỏi này không phải là điều xấu, đôi khi nó cần thiết cho sự phát triển thiêng liêng: nó giúp chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa luôn lớn hơn những gì chúng ta có thể tưởng tượng về Người; những việc Người thực hiện vượt quá sự tính toán của chúng ta; hành động của Người thì khác, và vượt xa những nhu cầu và mong đợi của chúng ta; và do đó chúng ta không bao giờ được phép ngừng tìm kiếm Người và hoán cải theo khuôn mặt thật của Người. Một nhà thần học vĩ đại đã từng nói về Thiên Chúa rằng, “chúng ta cần tái khám phá Thiên Chúa theo từng giai đoạn... đôi khi tin rằng chúng ta đang lạc mất Người” (H. DE LUBAC, Sulle vie di Dio, Milano 2008, 25). Điều này đã xảy ra với Gioan Tẩy giả: trong sự nghi ngờ, ông vẫn tìm kiếm Người, chất vấn Người, “bàn luận” với Người và cuối cùng khám phá được Người. Tóm lại, Gioan, người được Chúa Giêsu định nghĩa là người cao trọng nhất giữa những phàm nhân đã lọt lòng mẹ (x. Mt 11:11), dạy chúng ta rằng đừng đóng Thiên Chúa vào trong các kế hoạch của chúng ta. Thật là nguy hiểm khi có cám dỗ tạo nên nơi chúng ta một Thiên Chúa theo tiêu chuẩn của chúng ta, một Thiên Chúa để sử dụng. Không, Thiên Chúa thật thì rất khác.
Đừng để mình bị giam hãm trong định kiến
Anh chị em thân mến, đôi khi chúng ta cũng thấy mình ở trong tình huống của Gioan, trong một nhà tù nội tâm, không thể nhận ra sự mới mẻ của Chúa, Đấng mà có lẽ chúng ta giam giữ như một tù nhân của tư tưởng cho rằng mình biết tất cả về Người. Anh chị em thân mến, không bao giờ chúng ta có thể biết tất cả về Thiên Chúa, không bao giờ. Có lẽ chúng ta có sẵn trong đầu về một Thiên Chúa quyền năng làm theo ý chúng ta, hơn là một Thiên Chúa khiêm nhường hiền lành, thương xót và yêu thương, Đấng can thiệp bằng cách luôn tôn trọng sự tự do và lựa chọn của chúng ta. Có lẽ chúng ta cũng phải hỏi Người: “Ngài, với sự khiêm nhường như thế, có phải là Thiên Chúa đến cứu độ chúng con không?”. Và điều đó nơi chúng ta cũng xảy ra tương tự với anh chị em mình: chúng ta có sẵn ý nghĩ, định kiến của mình về họ và chúng ta dán những nhãn thô cứng cho người khác - đặc biệt là cho những người khác biệt với chúng ta. Vì thế, Mùa Vọng là thời gian đảo ngược các ánh nhìn, là thời gian cho phép chúng ta để cho mình được kinh ngạc trước lòng thương xót lớn lao của Thiên Chúa, là thời gian để, khi chuẩn bị máng cỏ cho Hài Nhi Giêsu, chúng ta học biết lại về Chúa của chúng ta; là thời gian để thoát ra khỏi những khuôn mẫu có sẵn và những định kiến nhất định về Thiên Chúa và về anh chị em mình; Mùa Vọng là thời gian, thay vì nghĩ đến những món quà dành cho mình, chúng ta có thể dành những lời nói và cử chỉ an ủi cho những người bị thương tích, như Chúa Giêsu đã làm với những người mù, người điếc và thương tật.
Xin Đức Mẹ, như một người Mẹ, nắm lấy tay chúng ta trong những ngày chuẩn bị cho Lễ Giáng Sinh này và giúp chúng ta nhận ra nơi sự nhỏ bé của Hài Nhi sự cao cả của Thiên Chúa Đấng đến với chúng ta.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 3 mùa Vọng năm A, Thánh lễ cho cộng đoàn Philippines ở Roma (15/12/2019) - Trở nên men và khí cụ của lòng thương xót
Anh chị em thân mến,
Hôm nay chúng ta cử hành Chúa Nhật III mùa Vọng. Trong Bài đọc I, ngôn sứ Isaia mời gọi toàn thế giới hãy vui mừng trước sự ngự đến của Đức Chúa, Đấng đem ơn cứu độ cho dân Người. Người đến để mở mắt cho kẻ mù và mở tai cho kẻ điếc, chữa lành người què và người câm (x. Is 35,5-6). Ơn cứu độ được trao ban cho hết thảy mọi người, nhưng Thiên Chúa lại biểu lộ một sự trìu mến đặc biệt dành cho những ai yếu thế nhất, mong manh nhất, nghèo khổ nhất trong dân Người.
Qua lời của Thánh vịnh Đáp ca, chúng ta được biết rằng còn có những người dễ bị tổn thương khác cũng đáng được Thiên Chúa dành cho một cái nhìn yêu thương đặc biệt: đó là những kẻ bị áp bức, người đói khát, khách ngoại kiều, cô nhi và quả phụ (x. Tv 146 [145],7-9). Họ là những cư dân của các “vùng ngoại biên hiện sinh” của hôm qua cũng như hôm nay.
Nơi Đức Giêsu Kitô, tình yêu cứu độ của Thiên Chúa trở nên hữu hình và cụ thể: “Người mù được thấy, kẻ què được đi, người phong được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, và kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,5). Đó là những dấu chỉ đi kèm việc hoàn tất Vương Quốc Thiên Chúa. Không phải là tiếng kèn chiến thắng hay vinh quang quân sự, không phải là sự xét xử hay lên án tội nhân, nhưng là sự giải thoát khỏi điều ác và việc loan báo Tin Mừng về lòng thương xót và bình an.
Năm nay nữa, chúng ta lại chuẩn bị cử hành mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm Emmanuel - “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Đấng thực hiện những kỳ công cho dân Người, cách đặc biệt cho những người nghèo khổ và mong manh nhất. Những kỳ công ấy chính là các “dấu chỉ” của sự hiện diện Nước Người. Và bởi lẽ những người đang sống nơi các “vùng ngoại biên hiện sinh” vẫn còn rất đông, nên chúng ta phải cầu xin Chúa canh tân phép lạ Giáng sinh mỗi năm, bằng cách chính chúng ta dâng hiến mình trở nên khí cụ của tình yêu thương xót Người dành cho những người bé mọn nhất.
Để chuẩn bị xứng đáng cho sự tuôn đổ ân sủng mới này, Giáo hội ban tặng cho chúng ta mùa Vọng, trong đó chúng ta được mời gọi khơi lại trong tâm hồn mình niềm trông đợi và gia tăng lời cầu nguyện. Nhằm mục đích ấy, trong sự phong phú của các truyền thống khác nhau, các Giáo hội địa phương đã du nhập nhiều thực hành đạo đức bình dân.
Tại Philippines, từ nhiều thế kỷ nay, có một tuần cửu nhật chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh được gọi là Simbang-Gabi (lễ ban đêm). Suốt chín ngày, các tín hữu Philippines quy tụ tại giáo xứ của họ vào lúc rạng đông để tham dự một thánh lễ đặc biệt. Trong vài thập niên gần đây, nhờ cộng đồng người Philippines di cư, việc đạo đức này đã vượt qua biên giới quốc gia và lan tới nhiều nước khác. Simbang-Gabi cũng đã được cử hành tại Giáo phận Rôma trong nhiều năm, và hôm nay chúng ta đang cùng nhau cử hành tại đây, trong Đền thờ Thánh Phêrô.
Qua việc cử hành này, chúng ta ước mong chuẩn bị cho lễ Giáng sinh theo đúng tinh thần của Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe, kiên vững cho đến ngày Chúa quang lâm, như thánh Giacôbê Tông đồ khuyên dạy (x. Gc 5,7). Chúng ta muốn dấn thân diễn tả tình yêu và sự trìu mến của Thiên Chúa đối với mọi người, đặc biệt với những người bé mọn nhất. Chúng ta được mời gọi trở nên men cho một xã hội vốn thường không còn biết trân trọng vẻ đẹp của Thiên Chúa và cảm nếm ân sủng của sự hiện diện Người.
Còn anh chị em, những người đã rời bỏ quê hương để tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn, anh chị em có một sứ mạng đặc biệt. Ước gì đức tin của anh chị em trở nên “men” trong các cộng đoàn giáo xứ nơi anh chị em thuộc về. Tôi khích lệ anh chị em gia tăng các dịp gặp gỡ, chia sẻ sự phong phú văn hóa và thiêng liêng của mình, đồng thời cũng để mình được làm giàu nhờ kinh nghiệm của những người khác. Tất cả chúng ta được mời gọi cùng nhau xây dựng sự hiệp thông trong đa dạng, một nét đặc trưng của Nước Thiên Chúa mà Đức Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa làm người đã khai mở. Tất cả chúng ta cũng được mời gọi cùng nhau thực thi bác ái đối với những ai đang sống nơi các vùng ngoại biên hiện sinh, dâng tặng họ những món quà đa dạng của chúng ta, để nhờ đó các dấu chỉ của Nước Thiên Chúa được canh tân. Tất cả chúng ta được kêu gọi cùng nhau loan báo Tin Mừng, Tin Mừng cứu độ, bằng mọi ngôn ngữ, để Tin Mừng có thể chạm tới nhiều người nhất có thể.
Ước mong Hài Nhi Thánh, được quấn trong những tấm khăn đơn sơ và đặt trong máng cỏ, Đấng mà chúng ta đang chuẩn bị để thờ lạy ban phúc lành và ban cho anh chị em sức mạnh để hân hoan làm chứng cho Người.
Cuối thánh lễ, Đức Thánh Cha đã ban phép lành và mời gọi cộng đoàn Philippines tiếp tục trở nên những “người khéo léo đem đức tin vào đời sống” (smugglers of the faith).
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 3 mùa Vọng năm A (15/12/2019) - Dành chỗ trong tâm hồn cho Chúa đến
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Trong Chúa Nhật thứ III mùa Vọng này, được gọi là Chúa Nhật “của niềm vui”, Lời Chúa mời gọi chúng ta vừa vui mừng vừa nhận thức rằng cuộc sống cũng bao gồm những thời khắc nghi ngờ thật khó tin. Cả hai kinh nghiệm vui mừng và nghi ngờ đều là thành phần của cuộc sống chúng ta.
Vui mừng và nghi ngờ
Đối nghịch với lời mời gọi vui mừng rõ ràng của ngôn sứ Isaia: "Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông (35,1), là sự nghi ngờ của thánh Gioan Tẩy Giả, như được thuật lại trong Tin Mừng: "Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?" (Mt 11,3). Thực tế là vị ngôn sứ nhìn xa hơn thực tại: trước mặt ông là đoàn dân chán nản: bàn tay rã rời, đầu gối run rẩy, trái tim nhát đảm (x. 35,3-4). Đó chính là một thực tế luôn thử thách đức tin. Nhưng người của Thiên Chúa nhìn xa hơn, bởi vì Chúa Thánh Thần làm cho trái tim ông cảm nhận được sức mạnh của lời Chúa hứa, và loan báo ơn cứu rỗi: “Can đảm lêm, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi, [...] chính Người sẽ đến cứu anh em" (câu 4). Và rồi mọi sự được biến đổi: sa mạc sẽ nở hoa, niềm an ủi và niềm vui chiếm hữu trái tim sợ hãi, người què, người mù, người câm được chữa lành (x. 35,5-6). Đây là những gì được Chúa Giêsu thực hiện: “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người phong được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,5).
Hoán cải trong suy nghĩ của chúng ta về Thiên Chúa
Mô tả này cho chúng ta thấy rằng ơn cứu độ bao trùm toàn bộ con người và tái sinh họ. Nhưng sự tái sinh này, cùng với niềm vui, luôn luôn giả đinh sự chết đi của chính con người chúng ta và của tội lỗi ở trong chúng ta. Từ đây xuất phát lời kêu gọi hoán cải, là nền tảng của lời rao giảng, cả của thánh Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu; đặc biệt là hoán cải về ý tưởng của chúng ta về Thiên Chúa. Và Mùa Vọng thúc đẩy chúng ta đến với câu hỏi mà thánh Gioan Tẩy Giả đặt ra với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?" (Mt 11,3). Chúng ta hãy suy nghĩ: cả cuộc đời, thánh Gioan đã chờ đợi Đấng Cứu Thế; lối sống của ngài, con người của ngài đã được định hình bởi sự chờ đợi này. Đây cũng là lý do tại sao Chúa Giêsu ca ngợi ngài: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả (x. Mt 11,11). Tuy nhiên, ngay cả ngài cũng phải hoán cải, đến với Chúa Giêsu. Giống như thánh Gioan, chúng ta cũng được mời gọi nhận ra khuôn mặt mà Thiên Chúa đã chọn mang lấy nơi Chúa Giêsu Kitô, khiêm nhường và nhân hậu.
Cần phải thanh tẩy đức tin của chúng ta mỗi ngày
Mùa Vọng, thời gian ân sủng, nói với chúng ta rằng tin vào Thiên Chúa thôi thì chưa đủ: còn cần phải thanh tẩy đức tin của chúng ta mỗi ngày. Đó là chuẩn bị chính mình để chào đón, không phải là một nhân vật trong truyện cổ tích, mà là Thiên Chúa, Đấng gọi hỏi chúng ta, cho chúng ta tham dự vào và đòi chúng ta lựa chọn. Hài nhi nằm trong hang đá có khuôn mặt của anh chị em nghèo khổ nhất của chúng ta, của những người nghèo "là những người được ưu tiên của mầu nhiệm này và, thường là những người có khả năng nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta" (Tông thư Dấu chỉ tuyệt vời, 6).
Không phân tâm bởi những thứ bên ngoài, nhưng dọn chỗ cho Chúa trong tâm hồn
Xin Đức Trinh Nữ Maria giúp chúng ta, để khi đến gần lễ Giáng Sinh, chúng ta không để mình bị phân tâm bởi những thứ bên ngoài, nhưng tạo khoảng trống trong trái tim cho Đấng đã đến và muốn lại đến để chữa lành bệnh tật và ban cho chúng ta niềm vui.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 3 mùa Vọng năm A (11/12/2016) - Mừng vui lên!
Cha chào tất cả anh chị em! Chúc mọi người một ngày tốt lành!
Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Nhật III mùa Vọng, được ghi dấu bằng lời mời gọi của Thánh Phaolô: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Chúa đã gần đến!” (Pl 4:4-5). Đây không phải là kiểu niềm vui hời hợt, cũng không phải là loại niềm vui nhất thời chỉ mang tính cảm xúc, không phải niềm vui trong việc mua bán tiêu dùng. Không. Đây là niềm vui đích thực, và chúng ta được mời gọi để tái khám phá hương vị của loại niềm vui này, thứ hương vị của niềm vui chân thực. Đó là loại niềm vui chạm đến tâm hồn sâu thẳm của chúng ta. Nơi đó, chúng ta đang đợi chờ Chúa Kitô, Đấng mang lại ơn cứu độ cho thế giới, Đấng mà Thiên Chúa sai đến, Đấng đã được Đức Trinh Nữ Maria sinh ra tại Bêlem.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta hiểu và nghiệm được loại niềm vui này. Ngôn sứ Isaia nói về cảnh hoang mạc khô cằn, bàn tay rời rã, đầu gối mỏi mòn, người bị mù bị điếc bị câm (Is 35:1-6a.10). Bức tranh buồn thảm này nói về một định mệnh vắng bóng Thiên Chúa.
Nhưng cuối cùng, sự cứu rỗi đã được công bố. Ngôn sứ Isaia nói: “Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi! Kìa Thiên Chúa đến… Ngài đến để cứu độ anh em”. Từ đó, ngay lập tức, mọi sự biến đổi: hoa nở trên sa mạc, niềm vui tràn ngập tâm hồn. Những dấu chỉ mà Isaia công bố, đã trở nên hiện thực nơi Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã trả lời cho những người được Gioan Tẩy Giả sai đến. Chúa Giêsu nói: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong được sạch, kẻ điếc được nghe, kẻ chết sống lại” (Mt 11:5). Những lời ấy, những việc làm ấy minh chứng cho ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến. Thiên Chúa đã đi vào lịch sử để giải phóng chúng ta khỏi ách tội lỗi. Ngài ở giữa chúng ta, chia sẻ cuộc sống của chúng ta, chữa lành những thương tích của chúng ta, băng bó vết thương và ban cho chúng ta sự sống mới. Niềm vui là kết quả của hành vi cứu độ và tình yêu của Thiên Chúa.
Chúng ta được mời gọi để tham dự vào niềm vui này, niềm vui hân hoan này… Nhưng nếu một Kitô hữu mà không vui, thì có gì đó không còn là Kitô hữu nữa! Niềm vui này sâu xa trong tâm hồn và đem lại cho ta sự can đảm tiến về phía trước. Chúa đến, Chúa đi vào cuộc sống của chúng ta, để giải thoát chúng ta khỏi những trói buộc cả trong lẫn ngoài. Ngài đã cho chúng ta thấy con đường của trung tín, kiên nhẫn và bền lòng, vì khi Ngài trở lại, niềm vui của chúng ta sẽ thành toàn.
Giáng Sinh đang đến gần, các dấu chỉ của Giáng Sinh hiển hiện trên các con phố và ngay tại quảng trường này. Những dấu hiệu bên ngoài mời gọi chúng ta mở lòng đón Chúa, Đấng luôn đến và gõ cửa nhà chúng ta, gõ cửa tâm hồn chúng ta. Chúng ta được mời gọi để nhận ra những bước chân của Ngài nơi những anh chị em xung quanh, đặc biệt là những người yếu đuối và thiếu thốn.
Hôm nay chúng ta được mời gọi để vui mừng vì Đấng Cứu Độ chúng ta ngự đến, và chúng ta chia sẻ niềm vui này với tha nhân, trao tặng niềm vui hy vọng cho người nghèo khổ, người ốm đau và những ai bất hạnh. Lạy Đức Nữ Trinh Maria, nữ tỳ của Chúa, xin giúp chúng con biết lắng nghe lời mời gọi của Thiên Chúa trong cầu nguyện, và với đầy lòng cảm thông, biết phục vụ Ngài nơi những chị em chúng con, xin cho con biết sẵn sàng đón mừng Giáng Sinh và chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa Giêsu.
Nguồn: archivioradiovaticana.va
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 3 mùa Vọng năm A (15/12/2013) - Sống niềm vui Tin mừng
Anh chị em thân mến,
Hôm nay là Chúa nhật thứ 3 mùa Vọng, hay vẫn thường được gọi là Chúa nhật Vui. Phụng vụ hôm nay cứ lặp đi lặp lại nhiều lần lời mời gọi vui lên, hớn hở lên vì Thiên Chúa đã đến gần, Giáng Sinh đã đến gần. Thông điệp Kitô giáo được gọi là "Phúc âm" hay "Tin mừng", là lời công bố niềm vui cho tất cả mọi dân; Giáo hội không là nơi trú ngụ của những con người buồn phiền, Giáo hội là nhà của niềm vui!
Tuy nhiên, không phải bất cứ niềm vui nào cũng là niềm vui của Tin mừng. Niềm vui của Tin mừng hệ ở chỗ biết được rằng mình luôn được Thiên Chúa lắng nghe và yêu mến. Giống như Lời Chúa trong sách tiên tri Isaia nhắc nhớ chúng ta hôm nay (x.Is 35,1-6a.8a.10), Thiên Chúa là Đấng đến để cứu độ chúng ta, và cứu giúp những ai tâm hồn đau khổ. Ngài đến giữa chúng ta ban cho ta sức mạnh, mang đến sự vững vàng, ban cho ta sự can đảm, sẽ làm nở hoa nơi sa mạc và hoang địa khô cằn là chính đời sống của chúng ta mỗi khi ta khô khan, thiếu nguồn nước Lời Chúa và Thánh Thần tình yêu của Ngài. Vì dù những giới hạn và những thiếu hụt của chúng ta có lớn như thế nào đi chăng nữa thì chúng ta cũng không được phép trở nên yếu nhược và dao động trước những khó khăn và chính sự yếu đuối của chúng ta. Trái lại, chúng ta được mời gọi để làm cho đôi bàn tay thêm mạnh mẽ hơn, làm cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng, có được sự can đảm và không sợ hãi vì Thiên Chúa của chúng ta luôn bày tỏ lòng thương xót vĩ đại của Ngài. Ngài ban cho chúng ta sức mạnh để tiến về phía trước. Ngài luôn ở bên chúng ta để giúp chúng ta tiến về phía trước. Ngài là một Thiên Chúa yêu thương chúng ta rất nhiều, Ngài yêu thương chúng ta và đó là lý do tại sao Ngài ở bên chúng ta, để giúp đỡ chúng ta, để củng cố chúng ta, giúp chúng ta tiến về phía trước. Can đảm lên! Luôn luôn tiến về phía trước! Nhờ sự giúp đỡ của Ngài, chúng ta luôn có thể bắt đầu lại. Làm thế nào? Bắt đầu lại từ đầu. Có người có thể nói với tôi: "Không, Cha ơi, con đã làm rất nhiều điều đáng chê trách... Con là một tội nhân nặng nề.... Con không thể bắt đầu lại từ đầu!". Bạn sai rồi! Bạn có thể bắt đầu lại từ đầu! Tại sao? Bởi vì Thiên Chúa đang chờ đợi bạn, Ngài ở gần bạn, Ngài yêu thương bạn, Ngài thương xót bạn, Ngài tha thứ cho bạn, Ngài ban cho bạn sức mạnh để bắt đầu lại từ đầu! Tất cả mọi người! Và vì vậy, chúng ta có thể mở mắt ra một lần nữa, để vượt qua nỗi buồn và tang tóc để bắt đầu một bài hát mới. Và niềm vui đích thực này vẫn tồn tại ngay cả giữa thử thách, ngay cả giữa đau khổ, vì nó không phải là niềm vui hời hợt; vì nó thấm sâu vào tận đáy lòng người tín thác vào Chúa và tâm sự với Ngài.
Niềm vui cũng như niềm hy vọng Kitô giáo có nền tảng từ lòng trung tín của Thiên Chúa, trong sự đảm bảo rằng Ngài vẫn luôn giữ lời hứa của mình. Tiên tri Isaia khuyến khích những ai đang lạc lối và trong cơn tuyệt vọng hãy tín thác vào lòng trung tín của Thiên Chúa vì ơn của độ của Ngài sẽ nhanh chóng đến bên đời họ. Những ai đã gặp được Đức Giêsu trên hành trình thì sẽ cảm nghiệm được trong con tim mình một sự thanh thản và niềm vui mà không ai hay không gì có thể làm hư hoại. Niềm vui của chúng ta là Đức Kitô, tình yêu trung tín và vô tận của Người! Vì thế, khi nào một Kitô hữu buồn phiền, điều đó có nghĩa là người ấy đang ở xa Giêsu. Chúng ta không nên để người ấy đơn côi một mình! Chúng ta phải cầu nguyện cho người ấy và giúp người ấy cảm nghiệm được hơi ấm của tình cộng đoàn.
Xin Đức Trinh Nữ Maria, Đấng đã đón nhận lời mời gọi hãy vui lên từ Thiên Sứ trong cuộc truyền tin, để xin Mẹ giúp mình sống niềm vui Tin Mừng trong mọi khoảnh khắc buồn vui của cuộc sống. Ngài nói: “Nguyện xin Đức Trinh Nữ Maria giúp chúng ta mau tiến bước đến Bêlem, để gặp gỡ Hài Nhi, Đấng đã sinh ra làm người vì ta, vì ơn cứu độ và niềm vui của tất cả mọi người. Thiên Sứ đã nói với Mẹ: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn phước: Thiên Chúa ở cùng bà" (Lc 1:28). Mẹ sẽ giúp chúng ta sống niềm vui Tin Mừng trong gia đình, nơi công sở, nơi giáo xứ và trong mọi môi trường. Một niềm vui thân thiết, với những điều tuyệt vời và dịu ngọt. Niềm vui ấy hệt như niềm vui của một người mẹ khi nhìn đứa con vừa mới chào đời, và nghiệm thấy rằng đó là một món quà từ Thiên Chúa, một phép màu mà chỉ có thể nói lời cảm ơn.
Sau kinh truyền tin, Đức Thánh Cha gửi lời chào đến các tín hữu hành hương, mà trước hết là các em thiếu nhi ở Rôma. Ngài xin các em cầu nguyện cho ngài cũng như ngài vẫn luôn nhớ đến các em. Ngài nói:
Hôm nay, tôi xin được dành lời chào đầu tiên của tôi đến các em thiếu nhi ở Rôma, đã đến đây để xin phép lành truyền thống của "Hài Nhi Giêsu". Các con thiếu nhi thân mến, khi nào các con cầu nguyện trước hang đá, các con hãy nhớ đến cha, cũng như cha nhớ đến các con. Cha cảm ơn các con, chúc các con Giáng Sinh an lành!
Tôi cũng gửi lời chào đến các gia đình, các nhóm giáo xứ, các hội đoàn, các nhóm hành hương từ Rôma, Ý và nhiều vùng khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là Tây Ban Nha và Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Tôi nồng nhiệt gửi lời chào đến các bạn trẻ ở Zambia, và tôi cầu chúc cho họ trở thành "viên đá sống động" để xây dựng một xã hội nhân văn hơn. Tôi cũng gửi lời chào đến tất cả các bạn trẻ đang hiện diện ở đây.”
Đức Thánh Cha cũng gởi lời chào đến nhiều nhóm khác và chúc họ một ngày Chúa Nhật an lành.
Nguồn: archivioradiovaticana.va
Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng Chúa nhật 3 mùa Vọng năm A, Thăm mục vụ Giáo xứ Thánh Maximilianô Kolbe (12/12/2010) - Xây dựng một cộng đoàn hiệp nhất
Anh chị em giáo dân thân mến của Giáo xứ Thánh Maximilianô Kolbe,
Anh chị em đang sống cách sâu xa cam kết cá nhân cũng như cộng đoàn của mình trong việc bước theo Chúa. Mùa Vọng là một lời mời gọi mạnh mẽ gửi đến hết thảy chúng ta, để Thiên Chúa ngày càng đi vào cuộc đời chúng ta, vào gia đình, khu xóm và cộng đoàn của chúng ta, hầu đem lại ánh sáng giữa muôn vàn bóng tối và giữa những nỗ lực trong đời thường.
Anh chị em thân mến, hôm nay tôi rất vui được hiện diện với anh chị em để cử hành ngày của Chúa, Chúa nhật III mùa Vọng, Chúa nhật của niềm vui.
Tôi thân ái chào Đức Hồng y Giám Quản, Đức Giám mục Phụ tá của giáo hạt, Cha xứ của anh chị em – người đã thay mặt toàn thể cộng đoàn ngỏ lời với tôi, cùng Cha Phó xứ.
Tôi cũng gửi lời chào đến tất cả những ai đang dấn thân phục vụ trong cộng đoàn giáo xứ: các giáo lý viên và những thành viên thuộc nhiều nhóm khác nhau, trong đó có Con đường Tân dự tòng (Neocatechumenal Way). Tôi rất trân trọng quyết định của anh chị em trong việc dành chỗ cho việc Chầu Thánh Thể, và tôi cảm ơn anh chị em vì những lời cầu nguyện dành cho tôi trước Bí tích Cực thánh.
Tôi muốn mở rộng tâm tình của mình đến tất cả cư dân trong khu vực này, đặc biệt là những người cao tuổi, người bệnh tật, những ai sống cô đơn hoặc đang gặp khó khăn. Tôi nhớ đến từng người trong thánh lễ này.
Tôi cùng anh chị em chiêm ngắm ngôi thánh đường mới và các công trình giáo xứ, và bằng sự hiện diện của mình, tôi muốn khích lệ anh chị em ngày càng làm cho Giáo hội được xây dựng bằng những viên đá sống động chính là từng người anh chị em được triển nở tốt đẹp hơn.
Tôi biết đến nhiều dự án truyền giáo quan trọng mà anh chị em đang thực hiện. Tôi khuyến khích toàn thể tín hữu hãy góp phần của mình vào việc xây dựng cộng đoàn, đặc biệt trong các lãnh vực giáo lý, phụng vụ và bác ái, những trụ cột của đời sống Kitô hữu trong sự hiệp thông với toàn Giáo phận Rôma. Không một cộng đoàn nào có thể sống như một tế bào tách biệt khỏi bối cảnh giáo phận; trái lại, cộng đoàn phải là biểu hiện sống động của vẻ đẹp Giáo hội, dưới sự hướng dẫn của Giám mục, và trong giáo xứ, dưới sự hướng dẫn của cha xứ, người thi hành sứ vụ thay mặt ngài, cùng nhau tiến bước trong hiệp thông hướng về Nước Thiên Chúa.
Tôi xin gửi một tâm tình đặc biệt đến các gia đình và đồng hành với họ bằng lời cầu chúc để họ có thể chu toàn cách trọn vẹn ơn gọi yêu thương, với lòng quảng đại và bền bỉ. Ngay cả khi những khó khăn nảy sinh trong đời sống hôn nhân hoặc trong tương quan với con cái, các đôi vợ chồng không bao giờ được ngừng trung thành với tiếng “xin vâng” căn bản mà họ đã nói trước mặt Thiên Chúa và trước nhau trong ngày cưới; hãy nhớ rằng sự trung thành với ơn gọi đòi hỏi lòng can đảm, sự quảng đại và hy sinh.
Cộng đoàn của anh chị em bao gồm nhiều gia đình đến từ miền Trung và miền Nam nước Ý, những người đã rời quê hương để tìm kiếm việc làm và một cuộc sống tốt đẹp hơn. Theo dòng thời gian, cộng đoàn đã lớn lên và phần nào thay đổi với sự hiện diện của nhiều người đến từ các quốc gia Đông Âu và từ nhiều nước khác.
Dựa trên thực tế mục vụ cụ thể của giáo xứ, anh chị em hãy nỗ lực không ngừng lớn lên trong sự hiệp thông với mọi người: điều quan trọng là tạo ra những cơ hội đối thoại và thúc đẩy sự hiểu biết giữa những người đến từ các nền văn hóa, hoàn cảnh và điều kiện xã hội khác nhau.
Tuy nhiên, trên hết, cần cố gắng đưa họ tham gia vào đời sống Kitô hữu, bằng một chương trình mục vụ biết quan tâm đến những nhu cầu đích thực của mỗi người. Tại đây, cũng như trong mọi giáo xứ, cần bắt đầu từ những người “gần gũi”, để rồi có thể vươn tới những người “xa cách”, hầu đem sự hiện diện Tin Mừng đến các môi trường sống và làm việc.
Mọi người phải có thể tìm thấy nơi giáo xứ những phương thế huấn luyện thích hợp, và được trải nghiệm chiều kích cộng đoàn, một đặc tính căn bản của đời sống Kitô hữu. Nhờ đó, họ sẽ được khích lệ để tái khám phá vẻ đẹp của việc bước theo Đức Kitô và thuộc về Giáo hội của Người.
Vì thế, ước gì anh chị em xây dựng được một cộng đoàn hiệp nhất, biết lắng nghe Lời Chúa và cử hành các bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể. Về điểm này, cuộc “thẩm định mục vụ” đang được tiến hành trong toàn giáo phận, với chủ đề: “Thánh lễ Chúa nhật và chứng tá bác ái”, là một cơ hội thuận tiện để đào sâu và sống tốt hơn hai yếu tố nền tảng của đời sống và sứ mạng Giáo hội cũng như của mỗi tín hữu: Thánh lễ Chúa nhật và việc thực thi bác ái.
Khi quy tụ quanh Bí tích Thánh Thể, chúng ta dễ cảm nghiệm rằng sứ mạng của mọi cộng đoàn Kitô hữu là đem sứ điệp tình yêu của Thiên Chúa đến cho mọi người. Vì thế, điều quan trọng là Thánh Thể luôn ở trung tâm đời sống của các tín hữu.
Tôi cũng muốn gửi một lời trìu mến và thân tình đặc biệt đến các con thiếu nhi và các bạn trẻ đang lắng nghe tôi, cũng như đến những bạn trẻ đang sống trong giáo xứ này. Giáo hội đặt nhiều kỳ vọng nơi các con: nơi sự hăng hái, khả năng nhìn xa và khát vọng sống triệt để trong những chọn lựa của cuộc đời. Ước gì các con cảm thấy mình thực sự là những người chủ động trong giáo xứ, đem sức sống mới và cả cuộc đời mình phục vụ Thiên Chúa và anh chị em.
Anh chị em thân mến, song song với lời mời gọi hãy vui mừng, phụng vụ hôm nay, qua lời của thánh Giacôbê mà chúng ta vừa nghe, cũng mời gọi chúng ta kiên trì và nhẫn nại trong khi chờ đợi Chúa đến, và sống điều đó cùng nhau như một cộng đoàn, tránh phàn nàn và chỉ trích lẫn nhau (x. Gc 5,7-10).
Trong bài Tin mừng, chúng ta nghe câu hỏi được Gioan Tẩy Giả, khi ấy đang ở trong ngục tù, gửi đến Đức Giêsu. Gioan, người đã mạnh mẽ loan báo sự xuất hiện của Đấng Thẩm Phán sẽ đổi mới thế giới, giờ đây cảm thấy dường như thế giới vẫn y nguyên. Vì thế ông sai người đến hỏi Chúa Giêsu: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?”. Có phải chính Ngài, hay chúng tôi phải trông đợi một Đấng khác?
Trong hai, ba thế kỷ qua, nhiều người cũng đã đặt câu hỏi ấy: “Có thật là Ngài không? Hay thế giới phải được đổi thay bằng một cách triệt để hơn? Ngài sẽ không làm điều đó sao?”.
Và rồi một làn sóng lớn các “ngôn sứ” mới, các nhà ý thức hệ và các nhà độc tài đã xuất hiện và nói: “Không phải Ngài đâu! Ngài đã không đổi thay thế giới! Chính chúng tôi đây!”. Và họ dựng nên những đế chế, những chế độ độc tài, những hệ thống toàn trị với lời hứa sẽ thay đổi thế giới. Và họ đã thay đổi, nhưng là theo một cách hủy diệt. Hôm nay chúng ta biết rằng những lời hứa vĩ đại ấy chẳng để lại gì ngoài sự trống rỗng lớn lao và sự tàn phá lớn lao. Không phải họ.
Vì thế, chúng ta phải trở lại với Đức Kitô và hỏi Người một lần nữa: “Có phải chính Ngài không?”. Và Chúa, theo cách thầm lặng của Người, trả lời: “Hãy nhìn xem Ta đã làm gì: Ta không khởi xướng một cuộc cách mạng đẫm máu, Ta không thay đổi thế giới bằng bạo lực; nhưng Ta đã thắp lên nhiều ngọn lửa, và cùng nhau, chúng đã trở thành một con đường ánh sáng xuyên suốt các thế kỷ.”
Chúng ta hãy bắt đầu ngay tại giáo xứ này, với gương Thánh Maximilianô Kolbe, người đã hiến mạng sống mình, chết thay cho một người cha gia đình. Người đã trở thành một ánh sáng vĩ đại! Biết bao ánh sáng đã tỏa ra từ đời sống của ngài, và biết bao người đã được khích lệ để dấn thân, trở nên gần gũi với những người đau khổ và bị áp bức!
Chúng ta cũng hãy nhớ đến Damien de Veuster, vị linh mục đã trở nên người cha của những người cùi, sống và chết với họ và vì họ, và nhờ đó đã mang lại một nguồn sáng lớn lao cho cộng đoàn này.
Chúng ta hãy nghĩ đến Mẹ Têrêsa Calcutta, người đã đem đến biết bao ánh sáng cho những con người mà, sau cả một đời sống trong tăm tối, họ đã có thể ra đi với nụ cười trên môi, vì họ được chạm đến ánh sáng của tình yêu Thiên Chúa.
Và như thế, chúng ta có thể tiếp tục suy niệm và nhận ra, như Chúa đã nói trong câu trả lời gửi Gioan rằng không phải cuộc cách mạng bạo lực mới là điều biến đổi thế giới, nhưng chính ánh sáng thầm lặng của chân lý và của lòng nhân hậu Thiên Chúa mới là dấu chỉ sự hiện diện của Người, và ban cho chúng ta sự chắc chắn rằng chúng ta được yêu thương đến cùng, rằng chúng ta không bị quên lãng, rằng chúng ta không phải là sản phẩm của sự ngẫu nhiên nhưng thuộc về một ý muốn yêu thương.
Như thế, chúng ta có thể sống và cảm nghiệm sự gần gũi của Thiên Chúa. “Thiên Chúa ở gần”, Bài đọc I hôm nay nói với chúng ta như thế; Người ở rất gần chúng ta, nhưng nhiều khi chính chúng ta lại ở xa Người. Hãy đến gần, hãy bước vào trong sự hiện diện của ánh sáng Người; hãy cầu xin để, nhờ chạm đến Người trong cầu nguyện, chính chúng ta cũng trở nên ánh sáng cho anh chị em mình.
Và đây cũng chính là ý nghĩa của ngôi thánh đường giáo xứ: bước vào nơi đây, bước vào cuộc đối thoại, vào sự gặp gỡ với Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, để chính chúng ta trở thành một trong những ánh sáng nhỏ bé mà Người đã thắp lên, hầu mang ánh sáng của Người đến cho thế giới đang rất cần được cứu độ.
Tâm hồn chúng ta phải rộng mở trước lời mời gọi ấy, để rồi chúng ta hân hoan tiến bước về lễ Giáng sinh, như Đức Trinh Nữ Maria đã chờ đón ngày Chúa Cứu Thế giáng sinh trong cầu nguyện, với tâm hồn thổn thức, sâu lắng và hân hoan. Amen!
Đức Bênêđictô XVI, Huấn dụ Chúa nhật 3 mùa Vọng năm A (12/12/2010) - Anh em cứ kiên nhẫn
Anh chị em thân mến, phụng vụ Lời Chúa của Chúa nhật thứ ba mùa Vọng mở đầu bằng lời khích lệ cho chúng ta như trong thư của thánh Giacôbê viết: "Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm" (Gc 5, 7). Trong thời đại chúng ta, ít khi người ta đề cao tính kiên trì và nhẫn nại, một đức tính thường thấy trong hành trang của các bậc cha anh. Ngày nay đức tính này ít phổ biến hơn trong một thế giới nhiều thay đổi và nhiều người đánh giá cao khả năng thích nghi với những hoàn cảnh luôn mới. Mùa Vọng không làm mất đi giá trị thích ứng này, như một đặc tính của con người, nhưng mùa Vọng kêu mời chúng ta đào sâu tính nhẫn nại nội tâm, tính kiên trì của tâm hồn, những đức tính giúp chúng ta không rơi vào tuyệt vọng trong khi chờ đợi một thực tại tốt đẹp sẽ đến, hơn thế nữa là biết chờ đợi và chuẩn bị chính mình trong tin tưởng mãnh liệt.
"Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã đến gần" (Gc 5, 7-8) Hình ảnh so sánh trên đây thật ý nghĩa: ai gieo giống trong ruộng, phải đợi chờ trong kiên nhẫn và bền chí vì biết rằng hạt giống phải hoàn thành tiến trình của nó mới sinh hoa kết trái nhờ mưa thu và mưa xuân. Nhà nông không phải là người phó mặc cho định mệnh nhưng là mẫu người gắn kết một cách cân bằng giữa niềm tin và lý trí bởi vì một mặt họ biết được quy luật tự nhiên và làm tốt việc của mình, mặt khác, họ tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa vì hiểu rằng có những thứ không nằm trong tay của họ mà trong tay Thiên Chúa. Sự kiên nhẫn và bền chí thực sự là một tổng hoà giữa công lao của con người và lòng tin tưởng vào Thiên Chúa.
Kinh thánh nói: "Anh em hãy vững lòng". Chúng ta đạt đến điều này như thế nào? Phải làm gì để con tim thêm vững mạnh, một con tim đã rất mềm yếu và vô định ngay trong nền văn hoá chúng ta đang sống? Chúng ta không thiếu sự trợ giúp, đó chính là Lời Chúa. Quả vậy, trong khi mọi thứ đều qua đi và thay đổi, Lời Chúa không bao giờ qua đi. Nếu những biến cố cuộc đời làm chúng ta lạc hướng và tất cả những đoan chắc của chúng ta trở nên vô nghĩa, chúng ta vẫn còn cái la bàn để định hướng, vẫn còn cái neo để níu giữ khỏi lạc đường. Chúng ta cần noi theo mẫu gương các ngôn sứ, những người được Chúa gọi để nói nhân danh của Người. Vị ngôn sứ tìm thấy niềm vui và sức mạnh trong Lời của Chúa và trong khi người đời tìm kiếm niềm vui chóng qua, vị ngôn sứ loan báo niềm hy vọng đích thực, niềm hy vọng không dối lừa vì được đặt nền trên sự trung tín của Thiên Chúa. Đối với mỗi người tín hữu, với sức mạnh nơi bí tích Rửa Tội, chúng ta đã lãnh nhận phẩm giá ngôn sứ.
Ước gì mỗi người biết tái khám phá và nuôi dưỡng phẩm giá này cùng với việc kiên trì lắng nghe Lời Chúa. Mẹ Maria là người đã lắng nghe Lời Chúa và Tin Mừng gọi Mẹ là người đầy ơn phúc vì đã tin vào sự viên mãn của lời ấy. (x. Lc 1, 45)
Nguồn: archivioradiovaticana.va
Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng Chúa nhật 3 mùa Vọng năm A, Thăm mục vụ Giáo xứ Santa Maria Del Rosario Ai Martiri Portuensi (16/12/2007) - Niềm vui của Chúa là sức mạnh của chúng ta
Anh chị em thân mến,
“Anh em hãy vui luôn trong Chúa; tôi nhắc lại: vui lên… Chúa đã gần đến” (Pl 4,4-5). Ca nhập lễ của Thánh lễ Chúa nhật III mùa Vọng mở đầu bằng lời mời gọi hân hoan này, và chính vì thế ngày Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật “Gaudete” – Chúa Nhật của niềm vui. Thật vậy, toàn bộ mùa Vọng là một lời mời gọi hãy vui mừng, bởi vì “Chúa đang đến”, bởi vì Người đến để cứu độ chúng ta.
Những lời của ngôn sứ Isaia gửi đến dân Do Thái đang sống cảnh lưu đày tại Babylon sau khi Đền Thờ Giêrusalem bị tàn phá và lòng đầy ngờ vực không biết có thể trở về thành thánh đổ nát ấy hay không vang lên cách an ủi hầu như mỗi ngày trong những tuần lễ này. Ngôn sứ bảo đảm với họ rằng:
“Nhưng những người cậy trông Đức Chúa thì được thêm sức mạnh. Như thể chim bằng, họ tung cánh. Họ chạy hoài mà không mỏi mệt, và đi mãi mà chẳng chùn chân” (Is 40,31). Và còn nữa: “Họ sẽ tìm được hạnh phúc chứa chan, đau khổ và tiếng khóc than sẽ biến mất” (Is 35,10).
Phụng vụ mùa Vọng luôn nhắc chúng ta rằng: chúng ta phải trỗi dậy khỏi giấc ngủ của thói quen và sự tầm thường; phải từ bỏ sầu muộn và thất vọng; phải nâng tâm hồn lên, bởi vì “Chúa đã gần đến”.
Hôm nay, còn một lý do khác để chúng ta vui mừng nữa, thưa anh chị em giáo dân của Giáo xứ Santa Maria del Rosario ai Martiri Portuensi: đó là nghi thức cung hiến ngôi thánh đường giáo xứ mới của anh chị em, được xây dựng ngay trên chính địa điểm mà vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Tôi tớ Chúa, Đức Gioan Phaolô II, đã cử hành thánh lễ vào ngày 8 tháng 11 năm 1998 trong chuyến thăm mục vụ giáo xứ của anh chị em.
Phụng vụ trọng thể cung hiến ngôi thánh đường này là một biến cố chan hòa niềm vui thiêng liêng sâu đậm cho toàn thể Dân Thiên Chúa đang sống tại khu vực này. Về phần tôi, tôi vui mừng chia sẻ niềm hân hoan chính đáng của anh chị em khi cuối cùng đã có một ngôi thánh đường khang trang và thích hợp cho đời sống mục vụ.
Nơi ngôi thánh đường tọa lạc gợi nhớ một quá khứ rực sáng của những chứng nhân Kitô giáo. Thật vậy, chính tại nơi đây, ngay gần đó, là hầm mộ Thánh Generosa, nơi theo truyền thống lưu giữ hài cốt của ba anh chị em: Simplicius, Faustinus và Viatrix (Beatrice), những vị tử đạo dưới cuộc bách hại năm 303.
Một phần thánh tích của các ngài được lưu giữ tại Rôma, trong nhà thờ San Nicola in Carcere ở Monte Savello; phần khác được lưu giữ tại Fulda (Đức), một thành phố đã tôn nhận các vị tử đạo Portuensi làm bổn mạng từ thế kỷ VIII, nhờ việc Thánh Boniface mang thánh tích của các ngài đến đó.
Liên quan đến điều này, tôi xin gửi lời chào đến vị đại diện của Đức Giám mục Fulda, và Tổng Giám mục Carlo Liberati, Giám quản đền thánh Mân Côi Pompei, nơi có mối liên kết thiêng liêng (twinning) với giáo xứ của anh chị em.
Việc cung hiến ngôi thánh đường giáo xứ này mang một ý nghĩa thật đặc biệt đối với anh chị em đang sống trong khu vực này. Lẽ nào các vị tử đạo trẻ trung, những người đã hy sinh mạng sống vì làm chứng cho Đức Kitô lại không phải là động lực mạnh mẽ thúc đẩy anh chị em Kitô hữu hôm nay kiên trì trung thành bước theo Chúa Giêsu Kitô? Và lẽ nào sự che chở của Đức Trinh Nữ Mân Côi lại không mời gọi anh chị em trở nên những người nam nữ có đời sống đức tin sâu xa và cầu nguyện chuyên chăm như Mẹ?
Ngày nay, dẫu dưới những hình thức khác nhau, sứ điệp cứu độ của Đức Kitô vẫn gặp phải những chống đối, và các Kitô hữu cũng được mời gọi như xưa kia phải trả lời cho niềm hy vọng của mình, phải trao cho thế giới chứng tá về chân lý của Đấng cứu độ và giải thoát! Vì thế, ước gì ngôi thánh đường mới này trở thành một nơi ưu tuyển cho việc lớn lên trong sự hiểu biết và tình yêu đối với Đấng mà chỉ trong vài ngày nữa chúng ta sẽ long trọng đón chào, hoan hỷ mừng sinh nhật của Người: Đấng Cứu Chuộc thế giới và là Đấng Cứu Độ chúng ta.
Giờ đây, nhân dịp hân hoan cung hiến ngôi thánh đường mới tốt đẹp này, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn đến tất cả những ai đã góp phần xây dựng nên công trình này. Tôi biết rằng trong nhiều năm qua, Giáo phận Rôma đã rất dấn thân để bảo đảm rằng mỗi khu vực của thành phố, vốn đang không ngừng phát triển, đều có những cơ sở giáo xứ xứng hợp.
Trước hết, tôi xin gửi lời chào và lời cảm ơn đến Đức Hồng y Giám quản, và cùng với ngài là Đức cha Ernesto Mandara, Thư ký của Cơ quan Công trình Rôma về Bảo tồn Đức tin và Xây dựng các Nhà thờ mới tại Rôma.
Tôi đặc biệt chào thăm và cảm ơn anh chị em giáo dân, những người đã cộng tác theo nhiều cách khác nhau để xây dựng trung tâm giáo xứ này. Công trình này được gia nhập vào hơn 50 nhà thờ giáo xứ hiện đang hoạt động, được hình thành nhờ nỗ lực tài chính đáng kể của Giáo phận, của rất nhiều tín hữu và những công dân thiện chí, cũng như nhờ sự cộng tác của các cơ quan công quyền.
Trong Chúa nhật hôm nay, vốn được dành riêng để nâng đỡ công trình đáng trân trọng này, tôi kêu gọi mọi người hãy tiếp tục quảng đại dấn thân.
Tôi cũng muốn thân ái gửi lời chào đến Đức cha Benedetto Tuzia, Giám mục Phụ tá của giáo hạt miền Tây, và Cha xứ của anh chị em, Cha Gerard Charles McCarthy, người mà tôi cảm ơn vì những lời nồng hậu đã dành cho tôi lúc mở đầu thánh lễ trọng thể này. Tôi chào thăm các cộng tác viên của ngài, các linh mục thuộc Hiệp hội Linh mục Thừa sai Thánh Carlo Borromeo, những vị đã được trao phó việc chăm sóc mục vụ cho giáo xứ này từ năm 1997, và hôm nay được đại diện bởi Đức ông Massimo Camisasca, Bề trên Tổng quyền.
Tôi chào các Nữ tu Dâng hiến Tình yêu Thiên Chúa cùng các Nữ tu Thừa sai Thánh Carlo, những người đang phục vụ cách tận tụy trong cộng đoàn này; và tôi cũng gửi lời chào đến tất cả các nhóm thiếu nhi, giới trẻ, các gia đình và người cao tuổi đang làm sinh động đời sống giáo xứ.
Tôi thân ái chào các phong trào và nhóm hội trong Giáo hội hiện diện nơi đây, trong đó có Giới trẻ khát khao Mẹ Maria, Hiệp thông và giải phóng, Canh tân Đặc sủng Công giáo, Huynh đoàn Thánh Maria của các Thiên thần, và Nhóm Thiếu nhi Têrêsa nhỏ.
Tôi cũng muốn khích lệ tất cả những ai, cùng với Caritas giáo xứ, đang nỗ lực đáp lại nhiều nhu cầu của khu vực này, nhất là những mong đợi của những người nghèo nhất và thiếu thốn nhất.
Sau cùng, tôi xin chào thăm các vị lãnh đạo và những nhân vật đã mong muốn hiện diện trong cộng đoàn phụng vụ của chúng ta hôm nay.
Anh chị em thân mến, hôm nay chúng ta đang sống một ngày đánh dấu thành quả của biết bao cố gắng, lao nhọc và hy sinh, cũng như sự dấn thân của cộng đoàn trong việc xây dựng chính mình trở thành một cộng đoàn Kitô hữu trưởng thành, khao khát có một nơi được dành riêng cho việc tôn thờ Thiên Chúa. Sự phong phú đặc biệt của những lời kinh và biểu tượng trong phụng vụ hôm nay giúp chúng ta hiểu được chiều sâu của điều chúng ta đang thực hiện.
Vậy, chúng ta hãy dừng lại đôi chút để suy niệm bài học mà các Bài đọc vừa công bố gửi đến chúng ta.
Bài đọc I trích từ sách Nơkhemia, một cuốn sách kể lại việc tái thiết cộng đoàn Do Thái sau thời lưu đày, phân tán và sau cuộc tàn phá Giêrusalem. Đây là cuốn sách nói về khởi đầu mới của một dân tộc, chan chứa hy vọng, dù vẫn phải đối diện với nhiều khó khăn nghiêm trọng.
Trong đoạn văn vừa nghe có hai nhân vật nổi bật: tư tế Étra và người giáo dân Nơkhemia, tương ứng là thẩm quyền tôn giáo và dân sự thời bấy giờ.
Bản văn mô tả khoảnh khắc trang trọng khi cộng đoàn Do Thái nhỏ bé được chính thức tái lập sau thời phân tán; đó cũng là thời khắc công bố lại Lề luật, nền tảng của đời sống cộng đoàn trong một bầu khí đơn sơ, nghèo khó nhưng đầy hy vọng. Dân chúng lắng nghe Lời Chúa trong một tâm tình thiêng liêng sâu đậm. Một số người đã bật khóc vì vui mừng khi lại có thể tự do nghe Lời Thiên Chúa, sau bi kịch Giêrusalem bị tàn phá và sau bao năm tưởng như lịch sử cứu độ đã khép lại.
Nhưng Nơkhemia đã nhắc họ rằng đây là ngày lễ, và để nhận được sức mạnh từ Chúa, họ phải vui mừng và tạ ơn Người vì những ân huệ đã lãnh nhận. Lời Chúa là sức mạnh và là niềm vui.
Chẳng phải Bài đọc Cựu Ước này cũng khơi dậy nơi chúng ta một xúc động sâu xa sao? Biết bao ký ức đang tràn ngập tâm trí anh chị em lúc này! Biết bao nỗ lực xây dựng cộng đoàn qua từng năm tháng! Biết bao ước mơ, bao dự phóng, bao khó khăn đã trải qua!
Thế nhưng, hôm nay chúng ta được diễm phúc công bố và lắng nghe Lời Thiên Chúa trong một ngôi thánh đường tuyệt đẹp, một nơi thuận lợi cho sự hồi tâm và khơi gợi niềm vui, niềm vui khi biết rằng không chỉ Lời Chúa hiện diện, mà chính Chúa cũng hiện diện ở đây: một ngôi thánh đường muốn trở thành điểm quy chiếu thường xuyên cho đức tin vững bền và cho nỗ lực xây dựng cộng đoàn hiệp nhất. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì những ân huệ của Người, và hãy cảm ơn tất cả những ai đã góp công như những người thợ lành nghề trong việc xây dựng ngôi thánh đường này và cả cộng đoàn sống động đang quy tụ trong đó.
Trong Bài đọc II, trích sách Khải huyền, một thị kiến diệu kỳ được thuật lại cho chúng ta. Dự phóng của Thiên Chúa dành cho Giáo hội và cho toàn thể nhân loại là một Thành Thánh Giêrusalem mới từ trời xuống, rạng ngời vinh quang Thiên Chúa. Tác giả mô tả thành thánh diệu kỳ ấy bằng cách so sánh nó với những bảo ngọc quý giá nhất, và cuối cùng khẳng định rằng thành ấy được xây trên nền tảng là chính các Tông đồ và sứ điệp của họ.
Qua điều này, Thánh Gioan muốn gợi cho chúng ta hiểu rằng chính cộng đoàn sống động mới là Giêrusalem mới đích thực, và cộng đoàn sống động ấy thánh thiêng hơn cả ngôi đền thờ vật chất mà hôm nay chúng ta long trọng cung hiến.
Và để xây dựng ngôi đền thờ sống động ấy, để xây dựng thành thánh mới của Thiên Chúa trong lòng thành phố của chúng ta, để xây dựng chính đền thờ là anh chị em, thì cần rất nhiều lời cầu nguyện, và cần tận dụng mọi cơ hội mà phụng vụ, giáo lý, cùng các hoạt động mục vụ, bác ái, truyền giáo và văn hóa đem lại, tất cả những điều đang giữ cho giáo xứ đầy tiềm năng này trẻ trung.
Ước gì việc chúng ta chăm sóc cho ngôi thánh đường vật chất, rảy nước thánh, xức dầu, xông hương, trở thành dấu chỉ và động lực để chúng ta ngày càng dành nhiều quan tâm hơn cho ngôi đền thờ là chính con người, được hình thành bởi anh chị em, những người giáo dân thân mến.
Sau cùng, đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe thuật lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với các môn đệ, và đặc biệt với Thánh Phêrô; một cuộc đối thoại tập trung hoàn toàn vào căn tính của Thầy Chí Thánh. Dân chúng đã cảm nhận được điều gì đó nơi Người: có người nghĩ Người là Gioan Tẩy Giả sống lại, kẻ khác cho rằng Người là Êlia trở về trần gian, số khác lại nói Người là Giêrêmia, nghĩa là họ đặt Người vào hàng ngũ các nhân vật tôn giáo vĩ đại.
Nhưng Thánh Phêrô, thay mặt các môn đệ, những người đã thân quen với Chúa Giêsu, tuyên xưng rằng Chúa vượt xa mọi ngôn sứ hay nhân vật tôn giáo lớn lao của lịch sử: Người chính là Đấng Mêsia, là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống. Và Chúa Kitô long trọng bảo với ông rằng: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy.”
Phêrô, một con người nghèo hèn, mang đầy yếu đuối, nhưng có đức tin đã trở thành tảng đá, bởi chính đức tin ấy gắn kết ông với Chúa Giêsu. Ông là tảng đá trên đó Giáo hội được thiết lập.
Qua đó, một lần nữa chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu Kitô mới là Tảng Đá vững chắc, trên đó đức tin chúng ta được xây dựng, và trên đó toàn thể Giáo hội, và vì thế, cả giáo xứ này được xây dựng. Chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu khi lắng nghe Kinh thánh, Người hiện diện và trở nên của ăn nuôi dưỡng chúng ta trong Bí tích Thánh Thể, Người cư ngụ trong cộng đoàn, trong đức tin của cộng đoàn giáo xứ.
Vì thế, mọi sự trong ngôi thánh đường này, và trong cộng đoàn Giáo hội, đều nói về Chúa Giêsu, đều quy hướng về Người, đều thuộc về Người. Và chính Chúa Giêsu quy tụ chúng ta vào trong đại gia đình Giáo hội vượt thời gian và không gian, trong sự hiệp thông mật thiết với Đấng Kế vị Thánh Phêrô, như tảng đá hiệp nhất.
Hành động của các Giám mục và linh mục, cũng như nỗ lực tông đồ và truyền giáo của từng tín hữu, đều nhằm loan báo và làm chứng bằng lời nói và đời sống rằng: Người, Con Thiên Chúa làm người, là Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu hướng dẫn cộng đoàn của anh chị em và làm cho cộng đoàn ngày càng trung thành với Tin mừng của Người; xin Người khơi dậy thật nhiều ơn gọi linh mục, tu sĩ và truyền giáo thánh thiện; và giúp mọi giáo dân biết quảng đại bước theo gương các thánh tử đạo Portuensi.
Chúng ta phó thác lời cầu nguyện vào bàn tay từ mẫu của Đức Maria, Nữ Vương Mân Côi. Xin Mẹ giúp cho lời trong Bài đọc I hôm nay trở nên hiện thực nơi chúng ta:
“Niềm vui của Chúa là sức mạnh của chúng ta” (x. Nkm 8,10).
Chỉ có niềm vui trong Chúa và sức mạnh của niềm tin vào Người mới có thể làm cho hành trình phát triển của giáo xứ anh chị em sinh nhiều hoa trái.
Và xin cho được như vậy!
Đức Bênêđictô XVI, Huấn dụ Chúa nhật 3 mùa Vọng năm A (16/12/2007) - Hãy vui luôn trong Chúa
Anh chị em thân mến,
“Gaudete in Domino semper … Anh em hãy vui trong Chúa luôn mãi” (Pl 4,4). Thánh lễ chúa nhật thứ Ba mùa Vọng mở đầu với những vừa rồi của thánh Phaolô, và vì thế được gọi là chúa nhật “Gaudete”. Thánh tông đồ khuyên nhủ các tín hữu hãy vui lên vì Chúa đến gần, nghĩa là việc Chúa trở lại trong vinh quang là một sự kiện chắc chắn và không trì hoãn. Giáo hội lặp lại lời mời đó vào lúc chuẩn bị mừng lễ Chúa Giáng sinh, và hướng mắt về Belem. Thực vậy, chúng ta trông mong đón chờ Chúa đến lần thứ hai, bởi vì chúng ta đã biết việc Chúa đến lần thứ nhất. Mầu nhiệm Belem mặc khải cho biết rằng “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Thiên Chúa gần gũi chúng ta, không chỉ theo nghĩa không gian và thời gian mà thôi. Chúa ở gần chúng ta bởi vì nói được là Người đã “kết hôn” với nhân loại: Người đã mặc lấy cho mình thân phận con nggười, đã lựa chọn sinh sống hoàn toàn giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, ngõ hầu chúng ta được trở nên giống như Người. Vì thế niềm vui Kitô giáo bắt nguồn từ việc xác tín rằng Thiên Chúa gần gũi, Người ở với tôi, Người ở với chúng ta, lúc vui và lúc buồn, lúc khỏe mạnh và lúc ốm đau, như một người bạn chung thuỷ. Và niềm vui vẫn tồn tại ngay cả lúc thử thách, trong lúc đau khổ, và nó không ở hời hợt bên ngoài nhưng nằm sâu trong con người nào tín thác vào Thiên Chúa.
Có người tự hỏi: ngày nay còn có thể vui được nữa không? Câu giải đáp có thể tìm thấy ở cuộc đời của biết bao nhiêu người, nam nữ, thuộc mọi lứa tuổi và điều kiện xã hội, đã hiến mình cho tha nhân! Chân phúc Teresa Calcutta chẳng phải là một chứng nhân của niềm vui chân chính của Tin mừng vào thời đại chúng ta đó sao? Linh hồn của mẹ đã trải qua cuộc thử thách của đêm tối đức tin, thế nhưng mẹ đã trao tặng cho hết mọi người nụ cười của Thiên Chúa. Chúng ta đọc thấy một đoạn do mẹ viết như sau: “Chúng ta náo nức chờ đợi thiên đàng, nơi có Thiên Chúa, nhưng chúng ta có khả năng sống trong thiên đàng ngay từ đời này, ngay từ lúc này. Sống hạnh phúc với Thiên Chúa có nghĩa là yêu như Chúa, giúp đỡ như Chúa, ban phát như Chúa, phục vụ như Chúa”. Đúng vậy, niềm vui tràn vào trái tim của kẻ nào đi phục vụ những người nghèo hèn bé nhỏ. Nơi kẻ nào yêu thương như vậy, thì Thiên Chúa đến ngự trong họ và linh hồn được an vui. Trái lại, nếu ai tôn thờ sự hoan lạc như một thần tượng, thì họ đã lạc lối và khó tìm gặp niềm vui mà Chúa Giêsu nói đến. Tiếc rằng đó lại là chủ trương của văn minh thời này, muốn đặt hạnh phúc thay chỗ cho Thiên Chúa. Não trạng này phản ánh nơi việc tìm kiếm khoái lạc bằng hết mọi giá, nơi việc quảng bá sử dụng ma tuý, nơi việc đi tìm những thiên đàng trần gian; thế nhưng rút cuộc tất cả đều là hão huyền.
Anh chị em thân mến, người ta cũng có thể lạc lối khi mừng lễ Chúa Giáng sinh, khi lẫn lộn lễ chân chính với một lễ không mở cửa lòng cho niềm vui của Chúa. Nguyện xin Mẹ Maria giúp cho tất cả các Kitô hữu và những ai đang tìm kiếm Thiên Chúa, được đến Belem để gặp gỡ Hài nhi giáng sinh cho chúng ta, cho ơn cứu độ và hạnh phúc cho tất cả mọi người.
Sau khi ban phép lành Toà Thánh, đức thánh cha đã gửi lời chào thăm các thiếu nhi đến quảng trường thánh Phêrô mang theo tượng Chúa Hài đồng để được chúc lành trước khi đặt trong hang đá gia đình. Ngài cũng không quên cám ơn các phụ huynh và giáo lý viên đã hợp tác trong việc cổ động tục lệ này, mang giá trị giáo dục đạo đức sâu đậm.
Như đã nói ở đầu, vào lúc 9 giờ sáng, đức Bênêđictô XVI đã đến thăm viếng một giáo xứ ở vùng ngoại ô Rôma, mang tước hiệu Đức Mẹ Mân côi Pompei và các thánh tử đạo Portuense. Cách đây 9 năm, đức Gioan Phaolô II đã đến viếng thăm cộng đoàn này, nhưng lúc ấy dân số chỉ mới có 7 ngàn dân, và thánh lễ được cử hành ngoài trời. Ngày nay dân số đã tăng lên gấp đôi, và ngôi thánh đường đã hoàn tất. Hôm qua là lễ cung hiến thánh đường. Hiện diện trong buổi lễ này, ngoài đức hồng y Ruini, tổng đại diện giáo phận Rôma còn có Bản quyền của hai giáo phận kết nghĩa với giáo xứ, đó là giáo phận Pompei (nơi có đền Đức Mẹ Mân côi), và giáo phận Fulda bên Đức (nơi lưu giữ hài cốt của ba vị thánh tử đạo Simplicio, Faustinô và Beatrice thuộc thế kỷ IV, được chôn cất trong lãnh điạ của giáo xứ).
Mở đầu bài giảng Thánh lễ, sau khi lặp lại lời mời gọi các tín hữu hãy sống trong niềm vui nhờ lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, đức thánh cha đã lần lượt rảo qua ba bài đọc của thánh lễ cung hiến đền thờ. Bài đọc thứ nhất thuật lại lễ tái cung hiến đền thờ Giêrusalem sau khi hồi hương. Ông Nemia đã hô hào mọi người hãy hân hoan vì lễ cung hiến. Tâm tình này cũng có thể áp dụng cho cộng đoàn giáo xứ hôm nay, bởi vì họ có quyền hân hoan nhân dịp khánh thành nhà thờ mới, sau bao nhiêu năm tháng đợi chờ và làm việc. Bài đọc thứ hai trích từ sách Khải huyền nói đến đền thánh Giêrusalem trên trời, hình ảnh của Hội thánh tương lai. Trên thực tế, đó là lý tưởng mà các cộng đoàn giáo xứ hiện tại đang muốn đạt đến, qua việc kiến tạo một ngôi đền thánh về tinh thần, nhờ công cuộc phụng tự, huấn giáo, các sinh hoạt bác ái, truyền giáo, văn hoá. Sau hết, bài Tin mừng thuật lại việc ông Simon Phêrô tuyên xưng đức tin vào đức Kitô là Con Thiên Chúa cũng là một bài học cho các tín hữu. Giáo hội là một cộng đoàn được xây dựng trên tảng đá đức tin của thánh Phêrô, tuyên xưng lòng gắn bó với Chúa Kitô, hiện diện giữa chúng ta qua việc công bố Lời Chúa, qua việc cử hành Thánh Thể, qua việc đoàn kết yêu thương sống tình liên đới và chung nhau làm chứng cho Tin mừng.
Tại một giáo xứ dâng kính Đức Mẹ Mân côi và các thánh tử đạo, Đức Bênêđictô XVI đã kết thúc bài giảng với việc giới thiệu đức Maria như tín hữu gương mẫu, cũng như gương các vị thánh tử đạo luôn sẵn sàng làm chứng nhân cho niềm hy vọng.
Nguồn:archivioradiovaticana.va
