THÂN XÁC
GIỮA TÔN VINH VÀ KHINH THỊ
Lữ Y Nguyễn
I. Suy
tư nhân học
- Nhiều người vẫn còn nghĩ lầm rằng Giáo hội
trong quá khứ đã không hiểu hay xem thường thân
xác con người, đặc biệt thường trấn áp những gì liên quan đến một chiều
kích quan trọng của con người: tính dục. Họ kết án Giáo hội đã khinh chê “xác
thịt” coi đó là dịp tội: đưa ra quá nhiều cấm kỵ về chủ đề ấy, và không biết đến
giá trị tích cực của khoái cảm và vai trò quan trọng hình thành nhân vị của nó.
- Đối với xã hội hôm nay thì sao? - Thân xác
đã lên ngôi. Có lẽ để phản ứng ngược lại và cũng vì luân lý kitô giáo không còn
thống trị ở phương tây nữa, xã hội hôm nay lại tôn vinh đến phát ngán hình ảnh thân xác, đặc biệt qua các
phương tiện truyền thông đại chúng những hình ảnh thân xác đẹp, trẻ trung, hừng
hực, gợi thèm muốn được triển lãm, ca tụng, quảng cáo. Một xác thân thèm muốn
và gợi thèm muốn! Tuy nhiên cũng xuất hiện nhiều lý thuyết và kỹ thuật nhằm đến
đối tượng là thân xác nhưng tìm cách phát huy hay khôi phục lại sự thống nhất
hài hòa thân xác và tinh thần. Có thể thấy điều đó nơi các nghệ thuật múa hiện
đại, yoga, võ thuật… Tất cả mọi nguồn mạch còn ẩn dấu trong thân xác con người
đang được chính con người tìm kiếm, khảo sát nhằm đi tìm hay tìm lại một cảm
giác hài hòa, an lạc. Có người nói:
Các bạn hãy ý thức về thân xác của mình: nó
thay đổi, trở nên hữu hiệu, đẹp đẽ, và thế là cả cách suy nghĩ của các bạn cũng
thay đổi theo.
Dù các bạn là ai, nếu muốn thay đổi chính
mình, hãy bắt đầu từ thân xác của các bạn.
Điều quan trọng là biết “kiểm soát mọi cảm xúc
tiêu cực: ghen tương, giận dữ, tỵ hiềm, v.v… Và như thế nhờ những kỹ thuật
thích hợp sẽ chẳng còn tội lệ gì nữa (sic!).
- Thân xác, để làm gì, cho ai?
Thế nhưng trong tất cả những kỹ thuật hay nghệ
thuật về thân xác này, trung tâm của mọi sự chú ý là bản thân (the self) và cảm
giác (hài hòa, an lạc) của nó. Chúng tiếp nối chủ nghĩa cá nhân. Thế nhưng vẫn
còn bị che dấu đi một thực tế: đó là thân xác già nua lọm khọm hay đau đớn bệnh
tật và tiến dần đến cái chết, một thực tế chung không thể chối bỏ ứng nghiệm
cho mọi sinh vật. Vậy nên thân xác phải mang hai thái cực: vui thú và đau khổ.
Một câu hỏi nảy sinh: vậy giữa hai cực tôn
vinh và khinh chê ta nên đặt thân
xác ở giá trị nào? Ta nên thiết lập quan hệ như thế nào cho thích hợp giữa thân
xác của ta với thân xác của người khác? Đâu là nền tảng cho một quan hệ đúng,
thích hợp?
II.
Thân xác là gì?
- Là một
vật giữa muôn sự vật.
Thoạt trông thân xác là một vật giữa muôn vật,
và như thế nó bị giới hạn, ảm đạm; nó có thể được mô tả, phân tích theo
lý-hóa-sinh học.
Thân xác tôi đặt ra giới hạn cho tôi. Nhất là
bởi nó là lý do khiến tôi không thể có mặt đồng thời ở đây và ở kia.
Hơn nữa nó vạch ra một biên giới giữa bên
trong và bên ngoài tôi. Biên giới ấy là da thịt tôi. Cái “túi” da thịt ấy chứa
đựng tôi, nhốt kín tôi, cô lập tôi, tách biệt tôi ra với thế giới bên ngoài. Thế
nhưng nó cũng đồng thời là cái bề mặt của tôi tiếp xúc với thế giới bên ngoài,
với người khác, với những gì khác với cái tôi, và với cả Thiên Chúa là Đấng
Khác, Hoàn Toàn Khác. Thế đó chúng ta đã chạm tới giá trị lưỡng diện căn bản của thân xác, vừa tiêu cực vừa tích cực.
Mặt trái, nó đóng kín tôi lại, và mặt phải, đồng thời nó mở ra cho tôi cái khả
năng quan hệ với người khác. Theo một nghĩa nào đó, thịt da tôi là bộ mặt xã hội của tôi.[1]
Bị giới hạn trong không gian, nhưng thân xác
tôi còn được đặt ở trong thời gian, như thế thân xác con người thành ra có một
lịch sử. Có thể nói rằng trong thân xác chúng ta lịch sử cá nhân của chúng ta
được thầu về một mối, khi ta sống cũng đồng thời là ta đang tạo ra lịch sử của
ta. Những nếp nhăn nheo ngày càng ghi dấu nhiều trên da thịt ta chính là những
dấu chỉ rành rành của lịch sử này.
Như thế đó, thân xác là khí cụ cho tôi hiện diện trong thế giới, đúng hơn phải nói rằng
không có nó tôi không thể hiện hữu như là một người. Nó là một khí cụ đặc biệt,
kỳ diệu giúp tôi hiện diện với thế giới, như tâm tình của thánh vịnh gia:
“Công trình của Người xiết bao kỳ diệu
Và hồn tôi biết rõ mười mươi.” (Tv 139, 14)
Làm sao định nghĩa thân xác đây? Có thể tạm
nói thế này: thân xác là cái mà trong đó và nhờ đó con người sống một cuộc sống
như nhân vị, nghĩa là thực thi và bộc lộ sự tự do của mình trong tương
quan với chính mình, với người khác, với thế giới và với Thiên Chúa.
Thân xác là cái làm cho mỗi người trở nên một hữu thể có tương quan, và có lẽ không thể nói gì quan yếu hơn nữa.
Chính trong thân xác của tôi và với thân xác của tôi mà tôi yêu, hưởng, đau đớn,
lao động, cầu nguyện. Nói vắn tắt, tất cả phải đi qua thân xác này.
- Nhưng
là một vật không giống như mọi sự vật khác.
Thoạt trông thân xác là một vật giữa muôn sự vật,
thế nhưng, thân xác là một sự vật không
như những sự vật khác mà là một thực tại đặc biệt. Nó đặc biệt vì hai lý
do. Trước hết, khi nói về thân xác tôi, tôi không thể nói: “Tôi là thân xác tôi”, và cũng không thể nói
“Tôi có thân xác tôi”. Bởi lẽ rõ ràng
là tôi còn là cái gì hơn nữa chứ không chỉ là thân xác tôi cho dù tôi không thể
tồn tại mà không có nó. Và cũng không thể nói: “tôi có thân xác tôi” bởi vì
thân xác tôi không ở ngoài tôi, tôi thực sự không thể biết ai sẽ là chủ thể của
động từ “có” này.
Kế đến, thân xác con người đặc biệt hơn mọi sự
vật khác và duy nhất ở chỗ trong quan hệ với xác chết, xác của người đã chết và
điều này được quan sát thấy trong hết mọi nền văn hóa trên thế giới. Có thể
nói, con người là con vật biết mai táng đồng loại quá cố của mình. Hoặc, con
người là con vật biết nhớ đến những kẻ nó đã từng sống với và đối xử với họ như
đối với những người mà một cách nào đó vẫn còn tồn tại. Nghi thức an táng, nói
chung ở đâu cũng vậy, dường như nói lên hai điều sau đây: hiện hữu là một bi kịch
và niềm hy vọng còn mờ mịt của những kẻ còn sống. Bi kịch là vì cái chết, dù có
êm ái và tự nhiên đến đâu, cũng luôn là một sự cắt đứt, chia lìa vĩnh viễn với
người thân yêu: nó bắt đầu một “từ nay mãi mãi không còn nữa”. Nó “chiếu tướng”
mọi con người và thực sự đem đến nỗi tan hoang, buồn phiền. Và vì thế nó hiện
lên ở đáy sâu của mọi nỗi sợ hãi của ta. Thế nhưng, sự kiện con người ta an
táng thi hài kẻ quá cố cũng nói lên một niềm
hy vọng nào đó rằng không phải tất cả đã chấm dứt. Trong tâm tư những người
còn sống, dường như kẻ quá cố kia còn sống cách nào đó nhưng hiện hữu của họ
không còn giống như ta. Đủ hiểu nếu cứ nhìn vào sự kiện ở một số nền văn hóa
người ta ướp xác chết như để giữ tối đa nó khỏi bị phân rã. Hoặc mỗi khi nghe
thấy một mộ phần ai đó bị quật phá tàn nhẫn, hay một hố chôn tập thể được phát
hiện, những hình ảnh ấy để lại tình cảm gì trong mỗi ngươi chúng ta? Thế nên,
thân xác con người, kể cả một thi hài tức là xác thân của một người đã chết,
không phải là một vật như mọi sự vật khác.
Thân xác, như đã nói, là khí cụ để cho tôi hiện
diện với thế giới, nhưng, sự hiện diện ấy không chỉ là của một đồ vật, mà đã
thuộc trật tự tâm linh (hay thiêng liêng). Ở ta người xưa đã nói:
“Nhân linh ư vạn vật”.
Thân xác của tôi là cái mà nhờ đó tinh thần
(hay tâm linh) của tôi được biểu lộ ra trong thế giới, tạo hình thế giới và
cũng để mình tự chuyển hóa bởi thế giới.
Thân xác như là khí cụ của tinh thần hay tâm linh.
Có lẽ hơn thế nữa, phải nói rằng: thân xác thân xác có là để cho tinh thần được biểu lộ
ra.
- Bàn
tay con người – con vật đứng thẳng – được giải phóng khỏi nhiệm vụ di chuyển
của con vật có tứ chi để có thể làm được rất nhiều nhiệm vụ khác. Thánh Thomas
Aquino có một câu nói thú vị: “Cái làm nên con người là tinh thần (khối óc) và
bàn tay”. Bàn tay quả thật là một trong những dấu chỉ ấn tượng nhất của trí
thông minh. Với chính bàn tay con người thống trị và thực thi uy quyền của mình
trên thế giới. Đúng hơn, con người là “tạo hóa” của thế giới nhờ phát kiến ra
các dụng cụ, như là những bàn tay nối dài của nó. Bàn tay con người như là người
thợ thủ công của khối óc. Chính nhờ bàn tay mà mọi sản phẩm của lao động, khoa
học, nghệ thuật, văn hóa, theo một nghĩa nào đó, đã nối dài thân xác con người
ra trong thế giới. Thế giới mang đậm nhân tính, thế giới của văn hóa quả thật
là thân xác con người nối dài. Không phải chỉ vì ta bén rễ trong thế giới này
qua những gì là thuộc sinh học và bản năng ở trong ta, tức thuộc phần con vật,
nhưng hơn nữa còn là vì đây là ơn gọi của ta: tạo thành được giao phó cho con
người để làm cho thế giới tự nhiên (nature) này trở thành một thế giới văn hóa
(culture) tức là được vun trồng nhờ bàn tay con người, bàn tay mà nhờ đó con
người biểu lộ ra như là tinh thần và là tạo
hóa.
- Khuôn
mặt là dung mạo con người. Các nhà nhân chủng học cho ta biết rằng chính
bàn tay giúp dung mạo con người xuất hiện. Với bàn tay con người có thể tóm lấy
được thực phẩm và khuôn mặt được giải phóng khỏi những chức năng tấn công con mồi
như các động vật khác để chiếm hữu cái ăn. Mặt người không còn giống mặt con vật
mà tiến hóa dần trở nên diện mạo người với đặc trưng riêng của nụ cười và ngôn ngữ. Chính qua ngôn từ đứa bé dần trở nên người. Qua ngôn từ
con người mở ra với thế giới, và từ đó có những gặp gỡ, quan hệ người với người
và đối thoại. Mà ngay cả thế giới tư duy cũng vậy: con người không thể tư duy
mà không có ngôn ngữ.
- Cũng thế, tính dục con người, dù giống con vật nhưng có gì hơn thế nữa, vì đó
là một thứ ngôn ngữ của thân xác để nói một
điều gì hơn là thân xác. Thân xác được phân giới tính, là nam là nữ, có như
thế là để cho tinh thần bộc lộ ra ở đó. Sự khác biệt và hấp dẫn giới tính tự
nhiên giữa nam-nữ nói lên một điều gì đó của tinh thần. Hướng đến hiệp nhất từ
khác biệt và trong khác biệt, mãi mãi là một tiến trình không dứt.
Một con người thống nhất.
Từ suy tư về thân xác con người, nổi lên ý tưởng
rằng con người ta là “một” thể thống nhất không thể tách biệt xác và hồn (thân
xác và tinh thần).
Thân xác, theo tư tưởng Do thái – kitô giáo,
không là một yếu tố ngoại tại, mà tinh thần có thể huỷ diệt đi hoặc xuất hành
khỏi tù ngục đó như kiểu suy nghĩ nhị nguyên, nhưng là phần cốt yếu của hữu thể
người. Thân xác và tinh thần hợp nhất làm một khi hiện hữu giống như thể âm
thanh phát ra của lời và ý nghĩa của nó là một khi nói. Tinh thần không bao giờ
có được nếu thiếu thân xác: tinh thần bao giờ cũng là một tinh thần nhập thể
trong một thân xác (bodily or embodied spirit). Và thân xác thiếu tinh thần sẽ
trở nên là một xác chết: thân xác bao giờ cũng là thân xác có tâm linh
(spiritual body). Trong cuộc sống con người thuộc thế giới này, tất cả đi qua
thân xác, tất cả diễn tả bởi thân xác. Cả trong những hành vi tâm linh cao nhất
như cầu nguyện, luôn luôn có thân xác ở đấy với những yêu sách của nó, giới hạn
ràng buộc của nó, và cũng nhờ nó ta mới thực hiện được hành vi ấy. Không phải
chỉ có tinh thần cầu nguyện mà toàn thể con người cầu nguyện.
Thế nhưng sự thống nhất ấy nơi con người ta
luôn mỏng manh, thường có vấn đề, và phải liên tục tiến hành lại luôn, và không
được chối bỏ nhiệm vụ này nếu muốn vẫn là người và là người hơn mỗi ngày. Vì
trên nẻo đường ấy, nẻo đường đi tìm về sự thống nhất hài hòa, tinh thần chính
là yếu tố cầm trịch, dẫn dắt điệu nhảy. Đích điểm của cuộc chơi đó là làm sao
thực hiện viên mãn ngã vị (person) của ta. Đó là một nhiệm vụ mà cũng là một lựa
chọn: nếu ta không kiên nhẫn làm việc để tinh thần làm chủ trong ta, thì ta sẽ
bị cống nạp cho những xung năng tự nhiên hỗn loạn. Thánh Agostino: “Nếu anh em
không trở nên tinh thần hơn ngay trong thân xác anh em, anh em sẽ trở thành nhục
thể cả trong tinh thần anh em”.
III.
Suy tư theo mặc khải Thánh kinh
- Theo
Cựu ước. Con người theo Thánh Kinh không bao giờ đối
kháng xác với hồn. Theo thánh vịnh gia:
“Hồn tôi mong ước đến hao mòn, hướng về tiền
đường Yavê,
Lòng tôi, xác tôi reo lên, tới Thiên Chúa hằng
sống” (Tv 84, 3).
Nỗi khát khao mong được “nhìn ngắm” Thiên Chúa bằng
chính xác thịt mình hay trong thân xác mình tỏ bày xuyên suốt cuốn Thánh
Kinh.
Ông Gióp khi xác nhận niềm tin phục sinh của
mình diễn tả sự phục sinh của một con người toàn diện:
“Tôi biết rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng sống,
Và ngày tận cùng, tôi sẽ đứng dậy từ bụi đất…
Và trong thịt xương này, tôi sẽ được chiêm ngắm
Thiên Chúa” (G 19, 25-26).
Môsê cầu khẩn Yavê: “Xin cho tôi thấy vinh
quang Ngài” (Xh 33, 18).
Philiphê nói với Đức Giêsu: “Xin tỏ cho chúng
con thấy Cha”. Đức Giêsu trả lời ông dùng cùng những từ ngữ đó: “Ai thấy ta là
đã thấy Cha” (Ga 14, 8-9).
Điều đó cho thấy không có cách nào khác nhìn
thấy Thiên Chúa ngoài cách mà chúng ta nhìn ngắm Đức Giêsu. Thế nhưng, đối với
chúng ta là con người thời đại hôm nay, Đức Giêsu cũng không còn hữu hình đối với
con mắt xác thịt của chúng ta. Không ai còn thấy người trên các nẻo đường. Vì
thế chúng ta phải xác lập một cái nhìn mới để nhận ra Người những nơi mà xem ra
Người không có, nhưng, theo lời Người đã nói, Người thực sự có đó: nơi mọi con
người nhất là những người nghèo khốn khổ mạt hạng. Đó là một cái nhìn huyền
nghiệm trong Thân Thể mầu nhiệm, đặc biệt nơi các chi thể đang chịu đau khổ, của
Người.
Người tây phương thường có xu hướng hình dung
việc suy tư và cầu nguyện diễn ra trong đầu óc, nhưng con người trong thánh
kinh lại nói: “Thiên Chúa dò thấu lòng dạ can trường” (Tv 7,10).
Thân xác con người thường được dùng bằng nhiều
cách để nói về Thiên Chúa. Như khi người ta nói cánh tay Thiên Chúa, là nói kỳ
công của lòng dũng cảm của sức mạnh Người; hay tiếng nói của Thiên Chúa để chỉ
Người kêu gọi và an ủi; nói về trái tim hay là lòng dạ Người là muốn nói tình
yêu, sự âu yếm, đại lượng tha thứ của Người; hay nói về ruột lòng của Người “đảo
lộn bên trong” (cf. Hs 11,8) diễn tả mối chạnh thương. Làm thế dĩ nhiên có nguy
cơ rơi vào thuyết nhân hình nghĩa là tạo ra một Thiên Chúa theo sự hình dung của
con người. Nhưng làm sao nói về Thiên Chúa đây mà không dùng lời lẽ của con người
và bắt đầu từ kinh nghiệm con người?
Nói cho ngay tác giả thánh kinh không hề là nạn
nhân của những tưởng tượng ấy; ông không lẫn lộn chúng với thực tại. Có hai lý
do: trước hết, để tránh nguy cơ thuyết nhân hình người do thái cấm tuyệt đối mọi
cách tạc hình khắc tượng có ý gán cho Thiên Chúa những diện mạo bề ngoài như
thân xác con người. “Ngươi chớ khắc hình tạc tượng” là một giới răn muôn đời.
Có ý muốn bảo vệ siêu việt tính của Thiên Chúa, Thiên Chúa hoàn toàn khác chúng
ta. Kế đến, là cách thức mà tác giả thánh kinh dùng để mô tả Thiên Chúa Tạo
Hóa. Trong khi nơi các tôn giáo khác qua các huyền thoại ta thấy các vị thần
nam, thần nữ sinh sản trong trò chơi ái tình, đó là do kinh nghiệm tình dục và
óc tưởng tượng con người đã chuyển vị qua thần thánh; ngược lại hoàn toàn,
Thiên Chúa của Thánh Kinh không sinh sản nhưng tạo dựng vượt trên biên giới của
giới tính, không bị khống chế bởi dục tình. Không sản sinh con người: dân của
Người là dân được chọn, được nhận, là con nuôi.
Tạo dựng con người, trong sách Sáng thế ký,
còn nói một điều nữa, đó là: thân xác con người vốn “từ bùn đất” – một điều giải
thích rõ cội rễ chúng ta từ đất từ thế giới này – một thân xác hay hư nát giống
như mọi sinh vật khác, lại có điểm đặc biệt này: là thọ tạo duy nhất được nói
là được tạo thành theo hình ảnh, theo họa ảnh của Thiên Chúa. Điều đó chỉ đến một
ơn gọi, một sứ mạng. Con người mà Thiên Chúa tạo dựng không phải là một sản phẩm
đã hoàn tất nhưng còn phải tiếp tục được thành tựu, và được giao phó việc định
hình chính bản thân mình trong tay mình. Đó là con người sáng tạo, như Thiên
Chúa, mà trước hết là tự sáng tạo chính mình. Một con người mà đỉnh cao cần phải
đạt tới là chính Đức Giêsu. Bởi lẽ Ađam không phải là con người hoàn hảo, mà chỉ
là hình bóng của những gì sẽ tới. Con người hoàn hảo thành tựu là Đấng mà
Phaolô gọi là Ađam mới, Đức Kitô. Khi nghĩ về mối tương quan giữa hai Ađam, con
người và Đức Kitô, các giáo phụ hy lạp đã bình giải rất hay: khi tạo dựng con người, Thiên Chúa nghĩ đến
Đức Kitô, như là thành tựu phải hướng tới cho Ađam thuở ban đầu, mới chỉ là
bản phác thảo.
- Theo
Tân ước. Ở trung tâm của đức tin và nguồn mạch kitô
giáo người ta thấy không những Thiên Chúa tạo dựng thân xác con người, mà hơn nữa,
chính Người đã không khinh chê mà đảm nhận lấy thân xác ấy với thân phận giới hạn,
yếu đuối, mỏng manh, dễ hư nát nghĩa là phải chết. Người đảm nhận, không phải để
rồi để mặc nó, mà để thần hóa nó, tức là làm cho nó nên sáng láng rực rỡ bằng sự
hiện diện của Người.
“Đức Kitô là Thiên Chúa làm người, để con người
được làm Thiên Chúa” (Irênê, giám mục Lyon thế kỷ II).
Như thế, Đức Kitô mặc khải trọn vẹn cho ta
không những về Thiên Chúa mà còn về con người. Ngài cho ta thấy thế nào là con
người hoàn hảo, có tương quan đúng đắn với chính mình với người khác với thế giới
và với Đấng mà Ngài gọi là Cha.
Thư gửi tín hữu Do thái nói với ta về Đức Kitô
như sau: Ngài “giống chúng ta trong mọi sự chỉ trừ tội lỗi” (Dt 4,15) và thường
chúng ta nghĩ khoảng cách biệt ấy phải lớn lắm. Nhưng thực ra chính tội lỗi là
cái ngăn cản ta làm người trọn vẹn, nghĩa là một thân xác được tác động hoàn
toàn bởi thần khí.
Do đó Đức
Kitô phục sinh là mặc khải viên mãn về con người. Và Ngài chỉ cho con người
biết ơn gọi của mình. Dạy cho ta biết ta từ đâu đến và đi đâu, đặc biệt nói với
ta thân xác con người được mời gọi trở nên cái gì. Chúng ta chỉ có thể nói về ơn
gọi này khởi đi từ suy tư về một trọng tâm của đức tin, đó là sự phục sinh của
Đức Kitô.
“Nếu Đức Kitô không sống lại thì đức tin của
chúng ta là trống rỗng, vô ích, không có nội dung” (1 Cr 15,16).
Chúng ta chỉ có thể nói về tương lai thân xác
của mình bắt đầu từ duy một con người sống lại, kẻ duy nhất đã chạm đã biết tới
cái chết, và ngang qua đó đã sống lại và sống một cuộc sống mới không còn biết
đến cái chết nữa. Thật ra chúng ta không thể nói gì về sự sống lại của Đức Kitô
vì không ai làm chứng nhân cho sự ấy cả, mà chỉ cho những lần Đức Kitô phục
sinh ấy hiện ra.
- Thân
xác có thần khí.
Thân xác của Đấng Phục Sinh vượt thoát những
giới hạn của không-thời gian. Hay ta có thể nói đó là một thân xác có những thuộc
tính của thần khí, và vì là thần khí, thân xác ấy vượt thoát mọi nắm bắt. Thánh
Phaolô nói về thân xác có thần khí (sôma
pneumatikón: 1Cr 15,44) một cách rất bạo dạn. Nhưng ngài không thể diễn tả
tốt hơn sự thống nhất xác-thần: sự thống nhất xác-thần của Đức Kitô Phục Sinh
là chính cái đích ta được mời gọi tới.
Có thể nói hay chăng: có một thân xác con người – đã chuyển hóa, thần khí hóa, nhưng vẫn là thân xác – trong Ba Ngôi thần linh chí thánh? Bởi vì sự nhập thể của Thiên Chúa, trong mầu nhiệm Đức Kitô, nghĩa là, cuộc xuống thế trong một thể xác con người của Ngài, là vĩnh viễn không thể đảo ngược. Thế nên, khẳng định rằng Đức Kitô vẫn đang sống trong thân xác Ngài, cũng là xác định một nền tảng chắc chắn cho phẩm giá – vô điều kiện – của mỗi con người, mỗi thân xác con người, do đó phải được tuyệt đối kính trọng. Nói thế nghĩa là, thân xác chúng ta vốn từ nay, dù một cách âm thầm ẩn dấu và còn chưa hoàn hảo, là đền thờ của Chúa Thánh Thần, được mời gọi sống trong viên mãn Thần Khí đó. Như thế nói “xác sống lại” là chưa đủ bởi lẽ đó là sự sống lại của con người toàn thể, xác-hồn.
Như thế cần phải nói rằng ở bên kia cái chết,
khi ta được phục sinh cùng với Đức Kitô, thân xác chúng ta sẽ được đưa tới
thành tựu cuối cùng của nó, và sẽ hoàn tất viên mãn chức năng làm khí cụ hiện
diện của nó: hiện diện với Thiên Chúa, với nhau người này người kia trong một
quan hệ trong sáng, hiệp thông trọn vẹn. Những quan hệ tình yêu tình bạn hạnh
phúc nhất bây giờ mới chỉ là phác thảo của sự viên mãn kia.
- Thân
xác chịu đau khổ, mặc khải sự tự do
Khởi đi từ Đức Giêsu đứng trước sự đau khổ, của
chính Ngài và của con người. Đức Giêsu không phải là một siêu nhân, mà là một
con người như ta, với một xác thân như ta biết đến mệt nhọc, thương tích, và phải
chết. Thân xác Ngài cũng từng là một thân xác chịu đau khổ, dù biết rằng khổ
đau tự nó chẳng có chút giá trị gì. Điều làm nên giá trị của cái chết của Đức
Kitô không phải tất cả những nỗi đớn đau Ngài phải chịu. Nhưng giá trị làm nên ở
chỗ Ngài đã biến cái chết ấy, cái chết mà Ngài biết không thể tránh khỏi và
đang đến do định tâm của một vài người và là hệ quả mà Ngài không tìm cách trốn
chạy của việc Ngài đã nói và đã làm, trở thành một ân ban tự do. Chính lúc người ta sắp xử tử Ngài nói:
“Bởi điều này mà Cha yêu mến ta: vì ta hiến
ban mạng sống mình… Không ai có thể tước đi mạng sống ta… ta có quyền hiến ban
và có quyền lấy lại” (Ga 10, 17-18).
Ngài đã làm cho sự sống hiến ban cách tự do ấy
trở nên là dấu chỉ của tình yêu lớn nhất. Nếu đau khổ tự nó chẳng có giá trị
gì, thì Đức Giêsu chỉ cho chúng ta biết phải làm gì với đau khổ khi nó đến. Nên
hiểu cho rõ điều này: cũng như những gì đã xảy ra với Đức Kitô, nơi thân xác
đau đớn, bệnh tật, thương tích của chúng ta cũng thế, nó mặc khải cho ta biết rằng
con người là tự do. Vậy khi gặp đau đớn
bệnh tật hay yếu liệt của tuổi cao, tôi phải làm gì? Phản kháng hay nổi loạn ư?
Hay tôi phải chiến đấu, nhưng tôi phải đón nhận thực tế ấy với thái độ nào? Tôi
sẽ cam chịu định mệnh cầm chắc, hay tôi sẽ cho nó một ý nghĩa mà thoạt trông nó
không có? Dường như trong hoàn cảnh giới hạn của một thân xác đau khổ tầm vóc lớn
lao vô định của sự tự do mới được bộc lộ ra. Chính đây thực sự sự vĩ đại của
con người được phác họa ra, nghĩa là, ý nghĩa không nằm nơi sự vật mà chính do
ta ban cho nó một ý nghĩa.
Kết luận
Trước câu hỏi phải tôn vinh thân xác hay khinh
thị nó, chúng ta quay sang nhìn ngắm Ngôi Lời làm người đã đảm nhận một thân
xác người không phải để mà phô bày ra những giàu sang đài các của nó, nhưng để
gặp gỡ con người, để hiện diện, để mình được những người nghèo hèn mọn nhìn ngắm,
lắng nghe và chạm tới. Như thánh Gioan đã nói:
“Điều chúng tôi đã nghe, mắt chúng tôi đã thấy
và chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm tới, đó là Ngôi Lời sự sống… chúng
tôi loan báo cho cả anh em nữa” (1Ga 1,1-3).
Vậy nên chúng ta có thể trả lời cho câu hỏi
thân xác để làm gì, để cho ai? Rõ ràng là thân xác của Đức Giêsu là một thân
xác cho người khác, một khí cụ để hiện diện huynh đệ với con người, một thân
xác bị phơi bày, trao nộp, không chỉ là dụng cụ để hiện diện nhưng là bí tích của
sự kiện Ngài hiện diện như một hy lễ. Chúng ta cũng có thể và phải như thế.
Kitô hữu, kẻ đã được nhúng thân thể mình trong giếng rửa tội một cách biểu
trưng như nhúng vào cái chết của Đức Kitô, thân xác mang ý nghĩa bí tích của gặp gỡ: trong tình yêu, tình
bạn, trong phục vụ huynh đệ.
Dĩ nhiên, ta
không hờ hững với sự kiện một thân xác đẹp, tinh tế, hài hòa. Thế nhưng điều
đáng quan tâm hơn, đó là nơi tỏ lộ một vẻ đẹp lớn nhất, không phải cái đẹp của
một đồ vật mà của một thực tại sống nhờ đó một tinh thần bộc lộ điều gì đó của
một cái gì hiện hữu, cho dù là một cái đẹp chóng qua, mong manh yếu đuối nhưng
quý giá. Tuy nhiên một xác thân già nua, thương tích, bệnh hoạn, tật nguyền
cũng có thể là một khí cụ của sự hiện diện, và như thế bộc lộ ra vẻ đẹp thực sự
của nó là chính vẻ đẹp của bí tích gặp gỡ huynh đệ; và thân xác cho dù tàn tật
là nơi để tinh thần có thể biểu lộ, trong cái yếu nhược của xác thịt.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 66 (Tháng 7 & 8
năm 2011)
[1] Các bác sĩ da liễu biết rõ tương quan hiện có
giữa một số căn bệnh da liễu và những khó khăn của quan hệ.