Sắc chỉ mà Đức giáo hoàng Phanxicô công bố Năm Thánh 2025 được dành cho chủ đề hy vọng.[1] Ngỏ lời với tất cả mọi người, đặc biệt là những nơi sự sống đang bị đe dọa, Đức giáo hoàng nhắc lại giá trị ngàn đời của nhân đức thiết yếu này, quan trọng đối với tất cả mọi người bất kể hoàn cảnh của họ. Đồng thời, hy vọng cũng là nguồn gốc của sự bất định và đau khổ, vì nó gắn liền với những điều chúng ta không thể kiểm soát: “Mọi người đều biết hy vọng là gì. Trong trái tim của mỗi người, hy vọng cư ngụ như một khát khao và mong đợi những điều tốt đẹp sẽ đến, dù chúng ta không biết tương lai sẽ mang lại điều gì. Tuy nhiên, sự bất định về tương lai đôi khi có thể gây ra những cảm xúc trái ngược, từ niềm tin vững chắc đến sự lo lắng, từ thanh thản đến bất an, từ xác tín mạnh mẽ đến do dự và nghi ngờ. Chúng ta thường gặp những người chán nản, bi quan và hoài nghi về tương lai, như thể chẳng có điều gì có thể mang lại hạnh phúc cho họ” (SNC 1).

Đối với Đức giáo hoàng, Năm Thánh là một lời mời gọi đổi mới hy vọng, đặc biệt trong những thời điểm thử thách. Ngài kêu gọi chúng ta đón nhận câu nói của Thánh Phaolô, câu đã được chọn làm tựa đề cho sắc chỉ này “hy vọng không làm thất vọng” (Rm 5,5). Lời nhắc nhở về chiều kích nền tảng này của đời sống Kitô hữu cũng là một thông điệp gửi cho bầu khí văn hóa hiện nay, vốn đang bị ghi dấu bởi sự thiếu vắng hy vọng một cách dai dẳng và đáng lo ngại.

Một Nhân đức gây khó chịu

Hy vọng, một đứa trẻ mồ côi?

Liệu hy vọng có giữ được lời hứa của nó chăng?

Những Tiền đề của Hy vọng

Một Nhân đức gây khó chịu

Đức tin mà Ta ưa thích, Thiên Chúa phán, chính là hy vọng. Đức tin không làm Ta ngạc nhiên. Đức tin không có gì đáng kinh ngạc. Ta chiếu sáng rực rỡ trong công trình sáng tạo của mình. Trong mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Trong muôn loài thụ tạo của Ta […] Đức mến thì dường như quá hiển nhiên. Để yêu thương tha nhân, người ta chỉ cần buông bỏ chính mình, chỉ cần nhìn vào những khổ đau chung quanh […] Nhưng hy vọng, Thiên Chúa phán, đó mới là điều khiến Ta kinh ngạc. Chính Ta cũng phải thán phục. Những đứa trẻ đáng thương nhìn thấy mọi thứ đang diễn ra như thế nào hôm nay mà vẫn tin rằng mọi thứ sẽ tốt hơn vào sáng mai. Điều này thật đáng kinh ngạc và là điều kỳ diệu vĩ đại nhất của ân sủng. Chính Ta cũng phải kinh ngạc”.[2]

Charles Péguy đã viết như vậy vào ngày 22/10/1911, trong một đoạn văn nổi tiếng của tác phẩm The Portico of the Mystery of the Second Virtue.

Qua những dòng tâm tình này, Péguy đã diễn tả trọn vẹn sự vĩ đại và khó khăn của nhân đức hy vọng, đến mức ngay cả Thiên Chúa dường như cũng sửng sốt trước sự tồn tại của nó. Thật vậy, hy vọng nói với chúng ta về những điều chưa có, nhưng đồng thời lại hiện diện sâu thẳm trong cốt lõi của mọi dự phóng và hành động: Hy vọng khẳng định sự hoàn tất của chính nó, làm nền tảng cho khả năng thay đổi thực tại và đấu tranh vì những gì ta trân quý. Hy vọng không chỉ đơn thuần bổ sung cho những gì còn thiếu, mà còn ban sức mạnh để đối diện với thử thách.[3]

Péguy hiểu rất rõ điều này. Tác phẩm The Portico of the Mystery of the Second Virtue được viết trong một trong những giai đoạn khó khăn và đau khổ nhất cuộc đời ông. Cuốn sách thất bại về mặt thương mại, cũng như tạp chí Cahiers de la Quinzaine mà ông sáng lập, và ngay cả hiệu sách Bellais mà ông từng điều hành cũng chịu chung số phận. Thậm chí tác phẩm dành riêng cho thánh Joan of Arc -The Mystery of the Charity of Joan of Arc - một kiệt tác của thế kỷ XX, cũng chỉ bán được đúng một bản khi phát hành. Nhưng vấn đề của Péguy không chỉ là tài chính. Ông bị các nhà xã hội chủ nghĩa bài xích vì đã cải đạo sang Công giáo, đồng thời cũng bị những người Công giáo chỉ trích vì không rửa tội cho con mình để chiều theo ý vợ. Mặc dù vậy, ông vẫn có thể nói về hy vọng một cách hết sức chân thật và lay động lòng người. Vì đã từng nếm trải tuyệt vọng, ông hiểu rõ bị tước mất hy vọng có nghĩa là gì.

Hy vọng là một nhân đức khó thực hành vì nó “liên quan đến điều thiện hảo khó đạt được” (Summa Theologiae, I-II, q. 23, a. 2), một điều không ở trong tầm tay, nhưng lại không thể thiếu để có một cuộc đời đáng sống. Hy vọng mang trong mình “nhiều dự phòng” để dấn thân vào hành trình cuộc sống: lòng can đảm, khát khao, sự mong đợi, kiên nhẫn, và trên hết là niềm tin rằng hy vọng có thể đạt được ngay cả khi mọi thứ dường như chống lại nó, điều mà Thánh Phaolô gọi là “hy vọng dù không còn gì để hy vọng” (Rm 4,18).

Chính vì thế, Péguy nhận xét rằng hy vọng giống như một cô bé nhỏ (mang trong mình tương lai) cần được hai người chị lớn đồng hành: đức tin vào Đấng duy nhất có thể ban tặng điều thiện hảo mà chúng ta cần, và đức ái – tình yêu thương – cách nào đó đã báo trước điều thiện hảo và thúc đẩy chúng ta tiếp tục đi trên lộ trình đúng đắn. Nếu không có hai người chị này, hy vọng bé nhỏ dường như không thể tiến bước. Tuy nhiên, khi cân nhắc đến hai người chị đó, người ta nhận thấy cô bé hy vọng còn có rất nhiều người thân đi cùng, những người cũng góp phần nâng đỡ con đường của hai người chị. Thực ra, hy vọng mở ra nhiều viễn cảnh khác nhau, dựa trên các lĩnh vực tri thức không phải lúc nào cũng hòa hợp với nhau, như xã hội học, chính trị, triết học, văn học, tâm linh và tâm lý học. Mỗi lĩnh vực này có vẻ phù hợp hơn khi xử lý một khía cạnh này hơn những khía cạnh khác. Chẳng hạn, sự hung hăng là một thái độ luôn bị xem là đối nghịch trong lĩnh vực tâm linh; hoặc sự tín thác lại làm lung lay cách tiếp cận khoa học thuần túy và quen thuộc đối với cuộc sống. Dù vậy, tất cả các lĩnh vực này đều cần thiết để hiểu được những đặc điểm riêng biệt của hy vọng.

Hy vọng, một đứa trẻ mồ côi?

Chúng ta có thể thấy hy vọng là một nhân đức nghịch lý như thế nào. Hy vọng là nhân đức khó nắm bắt nhưng cần được xem xét nghiêm túc, khó để suy tư, nhất là trong thời đại của chúng ta, vốn là một thời đại lấy kiểm soát và hoạch định làm kim chỉ nam. Có lẽ đó là lý do tại sao “đứa trẻ” này vẫn là một kẻ mồ côi trong tư duy hiện đại. Chỉ cần lướt qua các ấn phẩm khoa học xã hội về chủ đề này cũng đủ để thấy điều đó. Hy vọng không xuất hiện trong các từ điển tâm lý học, cũng không có mặt trong loạt chuyên đề về các chủ đề tâm lý quan trọng của Tạp chí Mind (gồm 24 tập từ năm 2018 đến 2020). Hy vọng cũng không có tên trong số 50 tập sách Daily Meditations, do Corriere della Sera xuất bản vào năm 2023, mặc dù hai “người chị lớn” của nó (dù mang tên gọi có phần thế tục hơn, như sự tin tưởng (trust) và tình yêu (love) được đề cập đến.

Thật không may, cô bé hy vọng đã trở thành cô bé Lọ Lem không chỉ trong lĩnh vực khoa học nhân văn mà còn trong cả văn hóa Kitô giáo. Ngay cả thần học dường như cũng không mấy quan tâm đến hy vọng. Nếu tìm kiếm các ấn phẩm về chủ đề này, ta thường cảm thấy thất vọng. Tác phẩm nổi tiếng nhất về chủ đề này, Theology of Hope (Thần học về hy vọng ) của Jürgen Moltmann, được xuất bản vào năm 1964 và vẫn được xem là một tác phẩm kinh điển, thực chất ra đời như một phản hồi đối với luận điểm khiêu khích của Ernst Bloch trong The Principle of Hope (Nguyên lí hy vọng), một nỗ lực phác họa sự hiện thực hóa hy vọng từ góc nhìn nhân văn. Thậm chí, tạp chí La Civiltà Cattolica dường như cũng không dành nhiều không gian cho chủ đề hy vọng. Nếu tra cứu các mục lục của tạp chí này trong vòng 50 năm qua, người ta chỉ tìm thấy 4 bài viết, trong đó 1 bài – như một điều tất yếu – là phần bình luận về thông điệp Spe Salvi của Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI.

Nếu điều này có thể xem là một sự an ủi, hoặc là một lý do để lo lắng thêm, thì tình hình trong quá khứ cũng không khá hơn. Thời Cổ đại và Trung cổ cũng đi theo một mô hình tương tự. Trong số 122 chương tạo nên chuyên luận Enchiridion de fide, spe et caritate của Thánh Augustinô, chỉ có 2 chương dành riêng cho hy vọng, và chúng lại vô cùng ngắn gọn (114 và 115). Sentences của Peter Lombard (thế kỷ XII), một tác phẩm kinh điển đối với mọi giáo sư thần học cho đến thế kỷ XVI, cũng chỉ dành một “phần nhỏ” để nói về chủ đề này (x. In 3 Sent., d. 26).

Cũng như mọi khi, ngoại lệ duy nhất là Thánh Tôma Aquinô, “nhà thần học quan tâm nhiều nhất đến hy vọng”.[4] Thật vậy, ngài đã phục hồi phẩm giá và giá trị của hy vọng, ngay cả trong khía cạnh tâm lý. Sau ngài, ngoại trừ một số trường hợp đáng khen ngợi (Alfaro, Durand, Mendoza-Álvarez, Appel, Theobald), hầu hết các học giả chỉ sử dụng thuật ngữ này một cách gián tiếp khi đề cập đến các vấn đề khác. Chẳng hạn, cuốn sách nổi tiếng Dare We Hope của Hans Urs von Balthasar chủ yếu bàn về vấn đề có thực sự có án phạt đời đời không. Một danh mục trực tuyến về sách tiếng Ý chỉ liệt kê 4 tựa sách chuyên về thần học hy vọng được xuất bản trong 5 năm qua, nhưng không tác phẩm nào tiếp cận hy vọng từ góc độ liên ngành, giúp làm sáng tỏ những chiều kích phức tạp của nó. Có vẻ như hy vọng thực sự là một đứa trẻ khó nuôi dưỡng, ngay cả trong bối cảnh giáo hội.

Nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng này? Có thể đưa ra một vài giả thuyết. Một trong số đó là Kitô giáo, đặc biệt là ở phương Tây, phần lớn đã trở nên thế tục hoá và không còn điều gì thực sự có ý nghĩa để nói với con người ngày nay. Điều này đã được một vị thánh vĩ đại như Têrêxa Avila nhận ra từ thời của ngài: “Chính các nhà giảng thuyết cũng cố gắng soạn bài giảng sao cho không làm phật lòng ai. Ý định này chắc chắn là tốt, và cũng có thể là một điều nên làm, nhưng kết quả lại rất ít. Tại sao có rất ít người từ bỏ những thói xấu công khai sau khi nghe các bài giảng? Bạn có biết tôi nghĩ gì không? Bởi vì các nhà giảng thuyết quá cẩn trọng theo kiểu con người, vì họ không bừng cháy với ngọn lửa mãnh liệt của tình yêu Thiên Chúa như các tông đồ đã từng: do đó, ngọn lửa của họ chỉ sưởi ấm được rất ít” (Book of My Life, chương 16, 7).

Việc giảng dạy dường như cũng né tránh chủ đề này để tập trung vào các vấn đề mang tính “đúng đắn chính trị”: sinh thái, ô nhiễm, viện trợ vật chất – những vấn đề chắc chắn quan trọng, nhưng vốn đã được bàn đến, có lẽ còn hiệu quả và chuyên môn hơn. Trong khi đề cập đến những khía cạnh quan trọng của đời sống xã hội, người ta vẫn có cảm giác, như Thánh Têrêxa Avila đã nhận thấy, rằng nhiều người đang chạy theo sự đồng thuận bằng mọi giá, bỏ qua ngọn lửa của Thánh Thần và, hệ quả là, đánh mất khả năng để thắp lên hy vọng, để nói về sự sống đời đời, về hạnh phúc đích thực, về mối tương quan với những người thân đã khuất, về khả năng hiện thực hóa một nền công lý có thể đứng vững trước những phủ nhận không ngừng mà cuộc sống thường nhật mang lại. Nói cách khác, người ta đã đánh mất việc truyền tải sứ điệp ngôn sứ và sự khẳng định chân lý, điều vốn là bản chất của Kitô giáo.

Khi phát biểu tại Hội nghị Rimini vào ngày 29/08/1991, Đức hồng y Giacomo Biffi đã mượn lời của Vladimir Soloviev trong tác phẩm The Antichrist để diễn đạt quan điểm của mình: “‘Sẽ đến những ngày’, Soloviev nói, và thực ra chúng đã đến, chúng ta có thể nói như vậy – ‘khi Kitô giáo sẽ bị giản lược thành hành động nhân đạo thuần túy trong các lĩnh vực trợ giúp, liên đới, bác ái và văn hóa. Sứ điệp Tin Mừng do đó bị đồng hóa với việc cam kết đối thoại giữa các dân tộc và tôn giáo, với việc theo đuổi phúc lợi và tiến bộ, với việc cổ vũ sự tôn trọng thiên nhiên’. Nhưng nếu chúng ta, những Kitô hữu, vì muốn cởi mở với thế giới và sống hòa thuận với tất cả, hầu như không nhận ra rằng mình đang làm loãng Tin Mừng bằng việc theo đuổi những mục tiêu thứ yếu này, thì khi đó chúng ta tự tách mình ra khỏi mối tương quan cá vị với Con Thiên Chúa, Đấng chịu đóng đinh và đã phục sinh, dần dần rơi vào tội bội giáo và cuối cùng thấy mình đứng về phía Kẻ Phản Kitô”.[5]Như vậy, những chủ đề cốt lõi của hy vọng, vốn đặc trưng của trọng tâm Kitô giáo và cũng là điều làm cho cuộc sống trở nên đáng sống, đang bị thiếu vắng. Nếu Giáo hội không lên tiếng về điều này, thì ai sẽ có thể lên tiếng?

Sự xa rời này cũng thể hiện qua việc đánh mất ý nghĩa của mùa phụng vụ gắn liền với hy vọng – Mùa Vọng. Chờ đợi có nghĩa là gì? Người ta chờ đợi điều gì? Một Đấng đã đến rồi, và khiến các lời ngôn sứ trở nên vô ích? Làm thế nào để truyền đạt ý nghĩa của sự mong đợi Kitô giáo? Khó khăn trong việc nói về sự chờ đợi, thậm chí trước cả khi sống tinh thần chờ đợi – và hai điều này chắc chắn liên kết với nhau – cho thấy hai thái độ trong đời sống thường nhật có mối liên hệ chặt chẽ với nhau: những người đã từ bỏ việc mong chờ và những người không còn cảm thấy cần phải chờ đợi giữa những khó khăn hằng ngày. Hai thái độ này thực ra rất gần nhau. Vở kịch Waiting for Godot (1952) thể hiện rất rõ ý tưởng về một sự chờ đợi vô nghĩa, trống rỗng, dường như chỉ là sự lãng phí thời gian để mong đợi một điều gì đó hoặc một ai đó mà ngay cả hiện thực của họ cũng khó có thể tin được.[6]

Liệu hy vọng có giữ được lời hứa của nó chăng?

Khía cạnh “chưa đến, chưa hiện diện” này có lẽ là nguồn cội khiến hy vọng bị phản đối. Trong một câu chuyện của nhóm Do Thái giáo truyền thống Chassidic, một môn đệ hỏi thầy mình rằng liệu Đấng Mêsia có thực sự đã đến chưa. Vị thầy đọc cho anh ta nghe một đoạn trong sách ngôn sứ Isaia:

Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Ðức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển” (Is 11,6-9). Sau đó, ông vén rèm cửa và nhìn ra bên ngoài. Ông thấy một bà lão nghèo khổ, rách rưới đang ăn xin, một quý ông mặc bộ đồ sang trọng đi ngang qua, và xa hơn nữa, có người bị đánh đập, kẻ khác thì ngủ vất vưởng trên đường phố. Ông khép rèm lại và trả lời: “Chưa, Đấng Mêsia vẫn chưa đến. Làm sao Ngài có thể đã đến trong một thế giới như thế này!”.[7] Sergius Quintius cũng có quan điểm tương tự: “Sau hai ngàn năm của Tin Mừng, không khó để nhận ra rằng những lời hứa vẫn chưa được ứng nghiệm, rằng những người hiền lành vẫn chưa được sở hữu đất đai, rằng Thiên Chúa vẫn chưa thực hiện ‘công lý tức khắc’ cho những ai trung tín với Ngài”.[8]

Một động lực khác đằng sau sự bác bỏ hy vọng là vì nó thường bị hiểu sai và được đặt đối lập với thực tế hiện tại, một dạng “thuốc phiện của nhân dân” như Marx đã nói, nhằm biện minh cho sự thờ ơ, làm tê liệt lương tâm và thất bại trong việc đối diện với những đau khổ hiện tại. Nietzsche, với lối châm biếm sắc bén thường thấy, coi hy vọng là “điều ác tồi tệ nhất, bởi vì nó kéo dài những đau khổ của con người” (Human, All Too Human, số 71).

Theo nghĩa này, nhiều lời phê phán của những “bậc thầy hoài nghi” (Marx, Nietzsche, Freud) chắc chắn đã chạm đúng một phần thực tế, nhưng họ lại hiểu sai ý nghĩa đích thực của hy vọng. Hy vọng chẳng liên quan gì đến ảo tưởng hay sự cam chịu trước những khắc nghiệt của cuộc sống. Thật vậy, trước khi là một nhân đức, hy vọng là một đam mê mang tính chiến đấu, và nó tồn tại hoặc lụi tàn cùng với điều đó. Chính sự chiến đấu này, để không nhượng bộ trước cái ác và bất công, lại cần đến hy vọng.[9]

Moltmann lên án sự bóp méo nguy hiểm này về hy vọng Kitô giáo, vốn hàm chứa sự bó buộc phải thách thức hiện tại: “Những lời hứa đầy hy vọng phải luôn tương phản với thực tế kinh nghiệm hiện tại [...]. Do đó, cánh chung học không thể lang thang trên những đám mây, mà phải hình thành những tuyên bố về hy vọng bằng cách đối nghịch với trải nghiệm thực tế về đau khổ, sự dữ và cái chết [...]. Người có hy vọng này không bao giờ có thể thích nghi với những quy luật tất yếu và định mệnh của trần gian. Trong đời sống Kitô hữu, đức tin giữ vị trí ưu tiên, nhưng hy vọng lại có tính tối thượng. Nếu không có sự nhận biết về Đức Kitô mà đức tin mang lại, hy vọng sẽ trở thành một ảo tưởng lơ lửng trong không trung. Nhưng nếu không có hy vọng, đức tin sẽ suy yếu, trở nên nguội lạnh và cuối cùng là chết đi. Nhờ đức tin, con người tìm ra con đường của sự sống đích thực, nhưng chỉ có hy vọng mới giữ họ trên con đường đó”.[10]

Những Tiền đề của Hy vọng

Hy vọng gặp nhiều sự chống đối trong bối cảnh văn hóa ngày nay bởi vì nó đề cập đến những điều nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người. Như đã đề cập, hy vọng có mối liên hệ mật thiết với đức tin vào Thiên Chúa, theo ý nghĩa được nêu trong thư gửi tín hữu Do Thái: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1). Do đó, khủng hoảng trong đời sống đức tin cũng kéo theo khủng hoảng trong hy vọng, dẫn đến những hậu quả nặng nề ở cấp độ hiện sinh. Sự vắng bóng của hy vọng càng làm nổi bật sự cần thiết của nó để con người có thể tiếp tục sống, vì hy vọng mang lại ý nghĩa đáng để con người nỗ lực theo đuổi: “Đức tin là một ngôi thánh đường được xây trên nền đất của một quốc gia. Đức ái là một bệnh viện đón nhận mọi khổ đau của thế giới. Nhưng nếu không có Hy vọng, tất cả chỉ là một nghĩa trang".[11]Việc khôi phục ý nghĩa đích thực của Hy vọng Kitô giáo, cũng như việc truyền tải vẻ đẹp của hy vọng đến với con người thời đại là một vấn đề mang tính sống còn.

Trong Sắc chỉ Công bố Năm Thánh, Đức giáo hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta tái khám phá nền tảng bất khả xâm phạm của hy vọng, vốn được ghi khắc trong Bí tích Rửa tội: cánh cửa dẫn vào sự sống đời đời. Ngài đề cập đến một chi tiết nghệ thuật thể hiện rõ mối liên hệ giữa hy vọng và sự sống vĩnh cửu: “Một ví dụ là truyền thống xây dựng giếng rửa tội theo hình bát giác, có thể thấy ở nhiều giếng rửa tội cổ xưa như tại Đền thờ Thánh Gioan Latêranô ở Rôma. Điều này nhằm biểu tượng rằng Bí tích Rửa tội là bình minh của ‘ngày thứ tám’ngày Phục Sinh, ngày vượt qua dòng chảy thời gian thông thường của tuần lễ, mở ra một chiều kích vĩnh cửu và sự sống đời đời: đích đến mà chúng ta hướng về trong cuộc lữ hành trần thế của mình” (SNC 20). Đó chính là mục tiêu nơi mà khao khát viên mãn, luôn hiện diện trong mỗi con người đã từng yêu thương, có thể tìm thấy sự thành toàn trọn vẹn. 

Nt. Anna Ngọc Diệp, Dòng Đa Minh Thánh Tâm

Chuyển ngữ từ: laciviltacattolica.com

Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVNSố 147 (Tháng 5 & 6 năm 2025)

 ____________________

 [1] Phanxicô, Spes Non Confundit. Sắc chỉ công bố Năm Thánh Thường lệ 2025. Trong bài viết, Sắc chỉ này được gọi tắt là SNC.

[2] C. Péguy, I misteri, Milan, Jaca Book, 1997, 161; 167; 164.

[3] X. G. Cucci, La speranza. “La forza per affrontare le cose difficili”, Milan, Àncora, 2024.

[4] C. A. Bernard, Théologie de l'espérance selon saint Thomas d'Aquin, Paris, Vrin, 1961, 7.

[5] www.comunitasanluigiguanella.it/ammonimento-del-cardinal-biffi-sullanticristo

[6] X., chẳng hạn, đoạn hội thoại sau: “Estragon: Lẽ ra ông ấy phải ở đây. Vladimir: Ông ấy đâu có nói chắc là sẽ đến. Estragon: Nếu ông ấy không đến thì sao? Vladimir: Ta sẽ trở lại vào ngày mai. Rồi ngày mốt. Có thể vậy. Và cứ thế. Quan trọng là… đến khi ông ấy đến. Anh thật tàn nhẫn. Hôm qua chúng ta cũng đã đến đây”. (S. Beckett, Waiting for Godot, Hồi I, tr. 29-30).

[7] M. Buber, I racconti dei Chassidim, Milan, Garzanti, 1979, 513.

[8] S. Quinzio, La sconfitta di Dio, Milan, Adelphi, 1992, 37.

[9] X. G. Cucci, La speranza…, op. cit., cap. 1.

[10] J. Moltmann, Teologia della speranza, Brescia, Queriniana, 1970, 11-14.

[11] G. Ravasi, “La speranza”, trong Avvenire, ngày 4/11/2005.