MỘT PHƯƠNG THẾ HỮU HIỆU TÂN PHÚC ÂM HÓA GIÁO XỨ:
PHÁT TRIỂN CÁC CỘNG ĐOÀN KITÔ NHỎ
Giám mục Luy Nguyễn Anh Tuấn
I. Viễn tượng một Giáo hội tham gia và truyền
giáo II. Cộng Đoàn Kitô hữu nhỏ: cách thế hiện diện mới của
Giáo hội III. Lời trong đời sống và sứ vụ của các Cộng Đoàn nhỏ |
I. Viễn tượng một Giáo hội tham gia và truyền giáo
1. Dựa trên ý kiến của các đức giám mục
châu Á, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đúc kết trong Tông huấn Ecclesia in Asia (Hội thánh tại Á châu)
như sau. Mỗi Giáo hội địa phương phải
được xây dựng trên những chứng từ của sự hiệp thông hội thánh, đó vốn là điều
làm nên chính bản chất của Giáo hội. Giáo phận là một sự Hiệp thông của các cộng đoàn, tập hợp xung quanh Vị Mục Tử, trong
đó các giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân “đối thoại trong cuộc sống và bằng con tim” được
nâng đỡ bởi ân sủng của Chúa Thánh Thần. Chính trong giáo phận sự hiệp thông của các cộng đoàn này được thực
hiện trước hết ngay giữa lòng các thực tại xã hội, chính trị, kinh tế, tôn giáo
và văn hóa. Sự hiệp thông hội thánh đó hàm nghĩa mỗi Giáo hội địa phương phải
trở thành một “Giáo hội tham gia” (participatory Church), có nghĩa là, một
Giáo hội trong đó mọi người đều sống ơn gọi riêng của mình và thực hiện vai trò
riêng của mình. Để xây dựng sự “hiệp thông vì sứ vụ” và thực hiện “sứ vụ của hiệp
thông”, đặc sủng của mỗi thành viên cần được nhìn nhận, phát huy, và sử dụng
cách hiệu quả. Cách riêng, cần để cho các giáo dân và tu sĩ tham gia sâu xa hơn
nữa trong việc lên kế hoạch mục vụ và ra quyết định, thông qua các cơ chế tham
gia như là Hội đồng Mục vụ hay các Công hội Giáo xứ.[1]
2. Một ví dụ: Đọc câu chuyện sau đây trong
tổ thảo luận, rồi trả lời các câu hỏi :
Cha Giuse được chỉ định làm chánh xứ của họ
đạo X. mới thành lập chưa có nhà thờ. Đức Giám mục địa phận yêu cầu cha xây dựng
một nhà nguyện tạm trên một lô đất ngài đã mua để xây Nhà Thờ. Nhưng nhiều giáo
dân trong xứ phản đối thiết lập giáo xứ với nhiều lý do:
- Họ đã không được tham
khảo ý kiến trước. Quyết định như thế là áp đặt.
- Khu đất đức giám mục
đã mua là nhỏ không thích hợp.
- Giáo dân thấy rằng xây
dựng một Nhà Thờ mới có nghĩa là họ phải đóng góp một số đáng kể để xây dựng
công trình.
- Hầu như ai cũng chỉ bằng
lòng với chút dấn thân tham gia tối thiểu như hiện có cho Nhà Thờ, và cảm thấy
như thế là đủ.
Cha Giuse thấy có sẵn ở đó 9 cộng đoàn nhỏ
(liên gia hay khu giáo) trong giáo xứ mới đó, không hoạt động được tốt lắm, và
Hội đồng Mục vụ Giáo xứ (HĐMVGX) được bầu chọn từ các cộng đoàn nhỏ giáo khu ấy,
theo Chỉ nam của giáo phận. Cha bắt đầu đến gặp gỡ và tham dự các buổi hội của
các cộng đoàn này, và trao đổi với giáo dân về vấn đề giáo xứ mới. Dân cảm thấy
cha Giuse chịu kiên nhẫn lắng nghe những lo lắng của họ. Dần dần cha giúp họ nhận
biết rằng đức giám mục chỉ muốn điều tốt nhất cho cuộc sống của họ, ngài muốn
đây sẽ là một khu vực phát triển nhanh và có nhiều người Công giáo đến sống định
cư. Giáo dân hiểu ra tầm nhìn xa trông rộng của đức cha khi ngài muốn dựng lên
một giáo xứ cho khu vực dân cư này. Từ từ giáo dân cũng quen và đón nhận ý tưởng
về giáo xứ mới. Cha Giuse gặp HĐMVGX và trao đổi với họ làm thế nào để đưa người
dân cộng tác vào công trình chung mới này. Bước đầu tiên, cha yêu cầu các thành
viên của HĐMV thăm viếng tất cả các gia đình trong CĐ nhỏ khu giáo của họ, để
biết cuộc sống họ và thông cảm với họ, và rồi báo cáo lại cho HĐMV những gì đã
khám phá. Chính cha Giuse cũng đích thân đi đến thăm các gia đình.
Bốn tháng sau, khi giáo phận loan báo Ngày
Khánh Nhật Truyền Giáo, cha Giuse thúc đẩy các ông/bà trùm trong HĐMVGX và mọi
người nhận đó là ngày phát động sứ vụ truyền giáo của giáo xứ: xây dựng một CĐ
giáo xứ mới đầu tiên. Ngài thúc họ thảo luận trong các CĐ nhỏ tại sao ngày
Khánh Nhật Truyền Giáo lại quan trọng và họ cần góp phần vào sứ vụ như thế nào.
Nhiều thảo luận rồi lên kế hoạch; và sau cùng, ai cũng ngạc nhiên, số gom góp
ngày Khánh Nhật Truyền Giáo của giáo xứ X. cao nhất trong cả địa phận. Kinh
nghiệm cùng nhau cộng tác dấn thân đó đã khơi dậy được nhiệt tình mới nơi người
tín hữu xây dựng giáo xứ và họ rất vui vì được phục vụ công trình.
Cha Giuse đã lợi dụng cơ hội nhiệt tình mới
đang phát khởi nơi người giáo dân đó, trong mỗi CĐ giáo khu ngài cho thảo luận
và bàn bạc về ước mơ xây được một ngôi Nhà Thờ giáo xứ mới để có chỗ cho dân thờ
phượng Chúa xứng đáng, và hội họp học hỏi Lời Chúa và Giáo lý. Những người trưởng
trong HĐMVGX được huấn luyện để biết cách cho thảo luận vấn đề một cách hết sức
cởi mở và tự do. Bất cứ ở đâu trong các CĐ nhỏ có ý kiến đối nghịch lại, cha xứ
đích thân đến dự, lắng nghe trình bày ý quan điểm của họ, rồi sau đó ngài giúp
họ nhận ra tại sao có một giáo xứ mới sẽ là hồng phúc cho mọi người. Sau cùng,
có đến 95% tổng số 254 gia đình ủng hộ kế hoạch xây nhà thờ mới. Bấy giờ cha xứ
mới cho bàn bạc kế hoạch gây quỹ xây dựng. Các CĐ nhỏ khu giáo lại hội thảo và
đi đến một quyết định: mỗi người đi làm ở trong giáo xứ sẽ đóng góp một tháng
lương của họ cho việc xây dựng ngôi thánh đường mới. Một vài giáo dân trong xứ
đến gặp cha phản đối chương trình gây quỹ này. Sau khi kiên nhẫn lắng nghe họ,
ngài nói quyết định đóng góp một tháng lương ấy là từ đại đa số giáo dân, và
đóng góp dâng cúng hay không và như thế nào là tùy ở họ. Cha nói ngài tôn trọng
tự do của mọi người trong sự hợp tác hay không hợp tác với việc chung Giáo hội;
nhưng ngài cũng nói họ có bổn phận tham gia vào đời sống của giáo xứ bằng bất cứ
cách nào trong khả năng của họ.
3. Hiệp thông để hướng đến truyền
giáo. Chúa Giêsu Đấng Phục sinh ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế
(x. Mt 28,20), không chỉ để các môn đệ
dừng lại vui hưởng niềm vui cho mình, mà mời gọi họ biết chia sẻ niềm vui Tin Mừng
ấy trong tự do và yêu thương. “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho
không như vậy” (Mt 10,8). Truyền giáo
là thông truyền Hiệp thông. Đó là sự Sống, Ơn Cứu độ dành cho muôn người. Hiệp
thông và truyền giáo, cả hai đều thuộc bản chất của Hội Thánh, kết hợp và thâm
nhập sâu sắc với nhau, đến độ “hiệp thông vừa là nguồn mạch vừa là hoa trái của
truyền giáo: hiệp thông đưa đến truyền giáo và truyền giáo được hoàn tất trong
hiệp thông”[2]. Do đó, việc chúng ta sống cảm
thức Hội Thánh phản chiếu nơi cung cách chúng ta hiểu và thi hành sứ vụ.
Đức Thánh Cha Phanxicô đang kêu gọi một sự
“hoán cải mục vụ và truyền giáo”, không thể để tình hình tiếp tục như hiện tại.
Việc “quản trị thuần túy” trong Giáo hội đã trở nên bất cập. Trên khắp thế giới
chúng ta phải “thường xuyên trong trạng thái truyền giáo”[3].
Điều đáng băn khoăn và trăn trở “đó là sự kiện nhiều anh chị em chúng ta đang sống
mà không có sức mạnh, ánh sáng và niềm an ủi phát sinh từ tình bạn với Đức
Giêsu Kitô, không có một cộng đoàn đức tin nâng đỡ họ, không tìm thấy ý nghĩa
và mục tiêu trong cuộc đời”. Ngài khuyến khích “tôi thà có một Hội Thánh bị bầm
dập, mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội Thánh ốm
yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình”[4].
Do đó, Hội Thánh cần có một cuộc canh tân không thể trì hoãn nữa. Và “mọi sự
canh tân của Hội Thánh phải lấy truyền giáo làm mục tiêu để tránh rơi vào nguy
cơ của một Hội Thánh qui vào chính mình”[5].
4. Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhớ rằng
“Giáo xứ là sự hiện diện của Hội Thánh tại một địa phương nhất định. [...] Giáo
xứ là một cộng đoàn của các cộng đoàn, một thánh điện để những người khát nước
đến uống dọc đường, và một trung tâm thường xuyên vươn ra truyền giáo. Tuy
nhiên, phải nhìn nhận rằng lời kêu gọi xem xét lại và canh tân các giáo xứ của
chúng ta vẫn chưa đủ sức đưa các giáo xứ trở thành những môi trường sống hiệp
thông và tham dự, và làm cho giáo xứ trở nên hoàn toàn hướng về truyền giáo”[6]. Vì thế, Đức Thánh Cha nhắc
đến đề nghị của các nghị phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới lần thứ XIII: quan
tâm đến “các Cộng Đoàn cơ bản và các Cộng Đoàn nhỏ, các phong trào và các dạng
hiệp hội là một nguồn làm phong phú Hội Thánh, được khơi dậy bởi Thần Khí để
Phúc Âm hóa các vùng và các lãnh vực khác nhau. Các tổ chức này thường mang một
nhiệt huyết Phúc-Âm-hóa mới và một khả năng mới để đối thoại với thế giới nhờ
đó Hội Thánh được canh tân. Nhưng sẽ rất hữu ích cho các cơ chế này nếu chúng
không mất tiếp xúc với thực tế phong phú của giáo xứ tại địa phương và sẵn sàng
tham gia vào hoạt động mục vụ toàn thể của Hội Thánh địa phương”[7].
II. Cộng Đoàn Kitô hữu nhỏ: cách thế hiện diện mới của
Giáo hội
5. Các Cộng đoàn Giáo hội cơ bản có giá trị
“như một phương thế hữu hiệu để đẩy mạnh
sự hiệp thông cộng tác trong các giáo xứ và giáo phận, và như một lực lượng thật
sự cho công cuộc Loan báo Tin mừng. Những tập thể nhỏ bé này sẽ giúp các
tín hữu sống thành những cộng đoàn đức tin, cầu nguyện và yêu thương như các
Kitô hữu đầu tiên (x. Cv 2,44-47;
4,32-35). Các tập thể này còn giúp các thành viên sống Tin Mừng trong tinh thần
yêu thương huynh đệ và phục vụ, từ đó trở thành điểm khởi hành vững chắc cho một
xã hội mới, biểu hiện một nền văn minh
tình thương. Cùng với Thượng Hội Đồng, tôi khuyến khích Giáo hội tại Á
châu, nơi nào có thể, xem các Cộng đoàn cơ bản này như một khí cụ hữu ích cho
hoạt động loan báo tin mừng của Giáo hội. [...] Sự hiện diện của các cộng đoàn
này không nghịch cùng các định chế và cơ cấu vững bền, vốn vẫn cần thiết cho
Giáo hội để thực hiện sứ vụ của mình”[8].
Vậy Cộng đoàn Kitô hữu nhỏ (Small Christian
Communities) hay còn gọi là CĐ Giáo hội cơ bản (Basic Ecclesial Communities) là
gì? Đâu là những đặc trưng của một CĐ KTH nhỏ?
6. Để cho rõ ràng, ta có thể xác định bốn đặc
điểm cốt yếu (tương ứng với những đặc tính DUY NHẤT, THÁNH THIỆN, TÔNG TRUYỀN,
CÔNG GIÁO của Hội Thánh nói chung) của các CĐ nhỏ này như sau:
- Những người sống cùng xóm, làng, hay cùng khu phố, nghĩa
là cùng một địa bàn dân cư, bởi bí tích Rửa tội, họ hợp thành một CĐ nhỏ như là
Thân Mình Chúa Kitô, gặp gỡ họp mặt một lần trong một tuần lễ / hai tuần lễ / một
tháng để chia sẻ kinh nghiệm sống hiệp thông (khoảng 10-20 gia đình thành một
CĐ nhỏ, giáo khu hay liên gia). (Neighbours).
- Họ chia sẻ Phúc Âm. Lời Chúa hay Đức Kitô
Phục sinh, qua dấu chỉ của Lời trong bối cảnh cuộc sống là cơ sở cho CĐ nhỏ. Những
người tham gia mở lòng mở trí trước Tin mừng để mình được lớn lên trong đời sống
thần linh. Thỉnh thoảng, đi đến đỉnh cao của chia sẻ, là một cử hành Thánh Thể,
dấu chỉ bí tích sự hiện diện của Đức Kitô trong CĐ. (Gospel Sharing).
- Họ biểu lộ đức tin của
mình qua việc phục vụ. Được linh hứng từ Lời Chúa, họ hành động trong đức tin qua những việc làm tuy nhỏ bé trong tình hiệp
thông, như “thăm viếng nhau trong cộng đồng, cùng xây một cây cầu, cùng đào một
giếng nước, dựng một mái nhà tình thương...”[9],
nhưng như những hạt giống âm thầm của Tin Mừng vĩ đại. Những hành động đức tin
biến đổi thế giới từng ngày qua việc đề cao các giá trị công lý, tình thương,
và hòa bình. Bằng cách đó, họ biến kinh nguyện thành hành động, đức tin thành
việc làm, tình yêu thành phục vụ. Như thế, họ tiếp nối sứ vụ truyền giáo của Hội
thánh trong địa bàn sinh sống của mình (Act
in faith).
- Họ luôn giữ mối liên kết với Hội thánh toàn cầu, và địa
phương. Các CĐ nhỏ không tồn tại biệt lập, nhưng luôn hợp nhất với Hội thánh
hoàn vũ. Các trưởng CĐ viếng thăm các CĐ láng giềng. Các thành viên trong
HĐMVGX được chọn hay được bầu từ các CĐ nhỏ khác nhau này. Cha xứ, người nối kết
sống động giữa giám mục và cộng đoàn giáo xứ nhận trách nhiệm đào tạo và hướng
dẫn các trưởng CĐ nhỏ (trùm khu). Thánh Thể là dấu chỉ cao nhất của mối liên kết
của Đức Kitô là Đầu với các chi thể của Thân Mình Người. (with the Universal Church).
7. Một CĐ KTH nhỏ gồm khoảng từ 10 – 20 gia
đình sống gần nhau. Họ hội với nhau hàng tuần hoặc hàng tháng để lắng nghe Lời
Chúa và để Lời Chúa chiếu sáng trên cuộc sống hàng ngày của họ. Họ chia sẻ Tin
mừng, họ đón nhận và đáp lại không chỉ trong kinh nguyện, nhưng còn qua những
hình thức khác do Thánh Thần linh hứng trong hoàn cảnh sống của họ. Các CĐ nhỏ
xuất hiện và phát triển. Như những cơ cấu sinh động các CĐ nhỏ liên tục canh
tân chính mình và “sáng tạo ra con đường của mình bằng cách cứ bước đi”. Các CĐ
nhỏ triển nở như một dân sống cùng nhau. Nói cách khác, đó là phong trào đang dần
dần phát triển. Có thể CĐ nhỏ có nhiều hình thái khác nhau, nhưng tựu trung có
những nét chung sau đây.
- Trước hết, các CĐ nhỏ
là những cộng đoàn (community) chứ
không phải chỉ là một tập thể, một nhóm. Trong thế giới hậu-hiện-đại, cá nhân sống
trong các đô thị thường phải chịu tình cảnh sống cô lập và vô danh. Giáo xứ,
như vẫn tồn tại cho đến nay, xem ra nặng nề về cơ cấu tổ chức hành chánh cứng
nhắc, chỉ có tính cách như một lãnh thổ địa phương và đôi khi chỉ như là một
bánh răng trong guồng máy hành chánh địa phận. Giáo dân cảm thấy liên hệ gần
gũi thân tình với nhau hơn trong các CĐ nhỏ, và từ đó biểu lộ được tình hiệp
thông và tham dự. Nhấn mạnh sự hiệp thông, họ tìm cách sống đức tin như một
kinh nghiệm được sẻ chia, nuôi dưỡng và nâng đỡ lẫn nhau giữa các thành viên cộng
đoàn. Quan hệ giao ước giữa Thiên Chúa và con người là cảm hứng cho chiều kích
này. Sự hiệp thông trong đức tin đó làm cho các thành viên tương quan với nhau
mỗi ngày một sâu đậm hơn trong cộng đoàn. Xét cho cùng, sự hiệp thông giúp họ
có khả năng cùng chia sẻ trách nhiệm và tham gia chung vào việc lấy quyết định.
Bằng cách đó, họ vượt qua được thái độ sống thụ động của người giáo dân và thái
độ độc đoán của người giáo sĩ, tu sĩ và cán bộ giáo dân trong cộng đoàn.
- Thứ đến, các CĐ này là
thuộc về Giáo hội (ecclesial) và vì thế được gọi là CĐ Kitô
hữu (Christian Communities), do yếu tố
họ thường xuyên suy niệm Lời Chúa, cách thức họ sống và làm chứng cho các giá
trị Phúc âm và bởi họ gắn bó với thực tại Giáo
hội hữu hình. Động lực truyền tải trong nhóm/hội này là đức tin, tin vào
Chúa Giêsu Kitô, ước muốn sống giới răn yêu thương của Người, thực hiện sứ vụ của
Người nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, trong tinh thần hiệp thông với Hội Thánh
địa phương và hoàn vũ.
- Đặc tính thứ ba: đây
là những CĐ nhỏ/cơ bản (small/basic),
theo nghĩa thần học lẫn xã hội. Về mặt thần học, vì đó là yếu tố Kitô giáo cơ bản
và tại đây Hội Thánh thực sự là một biến, cố cứu độ cho người dân tại chỗ này
và lúc này, những con người thực và cụ thể, xác định. Thế nên, cộng đoàn này thực
là cơ bản bởi vì hình thành bởi những yếu tố rất thiết yếu của Hội Thánh. Chính
các cộng đoàn này làm nên “cơ sở” cho Hội Thánh, và chính trên cơ sở này mà
toàn thể cơ cấu của Hội Thánh được kiến thiết. Những CĐ này là cơ bản, về
phương diện xã hội học, trong mức độ chúng qui tụ dân chúng sống gần gũi nhau về
địa dư, và đồng thời tạo ra một bầu khí văn hóa mới tích cực và năng động dựa
trên nền văn minh tình thương. Các CĐ này trao ban cho mỗi người tín hữu một
căn tính mới trong Hội thánh, nhất là cho người nghèo, bởi lẽ CĐ nhỏ là gia
đình, mái ấm cho mọi người.
8. Về lí thuyết, ai cũng biết, Yêu thương
là điều cốt lõi của Đạo chúng ta, nhưng trong thực tế người ta sống yêu thương
thế nào? Giữa bao nhiêu sinh hoạt, chương trình và chính sách của mỗi giáo xứ
phải lo thực hiện, chúng ta thường quên sống điều này. Cám dỗ nặng nghi lễ, nệ
nghi thức, tôn giáo nào cũng có. Tôn giáo cần có nghi lễ phụng tự, nhưng chúng
phải dẫn con người tôn giáo đến với bác ái, từ bi, và chia sẻ hiệp thông, nghĩa
là tình yêu. Lễ lạc, kinh hạt, học hỏi Kinh thánh, kiệu rước, hội họp sẽ có ích
gì nếu chúng không giúp ta sống yêu thương phục vụ?
CĐ nhỏ là một hình thức của đời sống hội
thánh trong đó tình yêu được viết ra cách cụ thể và nó đòi hỏi người ta phải mở
lòng ra đi tới với người thân cận và giúp đỡ lẫn nhau. Người ta được mời gọi
không chỉ hài lòng với việc tham dự Thánh Lễ, nhưng còn làm sao để đem Thánh Lễ
đi vào mọi ngõ ngách cuộc sống và mọi góc xó trong giáo xứ. Đó là hệ luận bao
hàm trong bí tích Thánh Thể vốn bị quên lãng bấy lâu, nay được các CĐ nhỏ đem
áp dụng vào cuộc sống.
Cách cụ thể để thực hiện mầu nhiệm Hiệp
thông hội thánh này là Điều Răn Mới Yêu Thương. “Anh em hãy yêu thương nhau như
Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở
điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 34-35). Yêu thương là thi hành thánh ý Chúa Cha, tuân giữ
các điều răn của Chúa Giêsu (x. Ga
14,15), hi sinh tính mạng vì bạn hữu mình (x. 15,12-13). Yêu thương không chỉ ở
nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng còn bằng việc làm và phải chân thật (x. 1Ga 3,18). Tình yêu xuất phát từ Thiên
Chúa (x. 1Ga 4,7) và là hoa quả của
Thánh Thần (x. Rm 5,5). Tình yêu thì
chân thật và là con đường trổi vượt hơn cả (x. 1Cr 12,31) và đó là ân huệ của Thần Khí nhằm xây dựng cộng đoàn hội
thánh (1Cr 14,12). Bản chất của cộng
đoàn hội thánh là “sự lưu thông của đức từ bi bác ái”. Từ ái là năng động sâu
xa làm cho một tín hữu, trong tương giao với người khác, có thái độ cởi mở,
liên đới và thông hiệp. Nói tóm lại, yêu thương hay từ ái là biểu lộ của mầu
nhiệm Hiệp thông.
Hiệp thông ở nền tảng chính là chia sẻ hay
tham dự vào đời sống của Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô trong Chúa Thánh Thần –
một sự sống thần linh được Thần Khí Thiên Chúa nuôi dưỡng. Hội Thánh trở thành
là Hội Thánh tại một địa phương chỉ khi nào biến cố cứu độ, là Đức Giêsu Kitô,
bén rễ sâu vào một hoàn cảnh đặc thù nào đó với những đặc tính xã hội, văn hóa
và những mặt khác nữa, làm nên cuộc sống và suy nghĩ của người dân sống trong
vùng ấy. Đời sống mới được thông ban bởi biến cố Đức Kitô là đời sống hiệp
thông. Đó là sự sống hiệp thông với Đức Chúa Cha nhờ Đức Chúa Giêsu Kitô trong
sự thông hiệp với Đức Chúa Thánh Thần. Hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi là nguồn
mạch, là nền tảng và là mẫu mực cho các CĐ nhỏ.
III. Lời trong đời sống và sứ vụ của các Cộng Đoàn
nhỏ
10. Cuối thời sứ vụ của Người trong thế
gian vì vâng lời Đức Chúa Cha, Chúa Giêsu sai các môn đệ đi vào thế giới bằng lệnh
tuyền: “Anh em hãy đi rao giảng Tin mừng khắp thế gian” (Mt 28,19). Mọi hoạt động của sứ vụ Tông đồ gồm cả những cử hành bí
tích và tổ chức quản trị là để thực thi thừa tác vụ (phục vụ) Lời Chúa. Họ phải
hoàn tất thừa tác vụ đó dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ cho họ
biết phải rao giảng điều gì. Điều kiện tiên quyết duy nhất phải có để làm điều
này là họ đã phải gặp gỡ Chúa Phục sinh, kinh nghiệm sự hiện diện sống động của
Người. Như vậy, rõ ràng sứ vụ của Hội Thánh không gì khác hơn là rao giảng Lời,
mà nội dung là Phúc âm hay Tin mừng Đức Kitô Chết và Phục sinh, Đấng họ đã gặp
gỡ vẫn sống động sau khi Người chịu chết.
Tín hữu là người đã được kêu gọi qui tụ lại
bởi Lời Chúa (hoi kletoi) và tin tưởng
vào Lời Chúa bởi lắng nghe Lời Người (fides
ex auditu). Hiệu quả của lời rao giảng của các môn đệ là cộng đoàn các tín
hữu được hình thành, qui tụ lại bởi quyền năng của lời, nhận ra Chúa đang hiện
diện giữa họ bằng việc bẻ bánh (Thánh Thể) và diễn tả đức tin của mình ra bằng
việc thực thi bác ái, chia sẻ mọi sự họ có và loan báo Tin mừng cho mọi người
xung quanh (x. Cv 2,42). Hội Thánh là
cộng đoàn những người được kêu gọi (ekkesia).
Ngay cả cử hành các bí tích cũng được diễn tả như là cử hành loan báo Lời (1Cr 10,26). Thế nên, loan báo Lời là thừa
tác vụ cơ bản của Hội Thánh. Sứ vụ của Hội Thánh trong thế giới ngày nay là “phải
luôn tìm hiểu thấu đáo những dấu chỉ của thời đại và giải thích chúng dưới ánh
sáng của Tin Mừng” (Gaudium et Spes,
4). Các CĐ KTH nhỏ phản chiếu dung mạo Hội Thánh này mà Công Đồng Vatican II đã
phác họa dựa trên thừa tác vụ của Lời.
11. Ở đây, vì ý hướng muốn thực hành cụ thể,
chúng tôi đề cập đến việc Chia sẻ Phúc âm trong các CĐ nhỏ. Có rất nhiều người
thích Chia sẻ Phúc âm nhưng cũng có nhiều người khác cảm thấy chán khi phải
Chia sẻ. Nhưng cũng có ngàn vạn người trên khắp thế giới đã gặp được Chúa qua
Chia sẻ Phúc âm.
Câu chuyện sau đây xảy ra cách đây hai năm ở
một vùng đất quê nghèo nơi phần lớn theo Ấn giáo. Một chị phụ nữ Công giáo
nghèo kể kinh nghiệm của mình về Chia sẻ Phúc âm cho một chị bạn hàng xóm theo Ấn
giáo. Chị bạn đó nghe cảm thấy thích thú và muốn được tham dự buổi chia sẻ Phúc
âm. Trong lần đó qua chia sẻ của anh chị em trong CĐ nhỏ, chị cảm thấy bị đánh
động rất nhiều và xin một quyển Kinh Thánh. Chị lại đến lần Chia sẻ kế tiếp
mang theo quyển Kinh Thánh và xin phép được tham gia chia sẻ như mọi người. Chị
đã chia sẻ như thế và cảm thấy rất vui đến nỗi tham gia tích cực nhiệt thành
vào mọi sinh hoạt của CĐ. Nhiều tháng sau, khi CĐ phải bầu chọn một người trưởng,
họ đã chọn chị đó làm trưởng nhóm.
Một câu chuyện khác. Năm 2011, tại một xứ đạo
ở vùng ngoại ô thành phố kia, cha xứ bắt đầu giới thiệu với bà con giáo dân việc
Chia sẻ Phúc âm. Mọi người trong xứ đều được mời gọi. Buổi chiều tối ngày đầu
tiên, một ngày thứ Bảy, chỉ có 9 người đến tham gia. Sáng hôm sau, sau khi cha
xứ chủ tế Thánh Lễ và giảng hùng hồn về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc ngồi
lại Chia sẻ Phúc âm theo nhóm nhỏ, buổi hội sau Thánh lễ đó cũng chỉ có 7 người
ở lại tham dự. Thế nhưng Nhóm nhỏ ấy về sau đã trở thành một CĐ nhỏ trong khu
xóm của họ và tiếp tục chia sẻ Phúc âm và làm việc bác ái xã hội như: giúp đỡ
những người đau yếu bệnh tật đi ra ngoài bất cứ khi nào họ muốn – như đi chợ,
đi phố, đi dạo công viên, đi khám bệnh hay đi nhà thờ. Từ đó, ngày càng có nhiều
người tham gia và xuất hiện thêm vài CĐ nhỏ mới trong xứ.
Hai chuyện trong số cả ngàn câu chuyện về
Chia sẻ Phúc âm đã đem đến niềm vui cho toàn thể CĐ nhỏ trong các giáo xứ, giúp
người giáo dân sống đức tin tích cực tham gia với sự tự do, yêu mến và vui mừng.
Niềm vui của Chia sẻ Phúc âm là niềm vui bộc phát và do Thần Khí của Lời hằng sống
linh hứng.
12. Về vấn đề này, chúng ta hãy nghe lời Đức
Thánh Cha Phanxicô nói. Chính Phúc âm ban cho sự thông truyền của chúng ta ý
nghĩa, vẻ đẹp và sự hấp dẫn. Phải căn cứ trên tâm điểm của sứ điệp của Đức
Kitô, không dựa trên những khía cạnh thứ yếu (Evangelii Gaudium, 34). Thực hành mục vụ theo phong cách
Phúc-âm-hóa (truyền giáo) không quá bận lo thông truyền thật nhiều giáo thuyết,
nhưng tập trung vào những gì cốt yếu, những gì đẹp nhất, lớn nhất, lôi cuốn nhất
và cần thiết nhất. Phải làm sao cho sứ điệp nên đơn giản mà không đánh mất chiều
sâu của chân lí (EG, 35). Không được
làm biến dạng tính toàn diện của Phúc âm (EG,
39). Theo hướng đó, quả thật, phải hướng các CĐ nhỏ luôn hướng tâm và bén rễ
vào Lời Chúa. Các hoạt động Phúc-âm-hóa xuất phát từ sự gặp gỡ Đức Kitô – một sự
gặp gỡ riêng với mỗi người ngồi đó nhưng lại đưa đến một sự hiệp nhất các tâm hồn
với nhau. Đó là một sự gặp gỡ riêng bởi vì mỗi người được cảm nghiệm một cách rất
riêng tư trong cuộc sống mình và việc chia sẻ cảm nghiệm ấy dẫn các tâm hồn đến
chỗ hiệp thông sâu xa hơn.
Khi chúng ta đọc và suy niệm Lời Chúa, sứ
điệp trung tâm chính là tình yêu vĩ đại Thiên Chúa đang trao ban cho ta mà một
ai đó đang khiêm tốn chia sẻ như chứng từ của mình và mở lòng học nơi những người
khác (EG, 128). Đây chính là điều
chúng ta làm ở bước thứ 5 của Chia sẻ Phúc âm (theo phương pháp 7 bước). Rao giảng
Phúc âm cho một nền văn hóa là tạo ra một tổng hợp mới (EG, 129) với nền văn hóa ấy, đem lại niềm vui và ý nghĩa mới cho cuộc
sống của dân chúng.
“Nhưng
nếu người rao giảng không dành thời giờ để nghe Lời Thiên Chúa với con tim rộng
mở, nếu họ không để cho lời đánh động cuộc đời họ, thách thức họ, thúc đẩy họ,
và nếu họ không dành thời giờ cầu nguyện bằng lời ấy, thì quả thực họ sẽ là một
tiên tri giả, một kẻ lừa đảo, một kẻ huênh hoang trống rỗng. Nhưng bằng cách
nhìn nhận sự nghèo hèn của mình và ước muốn ngày càng dấn thân nhiều hơn, họ sẽ
luôn có thể phó thác mình cho Đức Kitô và nói như thánh Phêrô: “Vàng bạc thì
tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây” (1Pr 3,6). Chúa muốn dùng
chúng ta như những con người sống động, tự do, và sáng tạo, những con người để
cho Lời Người thâm nhập lòng mình trước tiên rồi truyền sang cho người khác. Sứ
điệp của Đức Kitô phải thực sự thâm nhập và chiếm hữu người rao giảng, không chỉ
phần trí óc nhưng toàn thể con người họ” (EG, 151). Những gì vừa nói đó, ta nhận thấy, nó xảy ra trong các CĐ
nhỏ.
Bước thứ 6 của Chia sẻ Phúc âm được Đức
Giáo hoàng suy tư sâu sắc trong những dòng sau đây: “Rõ ràng, mỗi khi các tác giả Tân ước muốn trình bày tâm điểm của sứ điệp
luân lí của Tin Mừng, họ trình bày yêu sách cốt yếu nhất là tình yêu đối với
tha nhân: “ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật... yêu thương là chu toàn Lề
Luật vậy” (Rm 13,8.10)”. Những lời khuyên nhủ của sách Thánh không chỉ diễn
giải khái niệm, nhưng “quyết liệt kêu gọi chúng ta yêu thương nhau, phục vụ
trong khiêm tốn và quảng đại, sống công bằng và có lòng thương xót người nghèo”
(EG, 194). Trong trái tim của Thiên
Chúa có một chỗ đặc biệt cho người nghèo, yêu mến người nghèo đặc biệt đến mức
chính Người “trở nên nghèo hèn” (2Cr
8,9). “Tôi muốn một Hội Thánh nghèo và
cho người nghèo. Họ có nhiều điều để dạy chúng ta. Không những họ tham dự vào cảm
thức đức tin (sensus fidei), những trong những khó khăn của mình họ nhận biết Đức
Kitô chịu đau khổ. Chúng ta cần để mình được Phúc-âm-hóa bởi họ. Tân
Phúc-âm-hóa là một lời mời gọi nhìn nhận quyền năng cứu độ đang hoạt động trong
đời sống của họ và đặt nó vào tâm điểm cuộc lữ hành của Hội Thánh. Chúng ta được
kêu gọi tìm thấy Đức Kitô nơi họ, lên tiếng bênh vực quyền lợi của họ, nhưng đồng
thời cũng làm bạn của họ, lắng nghe họ, nói với họ và nhận lấy sự khôn ngoan
nhiệm mầu mà Thiên Chúa muốn chia sẻ cho ta qua họ” (EG, 198).
Khi các CĐ nhỏ hội đều đặn và cởi mở ra trước
Lời hằng sống, họ sẽ được tự nhiên đánh động bởi tình yêu phục vụ người nghèo
trong xóm làng mình.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 86 (Tháng 01 &
02 năm 2015)
[9] HĐGMVN, Thư Mục Vụ 2015. Tân Phúc-Âm-hóa đời sống
các Giáo xứ và các Cộng đoàn sống đời
thánh hiến, 4.