GIẢI
ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO
Bài 96: GIÁO HỘI VÀ VẤN ĐỀ TRỢ
TỬ
Hỏi: Con
thấy nhiều phong trào đang ủng hộ trợ tử. Trong
khi đó con nghe Cha xứ nói Giáo hội Công giáo không ủng hộ hoặc cho phép làm điều
ấy. Quan niệm đúng đắn của Giáo
hội về vấn đề này là gì?
Trả lời:
Theo nguyên ngữ, “trợ tử” có nguồn gốc từ một
từ Hylạp: Euthanasia. Từ này được lập thành bởi hai thành tố: tiếp đầu
ngữ eu-, nghĩa là “tốt đẹp”, được thêm vào gốc từ -thanasia, đến
từ chữ thanatos, có nghĩa là “chết”. Như thế, về lý thuyết,
Euthanasia là thuật ngữ được dùng để chỉ về những cái chết êm đẹp, theo
nghĩa là không phải vật vã đau đớn. Tuy nhiên, trong thực tế, thuật ngữ ấy được
dùng để chỉ về chính hành động can thiệp của con người với mục đích giúp cho
người chết có được một cái chết gọi là êm đẹp.
Trong tiếng Việt, Euthanasia có thể được
dịch là “trợ tử” hoặc “an tử”. Gọi là “trợ tử” nếu đứng từ phía những người
ngoài cuộc, khi các bác y bác sĩ hoặc những người thân trong gia đình quyết định
can thiệp giúp cho người bệnh chết sớm hơn, với mong ước giúp cho người ấy khỏi
phải kéo dài đau đớn. Gọi là “an tử” nếu đứng từ phía người bệnh, khi chính người
ấy quyết định xin được chết sớm. Một tên gọi khác, hay được sử dụng cho cả hai,
là “chết êm dịu”. Câu hỏi đặt ra: những cái chết như thế có êm dịu thật không?
An tử liệu có phải là một quyết định sáng suốt và đáng được tôn trọng? Trợ tử liệu có phải là một
hành động nhân đạo và bác ái không? Đâu là nền tảng luân lý để dựa vào đó người
ta biện minh cho hành động an tử hoặc trợ tử? Tại sao Giáo hội Công giáo chẳng
những đã không ủng hộ mà còn luôn phản đối và kết án mọi hình thức an tử hoặc
trợ tử?
Một trường hợp trong Kinh Thánh
Có một trường hợp trong Kinh Thánh hay được gọi
là “trợ tử”. Tin Mừng Gioan kể rằng, một thời gian sau khi đã đóng đinh Chúa
Giêsu và hai người khác trên thập giá, nhằm tránh tình trạng có xác người chết
treo trong ngày Sa-bát, những người lính đã đến xin phép Phi-la-tô để đập giập ống
chân của những người tử tội còn chưa chết. Họ đã làm như thế với hai người chịu
đóng đinh cùng với Đức Giêsu (x. Ga 19, 31-33).
Chúng ta biết rằng những người bị đóng đinh
trên thập giá thường phải đối diện với cái chết từ từ, do đau đớn và mất máu.
Khi bị treo giăng ngang hai tay trên cao, cả cơ thể của người tử tội trên thập
giá sẽ bị trì xuống, lồng ngực bị ép lại làm cho hô hấp của người ấy trở nên rất
khó khăn. Thỉnh thoảng người ấy phải đạp chân vào điểm tựa bên dưới, nâng cơ thể
lên, làm cho lồng ngực được giãn ra và có thể thở được. Khi ống chân bị đập giập,
chỉ cần vài phút sau người ấy sẽ chết vì không thở được. Do đó, việc đập giập ống
chân của những tử tội bị đóng đinh trên thập giá được nhiều người xem là một
hành động trợ tử. Nếu bạn đặt mình vào vị trí của người tử tội trên thập giá,
đang cố nhoi người để tìm từng hơi thở, bạn có thật sự muốn ống chân của mình bị
đập giập không? Bạn có muốn được trợ tử không? Nhìn vào từ góc độ bên ngoài, việc
đập giập ống chân của tử tội trên thập giá có thể được xem như một hình thức
nhân đạo, hay đơn giản đó chỉ là bước cuối cùng của một quy trình giết người?
Những lối lý luận khác nhau
Thật ra, từ rất sớm trong dòng lịch sử nhân loại,
việc an tử hoặc trợ tử đã được bàn đến. Có nhiều lý luận ủng hộ, và có nhiều
trường hợp an tử được nhắc đến. Lý luận chính của những người theo hướng này
là: con người có quyền chọn cho mình một cái chết xứng đáng với phẩm giá của
mình.
Chẳng hạn, khi bị cáo tội làm băng hoại giới
trẻ, bị tống giam, và bị kết án bất công, Socrates đã chọn uống thuốc độc để được
chết một cái chết xứng đáng với phẩm giá của mình. Trong những câu chuyện chiến
tranh, có trường hợp những quân nhân bị dồn vào bước đường cùng đã chọn kết liễu
mạng sống mình thay vì phải bị rơi vào tay quân thù.
Ngày nay không hiếm trường hợp những người bệnh
xin cho mình được chết, để khỏi trở thành gánh nặng cho những người thân của
mình. Cũng có trường hợp chính những người thân hoặc chính các nhân viên y tế
quyết định ngừng mọi chăm sóc y tế cho người bệnh để người ấy được chết sớm.
Không thiếu trường hợp chính những người có chuyên môn về y khoa đi bước trước,
hướng dẫn và giới thiệu về khả thể an tử hoặc trợ tử.
Tuy nhiên, cũng rất sớm trong dòng lịch sử
nhân loại, đã có nhiều ý kiến hoàn toàn ngược lại. Một trong những cung giọng
đáng lưu tâm nhất là Hyppocrates, ông tổ của ngành y. Trong bản văn được gọi là
“lời thề Hyppocrates”, vẫn còn được hầu hết tất cả các y bác sĩ đọc trong nghi
thức tuyên thệ khi ra trường, có đoạn này: “Tôi sẽ không trao thuốc độc cho
bất kỳ ai, kể cả khi họ yêu cầu. Tôi sẽ không tự mình gợi ý cho họ. Cũng vậy,
tôi sẽ không trao cho bất cứ người phụ nữ nào những thuốc gây sẩy thai”. Hyppocrates
cũng trình bày rõ quan điểm y khoa của mình: “Tôi sẽ không bao giờ cho toa
thuốc chết người để làm hài lòng một ai đó, cũng sẽ không bao giờ đưa ra những
lời khuyên có thể dẫn đến cái chết”. Theo Hyppocrates, ơn gọi của y
khoa ngay từ khởi đầu là phò sự sống. Một người theo học y khoa mà lại ủng hộ
việc trợ tử là phạm vào y đức và phản bội chính cội nguồn của mình.
Nền tảng của những quyết định
Tại sao có những quyết định trái chiều như thế?
Đó chỉ đơn giản là những ý kiến trái chiều, và ý kiến nào cũng đáng được tôn trọng,
hay ẩn đằng sau những ý kiến trái chiều ấy là những nền luân lý hoàn toàn khác
nhau, cần được chúng ta cân nhắc và suy xét cẩn thận?
Nếu bạn là người theo chủ nghĩa duy vật, tin rằng
con người chỉ thuần là vật chất và sự sống thật ra chẳng có một giá trị thánh
thiêng nào, thật dễ và gọn gàng để quyết định, phải không?
Hitler đã từng mơ về một nhân loại hùng cường bằng cách lập
kế hoạch loại bỏ hết những người già yếu và bệnh tật. Stalin từng tắm máu hàng
chục ngàn sinh viên biểu tình để dập tắt tiếng nói của những người đi ngược với
mình.
Nếu tin rằng con người chỉ thuần là vật chất,
như một con chó chết là hết chuyện, người ta rất dễ tự cho phép mình quyết định
theo hướng mà họ cảm thấy là cần, là tốt, là ổn. Nếu tin rằng con người chỉ thuần
là “phương tiện sản xuất”, chẳng có gì đặc biệt, cá vị, thánh thiêng, rất dễ để
một số người có quyền và có khả năng quyết định sinh tử vận mệnh của một số những
người khác, phải không?
Dĩ nhiên, chúng ta không thể loại trừ trường hợp
có những người phải quyết định với ý hướng ngay lành và với lòng thương cảm thật
sự. Đó là những quyết định đau đớn xé lòng. Có những người đau khổ lâu năm trên
giường bệnh, họ xin được chết để chấm dứt những đau khổ của đời mình, và để
mình không còn là gánh nặng cho những người thân. Có những người thấy người
thân của mình phải vật vã lâu năm trên giường bệnh, không đành lòng, nên muốn
tìm cách trợ giúp để người ấy an bình ra đi và không phải chịu đau đớn khổ sở nữa.
Cả hai đều xuất phát từ ý hướng tốt, nhân danh lòng bác ái để giúp giải thoát
con người khỏi khổ đau. Nếu chỉ nhìn từ góc độ cảm tính, những quyết định ấy cần
được thông cảm, phải không? Nhưng bạn có tin rằng trong bất cứ trường hợp nào,
một con người có thể có quyền quyết định sinh tử đối với một con người không?
Nếu bạn tin rằng có một Thiên Chúa là Đấng Tạo
Hoá, chính Thiên Chúa ấy mới là chủ tể của mọi sự sống, thì mọi chuyện sẽ rất
khác, phải không? Quan điểm của Giáo hội được xây nền từ đây.
Quan điểm của Giáo hội
Xác tín nền tảng của Giáo hội Công giáo là thế
này: con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa (x. St 1,26). Dù là bụi đất
mọn hèn, con người mang nơi mình tính thánh thiêng của sự sống được thông truyền
từ chính Thiên Chúa (x. 2,7). Sự sống ấy là thánh thiêng, và do đó, bất khả xâm
phạm. Sự sống ấy không thuộc về chính con người, nhưng thuộc về Thiên Chúa. Như
vậy, con người hoàn toàn không có quyền quyết định, nhất là quyết định chấm dứt
đối với sự sống, dù đó là sự sống của mình hay của một ai khác.
Có rất nhiều tài liệu của Giáo hội lên tiếng với
cung giọng mạnh mẽ bảo vệ sự sống và lên án những lạm quyền của con người đối với
sự sống. Chúng ta chỉ xét đến một vài tài liệu quan trọng gần đây.
Tin vào tính thánh thiêng của sự sống và phẩm
giá cao vời của con người, Công Đồng Vatican II (1965) đã gọi trợ tử là một điều
ô nhục, sánh ngang với những tội ác khác như phá thai, nô lệ, mãi dâm, buôn người…
vì tất cả những điều này xâm phạm đến sự sống và nhân phẩm của con người (x. Gaudium
et Spess, số 27). Khi một con người tự cho mình quyền hạn để quyết định
sinh tử và vận số của một con người khác, người ấy tự biến mình thành một ông
chủ, một thiên chúa, và người khác bị giản lược thành một đối tượng, một vật thể,
một món hàng, một sự vật… chứ không còn là một con người có phẩm giá nữa.
Sau Công Đồng Vatican II, một tài liệu quan trọng
chính thức của Giáo hội về vấn đề này là Tuyên ngôn ngắn của Thánh Bộ Giáo Lý Đức
Tin năm 1980. Tài liệu này tuyên bố: “Chẳng điều gì và chẳng một ai có quyền
cho phép việc giết chết một con người vô tội, dù đó là một thai nhi trong bụng
mẹ, một hài nhi mới chào đời, một người mang những chứng bệnh không thể cứu chữa
hay một người đang chết.”[1]
Gần đây nhất, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là người gióng lên những
cung giọng mạnh mẽ nhất ngang qua những giáo huấn phò sự sống. Trong Tông Thư Evangelium
Vitae ban hành năm 1995, Đức Giáo Hoàng khẳng định rằng trợ tử hoặc an tử
là một hành động nghiêm trọng vi phạm luật Thiên Chúa. Dù người ta có nại vào bất
cứ lý do gì đi nữa thì cũng không thay đổi được bản chất của việc can thiệp làm
cho một con người chết sớm hơn: tự nó là một hành động giết người. Không một lý
do gì có thể biện minh cho việc giết một con người (số 65).
Với những người nại vào lý do thương xót và
nhân đạo để ủng hộ trợ tử, Đức Giáo Hoàng phản biện: “Lòng thương xót thật sự
dẫn chúng ta đến việc chia sẻ nỗi đau với người khác, chứ không phải là giết chết
người đang đau khổ chỉ vì chính chúng ta không chịu đựng nổi sự đau khổ của họ”
(số 66). Ngài cảnh tỉnh rằng chúng ta phải rất tỉnh thức để không phò theo
văn hoá sự chết là văn hoá khiến con người hành động tiếm quyền của Thiên Chúa,
làm hạ giá nhân phẩm con người, chống lại sự sống, tấn công vào nhân loại.
Như thế, theo lối nhìn của Công giáo, sự sống
tự bản chất mang một giá trị thánh thiêng và bất khả xâm phạm. Mạnh khoẻ hay ốm
đau, lành lặn hay tàn tật… tất cả đều chỉ là những dạng thức bên ngoài của sự sống.
Sự sống của con người từ lòng mẹ cho đến lòng đất phải được xem là thánh thiêng
và phải được tôn trọng cách tuyệt đối. Do đó, Giáo hội chưa bao giờ cho phép
hay ủng hộ việc trợ tử.[2]
Ngược lại, Giáo hội luôn có những lối tiếp cận
mục vụ để có thể gần gũi và thể hiện lòng thương cảm cách thật sự với những người
bệnh đang tuyệt vọng và buông xuôi. Chẳng hạn, Giáo hội dạy rằng trong trường hợp
an tử, lời xin được chết thực chất trong thẳm sâu là tiếng kêu tuyệt vọng của một
con người bệnh đang cần đến tình yêu, tình liên đới, tình người. Điều mà một bệnh
nhân đang đối diện với cái chết thật sự cần không chỉ là thuốc men và những can
thiệp y khoa, nhưng quan trọng hơn là tình yêu và hơi ấm của tình người, chứ
không phải là một giải pháp gọn gàng tiện lợi. Trong rất nhiều trường hợp, lời
xin chết của một người thực chất là một tiếng kêu cứu và phản ánh khát vọng sâu
thẳm của một người muốn được sống và được đối xử xứng đáng với phẩm giá con người.
Hơn nữa, cần nhận ra rằng nhiệm vụ của y tế và
những phát triển y khoa chưa bao giờ là giúp cho con người chết. Cả những khi
không còn hy vọng gì nữa, con người vẫn có quyền được chăm sóc.
Cuối cùng, cần nhận ra rằng an tử hay trợ tử
không chỉ là một vấn đề tách biệt và cô lập. Luôn có những hệ luỵ kèm theo. Chẳng
hạn, nếu trợ tử là được phép, thì án tử hình cũng là điều nên được ủng hộ, phải
không? Người ta nhân danh luật pháp chính đáng để kết liễu một mạng người. Theo
cách đó, sai lầm vì đã gây ra cái chết cho một người lại được sửa sai bằng cái
chết của một người khác. Bạn có nghĩ công bằng theo cách đó là đúng đắn không?
Cũng vậy, nếu trợ tử là được phép, đâu có lý
do gì để phản đối việc phá thai, phải không? Những người muốn phá thai thực ra
luôn có “lý do” của họ. Nào là họ chưa được chuẩn bị để làm cha làm mẹ. Nào là
đứa con sinh ra sẽ là một gánh nặng hay một chướng ngại về công việc và tương
lai của họ. Nào là đứa trẻ có nguy cơ sinh ra không phải là một đứa trẻ lành lặn,
thay vì không sinh ra thì hơn là để con mình phải sống một cuộc sống tật nguyền…
Tất cả đều là những lý luận theo hướng cảm tính và ích kỷ. Nhưng quan trọng hơn
cả, người ta đặt mình làm chủ tể của sự sống, tự cho mình quyền sinh sát trong
tay đối với những con người chưa thể hoặc không thể tự quyết về cuộc sống của
mình.
Chẳng có một cái chết nào có thể được gọi là dịu
êm, nếu đó là cái chết đến từ sự can thiệp của con người. Nếu bạn tin rằng con
người mang nơi mình sự sống đến từ Thiên Chúa, sự sống không chỉ là một quà tặng
vô giá mà còn là một điều thánh thiêng bất khả xâm phạm. Nếu cả tính thánh
thiêng của sự sống mà còn bị tước khỏi con người, cả sự sống và cái chết của
con người còn có ý nghĩa gì nữa chăng?
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)
[2] Giáo lý Hội Thánh Công giáo về cái chết êm dịu (Euthanasia)
2276. Phải đặc biệt tôn trọng sự sống của những người tàn
tạ, yếu ớt. Những người bệnh hoạn hoặc khuyết tật (handicap) phải được nâng đỡ để sống một cuộc sống bình thường, bao
nhiêu có thể.
2277. Cái chết êm dịu trực tiếp, với bất cứ lý do nào hoặc
dùng phương tiện nào, cốt tại việc chấm dứt sự sống của những người tật nguyền,
bệnh hoạn hoặc hấp hối. Về phương diện luân lý, việc này không thể chấp nhận được.
Như vậy, một hành động
hoặc một thiếu sót, tự nó hoặc với ý hướng, gây ra cái chết để chấm dứt sự đau
đớn, là một tội giết người, nghịch lại một cách nghiêm trọng với phẩm giá của
nhân vị và với sự tôn trọng Thiên Chúa hằng sống, Đấng Tạo Hoá của con người. Một
phán đoán sai lầm mắc phải cách ngay tình, không thay đổi bản chất của hành vi
sát nhân này, một hành vi luôn phải cấm chỉ và loại trừ (X. Thánh bộ Giáo lý Đức Tin, Tuyên ngôn Jura et bona: AAS 72 (1980) 542-552).
2278. Việc ngưng các phương tiện y khoa, quá tốn kém, mạo hiểm,
ngoại thường hoặc không tương xứng với những kết quả mong muốn, có thể là hợp
pháp. Đây là sự từ chối “việc trị liệu khắc nghiệt”. Theo cách này, ta không muốn
đưa đến cái chết, nhưng chấp nhận vì không thể ngăn cản được cái chết. Chính bệnh
nhân phải quyết định, nếu họ có thẩm quyền và khả năng, nếu không, việc quyết định
phải do những người có quyền theo luật pháp, nhưng luôn phải tôn trọng ý muốn hợp
lý và quyền lợi hợp pháp của người bệnh.
2279. Dù cái chết xem ra gần kề, vẫn phải chăm sóc bình thường
cho bệnh nhân, chứ không thể ngưng một cách hợp pháp. Việc sử dụng các loại thuốc
giảm đau, để làm dịu bớt sự đau đớn của người hấp hối, cả khi có nguy cơ rút ngắn
những ngày sống của họ, về mặt luân lý có thể được coi là phù hợp với nhân phẩm,
miễn là không nhắm đến cái chết như mục đích hay như phương tiện, nhưng chỉ
tiên đoán và phải chấp nhận cái chết như điều không thể tránh. Việc chăm sóc để
giảm đau là một hình thức tuyệt vời của đức mến vô vị lợi. Vì thế, công việc
này cần được khuyến khích.