Đức Giáo hoàng Phanxicô cử hành thánh lễ trong Ngày Đời Sống Thánh Hiến (01.02.2022) tại Vatican, Ảnh: Maria Grazia Picciarella/Ropi via ZUMA Press.
ĐI TÌM MỘT NỀN TẢNG: HỒNG ÂN ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN
Lời khấn của chúng ta hỗ trợ ra sao đối với sự thánh hiến
và sứ mạng của thánh chức linh mục.
Lm. Norbert Keliher, OP(*)
WHĐ (22.02.2022) - Lời khấn của các linh mục
dòng giúp ích gì cho các linh mục triều? Khi được phỏng vấn để trở thành một tu
sĩ Đa Minh, tôi đã bị bối rối trước câu hỏi này.
Vị phỏng vấn tôi, một giáo sư tại Học Viện Đa
Minh, nhìn tôi không chớp, chờ đợi câu trả lời. Dù tôi đã cố gắng để nêu rõ bất
kỳ sự khác biệt nào giữa lối sống của các linh mục dòng và các linh mục triều.
Tôi biết rằng ba lời khấn tu trì là khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục, nhưng tất
cả những điều này dường như cũng áp dụng cho các linh mục triều. Rốt cuộc, các
linh mục triều cũng không có được nhiều tiền, cũng sống độc thân và cũng phải
giữ khiết tịnh và hứa vâng lời giám mục của các ngài.
Thấy sự lúng túng của tôi, vị phỏng vấn đã mủi
lòng và giúp tôi tìm ra câu trả lời. Các tu sĩ sống khó nghèo, khiết tịnh và
vâng phục một cách rõ ràng hơn các linh mục triều, và do đó, giúp làm chứng cho
giá trị của những thực hành ấy trong việc bước theo Đức Kitô.
Kể từ cuộc phỏng vấn đó, tôi đã học biết thêm
về từng lời khấn và làm sao để sống những lời khấn ấy trong cuộc sống hàng
ngày. Tôi hiểu được rằng mặc dù lời khấn thường không rõ ràng trên bề mặt,
nhưng chúng tạo nên nền tảng cho căn tính của một linh mục dòng. Lời khấn đưa
ra lời bảo đảm rằng việc đi theo và noi gương Đức Kitô là trung tâm của đời sống
người tu sĩ, và giúp hỗ trợ việc thánh hiến và sứ mạng của thánh chức linh mục
cho chính mình và cho cả các linh mục triều trong giáo phận.
Từ tính
tuỳ phụ đến tính cốt yếu
Trong triết học Aristotle-Thomistic vốn rất gần
gũi với tu sĩ Đa Minh, sự khác biệt giữa cái tuỳ phụ và cái cốt yếu diễn ra
trong nhiều bối cảnh khác nhau. Chúng ta học cách suy tư theo những thuật ngữ
này về mọi thứ, từ những kết cấu tự nhiên đến cách sống của chính mình.
Trong quá trình đào tạo sơ khởi, những khía cạnh
tùy phụ của đời sống tu trì như: việc sống chung, việc tuân giữ kỷ luật, việc mặc
tu phục và việc tìm hiểu về các vị thánh phong phú đã xuất hiện từ dòng của
chúng ta trong quá khứ… thì nổi bật hơn cái cốt yếu.
Chúng ta cũng học về lời khấn, nhưng chúng ta
trải nghiệm về lời khấn như những điều kiện tiên quyết để bước vào đời sống tu
trì hơn là như những hy sinh cá nhân. Chúng ta đã chấp nhận trả giá khi bỏ lại
đằng sau nghề nghiệp hoặc giấc mơ hôn nhân để bước vào Tập viện. Điều quan tâm
nhất là thức dậy để suy gẫm và cầu nguyện vào buổi sáng, cố gắng tránh làm rớt
nước sốt mì Ý vào tu phục, và kiềm chế những lời nói gắt gỏng đối với một anh
em đang nói quá lớn tiếng hoặc đến họp trễ.
Điều đó không có nghĩa là việc nghiên cứu thần
học về lời khấn không quan trọng. Chúng ta cần chuẩn bị cho cả việc tuyên khấn
đơn lẫn khấn trọng để những giây phút thánh thiêng đó có thể là sự hiến dâng
đích thực có chủ đích và tự do, thực sự tận hiến trọn vẹn bản thân cho Thiên
Chúa. Chúng ta cần biết rằng những lời khuyên Phúc âm đã được Đức Kitô ban tặng
như là những phương thế để chu toàn luật của đức ái, như là những sự trợ giúp
việc lớn lên trong tình yêu trọn vẹn với Thiên Chúa và người lân cận (như Thánh
Thomas mô tả trong Summa Theologiae II-II, Vấn nạn 184, Điều 3).
Chúng ta cần biết rằng tinh thần của các lời
khuyên là bắt buộc đối với tất cả các Kitô hữu, nhưng việc tuân thủ cụ thể các
lời khuyên đó phải được đón nhận cách tự nguyện. Chúng ta cần biết rằng các lời
khuyên hoạt động bằng cách loại bỏ những tài sản hợp pháp thường gây trở ngại
cho sự lớn lên trong đức ái. Chúng ta học hỏi các lời khấn để có thể nắm lấy
chúng như là nền tảng của cuộc đời, cả trong giai đoạn giới hạn trong lời khấn
đơn và suốt đời trong lời khấn trọng. Tôi đã được chuẩn bị kỹ lưỡng cho việc tuyên
khấn của mình, và khi một người anh em trẻ hơn hỏi tôi là sau đó thì việc khấn
trọng của tôi đã như thế nào, tôi có thể thành thật nói với thầy ấy rằng, đó là
ngày hạnh phúc nhất trong đời tôi.
Hiểu được đặc tính thiết yếu của lời khấn là
điều quan trọng đối với những tu sĩ đang trong giai đoạn đào tạo. Nhưng việc
tuân giữ các lời khấn còn kèm theo những áp lực phải vượt qua các yêu cầu về
đào tạo trong các lĩnh vực nhân bản, tâm linh, trí thức và mục vụ, vì vậy việc
tuân giữ các lời khấn có xu hướng không chiếm vị trí ưu tiên trong nhận thức.
Về nhiều mặt, đời sống chủng viện giáo phận
cũng tương tự như đời sống trong một tu viện lớn. Vì thế, không có gì ngạc
nhiên khi các tu sĩ là ứng viên cho chức linh mục tập trung sự chú ý của họ vào
những điều giống như các chủng sinh giáo phận làm.
Những yếu tố thiết yếu của đời sống tu trì -
ba lời khấn - xuất hiện rõ ràng hơn đối với người tu sĩ sau khi kết thúc việc
đào tạo sơ khởi, cho dù đó là với tư cách một trợ sĩ hay một linh mục. Một khi
thầy/cha ấy không còn bị bỏ phiếu và có tự do hơn trong cách sử dụng thời gian
của mình, thì việc tuân giữ lời khấn sẽ có nhiều khả năng giống như một sự hy
sinh hơn. Vào những thời điểm khác nhau, việc từ khước tài sản, hoạt động tình
dục và quyền tự quyết xuất hiện từ hậu cảnh và nhắc nhở người tu sĩ, cũng như
những người xung quanh, rằng những lời khấn định hình cuộc sống của họ cách triệt
để.
Học biết
Tuân phục qua đau khổ
Tôi mới chịu chức chưa được ba năm, nhưng đặc
tính triệt để của ba lời khấn đã bắt đầu xuất hiện đối với tôi. Chứng thư chấp
thuận của Bề trên giám tỉnh cho việc khấn lần đầu của tôi phần nào mang tính
tiên tri đối với tôi: Ngài nói với tôi rằng các đòi hỏi của lời khấn ngày càng
khắt khe hơn theo thời gian, thường theo những cách mà chúng ta không mong đợi.
Sau giai đoạn đào tạo sơ khởi, tôi mong chờ một sự bổ nhiệm may lành đầu tiên tại
một trong những giáo xứ của chúng tôi, nhưng thay vào đó, tôi lại có cảm giác
như Thiên Chúa đã giật tấm thảm dưới chân tôi.
Tôi đã trải qua mùa hè của mình với tư cách là
một phó tế chuyển tiếp tại giáo xứ Thánh Patrick của chúng tôi ở Columbus,
Ohio, vì vậy tôi rất vui mừng khi Bề trên giám tỉnh nói với tôi rằng ngài muốn
bổ nhiệm tôi ở đó sau khi tôi hoàn tất việc học. Tôi đã dành năm đầu tiên của đời
linh mục để hoàn tất bằng Thạc sĩ thần học, vì vậy trong khi tôi có một vài việc
mục vụ và độc lập hơn trước khi thụ phong, tôi vẫn là một sinh viên toàn thời
gian sống trong một ngôi nhà đào tạo.
Việc đến giáo xứ Thánh Patrick là cơ hội cho một
khởi đầu mới và thực hiện đầy đủ tác vụ linh mục của tôi. Tôi nhanh chóng hòa
nhập vào khuôn khổ hàng tuần của cuộc sống của một cha phó tại giáo xứ: những bổn
phận hành chính, dâng lễ hàng ngày và ngồi toà giải tội, những cuộc gọi bệnh viện
và những buổi sáng Chúa nhật thú vị nhưng mệt lử. Tôi nhận thức rõ mình là
thành viên của một cộng đoàn tu trì, nhưng trọng tâm của tôi chủ yếu là về căn
tính linh mục của mình.
Mặc dù tập trung vào thừa tác vụ linh mục, tôi
đã ở một vị thế tốt hơn nhiều để hiểu sự khác biệt giữa việc trở thành một linh
mục dòng và một linh mục triều hơn khi còn là một ứng viên ơn gọi.
Trong nhiều năm, tôi đã biết rõ về một số linh
mục triều, và tôi biết rằng việc tuân giữ các lời khấn đòi hỏi về nhiều mặt. Mặc
dù lương của một linh mục thì khiêm tốn, nhưng đó vẫn là thu nhập của ngài và
không phải chuyển thẳng vào cộng đoàn. Linh mục triều có thể nhận và giữ những
quà tặng mà không cần phải xin phép bề trên, và cũng không phải chuyển những
món tiền biếu cho bề trên. Linh mục triều có thể tích lũy tài sản, sở hữu căn
nhà nghỉ dưỡng và chi tiêu kha khá cho các sở thích.
Sự tiết dục hoàn toàn cũng tuyệt đối như đối với
tu sĩ, nhưng có nhiều nguy cơ đi lạc đường hơn khi sống riêng lẻ thay vì sống
trong một cộng đoàn. Việc vâng lời giám mục liên quan đến việc thực hiện thánh
chức và việc mục vụ nhưng không mở rộng đến các chi tiết của cuộc sống hàng
ngày. Không có hiến pháp nào để tuân giữ và không có bề trên trực tiếp để xin
phép hoặc đồng ý với trong các vấn đề thực tế.
Các linh mục được mời gọi đến sự hoàn thiện của
sự thánh thiện nhờ Bí Tích Truyền Chức Thánh (x. Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, số 12), vì vậy linh mục vẫn phải giữ sao cho
của cải thế gian không trở thành chướng ngại vật cho đức ái. Linh mục có nghĩa
vụ tuân giữ tinh thần của các lời khuyên, và việc tuân thủ của các linh mục
dòng, cũng như của các anh chị em tu sĩ, giúp nhắc nhở linh mục triều về những
lời khuyên này.
Tôi đã cố gắng trở thành một tu sĩ biết vâng lời
trong cộng đoàn, và một người anh em độ lượng để sống cùng, nhưng điều này vẫn
không giúp tôi chuẩn bị cho sự vâng lời trọn vẹn trong vòng chưa đầy một năm
sau khi tôi được bổ nhiệm.
Cùng với 2 thành viên khác của cộng đoàn, tôi
bị nhiễm COVID-19 vào tháng 12 năm 2020. Các triệu chứng của tôi khá nhẹ và phần
tồi tệ nhất là bị cách ly trong phòng vào dịp Giáng sinh và Năm mới. Tôi bị đau
ngực kéo dài sau khi các triệu chứng khác biến mất, nhưng tôi đã trở lại thi
hành thừa tác vụ.
Trong sự phấn khích vì có thể nhận được
vaccine sớm trong đợt triển khai, tôi đã tiêm vaccine chỉ vài tuần sau khi bị ốm.
Vào thời điểm đó, các bác sĩ nghĩ rằng điều này là ổn, nhưng nó khiến cơn đau
ngực của tôi tăng đột biến. Một số loại thuốc ban đầu dường như làm cho nó tốt
hơn, nhưng nó đã quay trở lại sau liều vaccine lần thứ hai của tôi. Mặc dù tôi
đã cố gắng vượt qua nó, nhưng tôi dần nhận ra rằng cơ thể của tôi không thể tự
hồi phục được. Tôi đã luôn khá khỏe mạnh và thích tập thể dục, vì vậy tôi tự
tin rằng cuối cùng tôi sẽ tự chữa lành.
Đến giữa tháng 3, cơn đau ngực của tôi trở nên
nghiêm trọng và liên tục đến mức tôi không thể làm việc toàn thời gian nữa. Bề
trên của tôi và tôi đã quyết định là tôi nên nghỉ một vài tuần để tập trung vào
việc nghỉ ngơi và chăm sóc y tế, và vào thời điểm đó, tôi đã không hình dung được
rằng tôi sẽ không được cử hành Thánh Lễ với cộng đoàn trong 5 tháng.
Các bác sĩ của tôi đã cố gắng cách quyết liệt
để tìm ra nguồn gốc có thể đo lường được của cơn đau nhưng không thành công.
Nhiều người trong giáo xứ, cũng như anh em Đa Minh của tôi, cầu nguyện cho tôi.
Tôi đã nghĩ rằng mình có thể có một kỳ nghỉ kéo dài ở một nơi nào đó, nhưng tôi
dự trù là khi đã xong nhiệm kỳ được bổ nhiệm của mình ở Columbus.
Đó là vào cuối tháng 4, khi tôi cảm thấy giống
như tấm thảm dưới chân bị kéo đi. Bề trên giám tỉnh của chúng tôi (một Bề trên
giám tỉnh khác với vị thời tôi còn trong tập viện) đã gọi điện và nói với tôi rằng
ngài muốn thuyên chuyển tôi tới giáo xứ của chúng tôi ở Youngstown. Những lời
nói đó giáng vào tôi như một cú đánh, mặc dù tôi nhận ra rằng ngài có lý do
chính đáng: giáo xứ ở đó đã có đủ nhân sự mà không cần có tôi, vì thế tôi có thể
dành bao lâu có thể để phục hồi sức khoẻ mà không cảm thấy lo lắng về gánh nặng
mà tôi đang đặt lên những người anh em hoặc các dự án còn dang dở của mình.
Tôi đã khóc sau cuộc điện thoại đó hơn một lần.
Tôi đã gắn bó với cộng đoàn, với những vai trò của mình trong giáo xứ, và với
nhiều gia đình ở đây. Đây là lúc mà những lời trong chứng thư chấp thuận việc
khấn đơn trở lại với tôi: những đòi hỏi của lời khấn ngày càng khắt khe hơn
theo thời gian, thường theo những cách mà chúng ta không ngờ tới. Một cuộc sống
dường như trọn vẹn và có thể đoán trước được đã thay đổi hoàn toàn vì một đặc
điểm thiết yếu: lời khấn vâng phục. Tôi biết rằng đây là nền tảng của cuộc đời
mình, nhưng vì tôi đã lường trước tất cả các giai đoạn đào tạo, bao gồm cả lần
bổ nhiệm đầu tiên của tôi, nên đây là lần đầu tiên sự vâng phục đi ngược lại với
ý muốn tự nhiên của tôi.
Tôi phải tin cậy vào sự quan phòng của Thiên
Chúa và noi gương lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong vườn Giêtsimani: “Không phải theo ý con, nhưng theo ý Cha”
(Mt 26, 39). Mục đích của sự vâng phục là làm cho chúng ta nên đồng hình đồng dạng
với Đức Kitô trong sự dâng hiến của Người cho Chúa Cha, và với sự tái bổ nhiệm
đột ngột này, tôi bắt đầu học biết điều này có nghĩa là gì.
Như là sự phù hợp vừa cho một tu sĩ lẫn một
linh mục, Thiên Chúa đã làm cho tôi nên giống Con của Ngài hơn, Đấng đã học
vâng phục từ những gì Người phải chịu đựng. Thậm chí còn hơn cả cơn đau ngực của
tôi, sự quy phục ý muốn của tôi là một đớn đau đối với tôi.
Sự hiểu
biết lớn hơn
Câu chuyện của tôi có một kết thúc có hậu: Tôi
đã hồi phục đủ ở Youngstown để đảm nhận một tác vụ mới tại Trung tâm Newman. Sự
quan phòng của Thiên Chúa đã không thất bại, và như là một phần của điều đó,
tôi hy vọng việc thực hành vâng phục của tôi là một chứng tá cho giáo dân của
giáo xứ Thánh Patrick và các linh mục mà tôi đã gặp.
Bây giờ tôi hiểu rõ hơn rằng các linh mục triều
có thể gặp khó khăn lớn trong việc thuyên chuyển của mình. Tôi biết ơn về hồng
ân đời tu giúp tôi thấy sự cần thiết của hi sinh, nhưng tôi cũng ý thức rằng việc
tuyên khấn các lời khuyên không có nghĩa là một tu sĩ thì có chút gì đó thánh
thiện hơn một linh mục triều.
Lời khấn là những hỗ trợ mà chúng ta nắm lấy
trong hành trình tìm kiếm sự hoàn thiện của đức ái, nhưng một linh mục triều
tuân giữ tinh thần của những lời khuyên có thể vượt trội một tu sĩ khô khan,
nguội lạnh. Điều quan trọng là những hành động chúng ta thực hiện để lớn lên
trong đức ái.
Việc củng cố lẫn nhau giữa sự thánh hiến tu
trì và căn tính linh mục, giữa các thể chế tu trì và các linh mục triều là điều
thiện hảo mà Thiên Chúa là Cha của mọi người mong muốn. Thánh Tôma nói rằng các
bậc sống khác nhau trong Giáo hội góp phần làm nên vẻ đẹp và phẩm giá của Giáo
hội (x. Summa Theologiae II-II, Vấn nạn
183, Điều 2), và điều này đúng cách riêng đối với các dòng tu và linh mục triều.
Không có sự tuyên khấn khó nghèo, khiết tịnh
và vâng phục của các tu sĩ, thì những lời khuyên Phúc âm sẽ nhạt nhoà trong hậu
cảnh của đời sống Giáo hội. Không có các linh mục và các giám mục giáo phận, sẽ
không có việc chăm sóc mục vụ cho các tu sĩ tham gia. Khi cả linh mục lẫn tu sĩ
đều trung thành với bậc sống của mình, thì Giáo Hội trở nên đẹp đẽ hơn, và những
nền tảng của Giêrusalem thiên quốc được củng cố.
Nt. Anna Ngọc Diệp,
OP
Dòng Đa Minh Thánh
Tâm
Chuyển ngữ từ: thepriest.com (15.01.2022)
_____
(*) Cha Norbert Keliher, OP, là một tu sĩ dòng Đa Minh thuộc Tỉnh Dòng Thánh Giuse và là giám đốc mục vụ khu Đại học tại Trung tâm Newman của trường Đại học Youngstown ở Ohio, Hoa Kỳ.