Tuấn Việt dịch từ: Bernard Cooke, Sacraments and Sacramentality, Twenty-Third Publications, 7thEdition, New London, 2006, trang 57-67.
Mục lục
1. Lượng giá lại về mặt lịch sử
2. Thiết lập là sống, chết
và chỗi dậy
3. Đức Giêsu, Lời của
Thiên Chúa
5. Đức Giêsu, sự hiện diện
của Abba
6. Đức Giêsu, bí tích về sự
hiện diện cứu độ của Thiên Chúa
WHĐ (20.03.2021) - Sách giáo lý Hội thánh Công giáo số 1131 định
nghĩa: “Các bí tích là những dấu hiệu của ân sủng do Chúa Kitô thiết lập và được
trao lại cho Hội Thánh để ban sự sống thần linh cho chúng ta.” Nhưng rõ ràng,
các sách Tân ước không hề minh nhiên thuật lại việc Chúa Giêsu thiết lập các bí
tích. Và trải qua một thời gian dài suốt dòng lịch sử, Hội Thánh không định
nghĩa bí tích là gì và có bao nhiêu bí tích. Mãi đến Công đồng Trentô
(1546-1563), Hội Thánh mới chính thức và long trọng tuyên bố thành tín điều: “Nếu
ai nói rằng bí tích của Tân ước không do Chúa Kitô thiết lập, hoặc nói có ít
hay nhiều hơn bảy bí tích, thì sẽ bị tuyệt thông”. Vậy Đức Giêsu đã thiết lập
các bí tích Kitô giáo theo cách thức nào? (Lời người dịch)
1. Lượng giá lại về mặt lịch sử
Giống như những phát biểu mang
tính giáo thuyết về đức tin Kitô giáo khác, chúng ta đã lặp đi lặp lại trong những
thế kỉ qua rằng: “Các bí tích là những dấu chỉ thánh thiêng, được Chúa Kitô thiết
lập, để ban ân sủng”, và chúng ta đã làm điều đó mà không hề quan tâm đến ý
nghĩa của những gì chúng ta tuyên bố. Hoặc là, nếu phải giải thích về mặt giáo
lý, chúng ta thường giải thích một cách hời hợt, thậm chí nhiều lúc giải thích
sai. Suốt những thế kỉ qua, chúng ta thường hiểu rằng chính Đức Giêsu, trong những
năm sứ vụ công khai và trước khi về trời, đã hướng dẫn cho các Tông đồ biết
cách thức cử hành các nghi lễ bí tích khác nhau (thánh tẩy, cử hành thánh lễ,
vv…). Cuộc tranh luận kéo dài hàng thế kỉ giữa các thần học gia, để xem có phải
chính Chúa Giêsu đã đích thân quy định cách chi tiết các cử hành phụng vụ thiết
yếu (ví dụ như dùng nước trong việc thánh tẩy với công thức tuyên xưng Ba
Ngôi), hay là Ngài chỉ để lại cho các Tông Đồ những công thức chung cho việc cử
hành bí tích, còn phần chi tiết là do các Tông Đồ. Nhưng cho dù các thần học
gia chọn lựa hình thức thiết lập các bí tích “theo loài” (specific) hay “theo loại” (generic),
thì cũng có một sự nhất trí với nhau rằng phụng vụ bí tích đã được Chúa Giêsu dự
liệu và ủy thác bằng một cách thức nào đó.
Đôi khi lối giải thích này gặp phải
những khó khăn. Trong các trình thuật của Tân ước về hoạt động của Chúa Giêsu,
có rất ít dấu hiệu cho thấy Chúa Giêsu đã thiết lập như vậy, có lẽ ngoại trừ việc
Thánh tẩy và lập Phép Thánh thể. Các nghiên cứu Thánh kinh và lịch sử hiện đại
- làm rõ một cách đáng kể bức tranh về Kitô giáo thực sự như thế nào - đã cho
thấy cách hiểu “truyền thống” thậm chí còn khó chấp nhận hơn. Trong thực tế, dưới
ánh sáng của những gì chúng ta đã biết về Giáo hội sơ khai, thật không thể nào
duy trì quan niệm cho rằng các nghi lễ bí tích được Chúa Giêsu dự liệu, hay ủy
thác. Nhưng, liệu rằng những gì chúng ta thực hiện với dáng vẻ như là yếu tố bền
vững và sâu sắc trong niềm tin Kitô giáo, nghĩa là những gì các Kitô hữu đã thực
hiện trong các bí tích, có thể tìm được nguồn gốc của nó trong chính hoạt động
cứu độ của Chúa Giêsu hay không?
Một phần của vấn đề có thể nằm ở
thực tế là chúng ta đang tìm kiếm một điều không xác thực khi chúng ta trở lại
Tân ước và các tài liệu Kitô giáo sơ khai. Chúng ta đang tìm kiếm với một góc
nhìn quá nhỏ hẹp, tìm kiếm các cử hành phụng vụ như là những gì đã được kết cấu
hóa, ít nhất là trong hình thức chính yếu, giống như “bảy bí tích” của chúng
ta. Điều hữu ích cho ta lúc này là chúng ta cần phải có một cái nhìn bao quát
hơn về cách hiểu mang tính giả thuyết của chúng ta về “bí tích”: đó là những gì
ảnh hưởng lên một cái gì đó nhờ ý nghĩa của nó. Nói cách khác, bí tích là những
gì đem lại ý nghĩa cho những thứ khác. Như vậy, vấn đề của chúng ta giờ đây là:
Chúa Giêsu đã làm gì khiến thay đổi ý nghĩa của thực tại nhân loại của chúng
ta? Đâu là ý nghĩa nơi hành động của Ngài đã làm biến đổi ý nghĩa kinh nghiệm
nhân loại của chúng ta, và do đó, cũng là thực tại của hiện sinh nhân loại
chúng ta?
2. Thiết lập là sống, chết và chỗi dậy
Chúng ta hãy bắt đầu với một câu
trả lời khái quát cho câu hỏi này, và sau đó sẽ trình bày cách chi tiết hơn.
Chúa Giêsu đã thiết lập (và tiếp tục thiết lập) hệ thống bí tích Kitô giáo bằng
toàn bộ đời sống và đặc biệt là bằng cái chết và sự phục sinh của Ngài. Bằng việc
sống, chết và đi vào trong một hình thái mới của đời sống nhân loại, Ngài đã biến
đổi thực tại và ý nghĩa của điều nói lên ý nghĩa của kiếp nhân sinh. Ngài đã mặc
lấy cho “nhân loại” một ý nghĩa mới. Vì lý do đó, Ngài chính là mặc khải mới từ
Thiên Chúa về nhân tính là gì. Như một số thần học gia ngày nay phát biểu, Chúa
Giêsu là “dụ ngôn của Thiên Chúa”, là câu chuyện sống động thực sự giải thích về
nhân loại cũng như Thiên Chúa là gì.
Thông qua cuộc sống, cái chết và
phục sinh, Chúa Giêsu đã đem lại cho toàn bộ kinh nghiệm nhân loại một ý nghĩa
“Kitô”; Ngài đã đem lại cho đời sống con người một ý nghĩa làm con thực sự, bằng
cách hiện thực hóa trong sự phát triển nhân loại của Ngài những gì có nghĩa là
trở nên một con người đang lớn lên, bằng cách đáp trả Thiên Chúa, Đấng mà Ngài
cảm nghiệm như là Abba. Ngài cũng cho
thấy làm thế nào người ta có thể trở thành người hơn bằng cách chấp nhận thực tại
của việc làm “con yếu dấu” của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, cái chết và sự phục sinh của
Ngài, cuộc vượt qua của Ngài vào trong một hiện sinh nhân loại hoàn toàn mới và
trọn vẹn, là những gì đem lại ánh sáng cho toàn bộ đời sống của Ngài và giải
thích lại với chiều sâu mới ý nghĩa của tất cả những gì Ngài đã trải qua. Đây
là những gì đã làm thay đổi một cách cơ bản các cử hành bí tích căn bản của đời
sống nhân loại của Ngài và của chúng ta.
Một cách khác để diễn tả vai trò
của Chúa Giêsu trong việc thiết lập các bí tích Kitô giáo đó là: chính Ngài là
bí tích căn bản của sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại.
Nói về Chúa Giêsu theo những hạn từ chính xác hơn có vẻ như mới mẻ, nhưng cách
hiểu được diễn tả bởi những lời ấy được chứa đựng trong chính Tân ước. Các phạm
trù đã được sử dụng bởi Giáo hội sơ khai, và đồng thời cũng là bởi các bản văn
Tân ước, hiểu vai trò bí tích này của Chúa Giêsu là: (1) Lời của Thiên Chúa và
(2) Đền thờ mới.
3. Đức Giêsu, Lời của Thiên Chúa
Bên cạnh thần học Tân ước về Chúa
Giêsu như là Ngôi Lời của Thiên Chúa, truyền thống Cựu ước lâu đời cũng đã
trình bày những suy tư về lời của Thiên Chúa. Trong thời kì các phong trào ngôn
sứ vĩ đại xuất hiện ở Israel (khoảng thế kỉ thứ tám và thứ bảy trước Công
nguyên), có quan niệm cho rằng chính lời của Thiên Chúa đã đem lại năng lực sống
(power of life) cho lịch sử nhân loại.
Những lời ấy đã làm hoang mang và gây lo lắng cho con người trong một thời gian
dài trước đó. Tại sao lời của lề luật, cho dù được viết ra hay được nói ra, có
thể gây nên cái chết hay giam hãm hay đem lại phần thưởng? Làm thế nào những dấu
chỉ kì lạ này in vào các bảng bùn (clay
tablets) hay được ghi trên giấy papyrus
đem lại một thông điệp trải dài hàng trăm dặm? Làm thế nào sức mạnh của một vị
vua có thể được chứa đựng trong một mệnh lệnh? Do đó, dân Israel, được làm
thành một dân bằng việc Thiên Chúa nói với họ, đặc biệt trong lề luật, ngày
càng trở nên say mê nhờ sức mạnh của lời Thiên Chúa.
Lời Thiên Chúa trở nên khả dĩ là nhờ
các tác nhân con người. Rõ ràng nhất là, ĐỨC CHÚA nói với dân thông qua các
ngôn sứ, các vị ấy có nhiệm vụ nói thay Thiên Chúa; nhưng một cách căn bản hơn,
lời Thiên Chúa hướng dẫn đời sống của dân Israel thông qua lề luật, như nó đã
được công bố và giải thích bởi các tư tế và kinh sư. Lời này hướng dẫn và an ủi;
đó là lời giáo huấn, nhưng trên hết, nó là lời mệnh lệnh kèm theo lời hứa hay
đe dọa.
Lời của Thiên Chúa chất chứa một
sức mạnh vô song, đặc biệt là năng lực sống dồi dào. Khi Thiên Chúa kêu gọi
ngôn sứ Jeremiah thực thi sứ vụ ngôn sứ, vị ngôn sứ được cho biết rằng lời
Thiên Chúa sẽ ở trên môi miệng ông để xây dựng và phá hủy, để gieo trồng và nhổ
lên. Như vậy, không có gì ngạc nhiên, Jeremiah phải miễn cưỡng tuyên bố những lời
tiên báo tàn khốc về sự sụp đổ của Jerusalem. Khi được thốt ra từ môi miệng của
vị ngôn sứ, lời tiên báo này giống như một sức mạnh thể lý và cũng là nguyên
nhân cho điều nó loan báo. Lời quyền năng này được mô tả cách ấn tượng ở một
trong những đoạn văn đầy hình ảnh nhất của Sách Thánh (Is 55, 9-11):
“Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối
các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy. Cũng
như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất,
chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nảy lộc cho kẻ gieo có hạt giống, cho
người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta sẽ
không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa
chu toàn sứ mạng Ta giao phó.”
Không chỉ các ngôn sứ triển khai
cách hiểu này về lời hữu hiệu của Thiên Chúa. Trong truyền thống tư tế, như
chúng ta nhận thấy trong chương mở đầu của sách Sáng Thế, lời Thiên Chúa chính
là sức mạnh sáng tạo. Khác với các thần thoại cổ khác về nguồn gốc thế giới, bản
văn tư tế này trình bày ĐỨC CHÚA chỉ đơn thuần truyền lệnh cho vũ trụ xuất hiện.
Thiên Chúa phán: “Hãy có ánh sáng!” Lời
này đã làm ra thế giới; nó làm cho Israel trở thành một dân. Từ quan điểm xã hội
đơn thuần, lời của ĐỨC CHÚA, theo niềm tin của dân Israel, có ảnh hưởng hơn mọi
thứ khác, đã kiến thiết Israel trở thành một dân.
Khi chúng ta đọc những trang Tân
ước, chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu liên hệ đến thần học về lời Thiên Chúa này
theo nhiều mức độ khác nhau. Ngài là một ngôn sứ, ngôn sứ vĩ đại được mong đợi,
là người rao giảng niềm mong đợi sau hết về “Ngày của Đức Chúa”. Nhưng Ngài còn
hơn thế nữa, Ngài hiện thực hóa ý niệm về ơn gọi ngôn sứ như được mô tả trong
Bài ca Người tôi tới (Is 52-53); Ngài thực sự tóm tắt toàn bộ lịch sử ngôn sứ của
Israel trong sứ mạng của riêng Ngài. Nhưng suy tư của Kitô giáo về Đức Giêsu
còn đi xa hơn nữa. Không chỉ là lời Thiên Chúa trên môi miệng Đức Giêsu theo một
cách thức độc đáo nhất, nhưng trong chính hữu thể của Ngài như là một con người
xuất thân từ làng Nazareth, Ngài là Lời cứu rỗi, sáng tạo và mặc khải của Thiên
Chúa.
Tuy nhiên, người Kitô hữu cần phải
nhớ điều này là: mầu nhiệm Đức Giêsu như là hiện thân của Lời tự mặc khải của
Thiên Chúa vẫn tiếp tục trong lịch sử. Với cái chết và phục sinh của mình, Đức
Giêsu không chỉ dừng lại việc thực hiện của Lời này, như thể là công trình của
Ngài đã hoàn tất. Thay vào đó, với sự phục sinh, Ngài đã thực hiện một cách
viên mãn chức năng này. Là Lời của Thiên Chúa, Ngài thông truyền ân huệ là
chính Thiên Chúa, nhờ đó, con người có thể đón nhận ân huệ này, và khi chấp nhận
như vậy, con người được cứu độ và được sống bởi Thần Khí Thiên Chúa; và Đức
Giêsu là Lời ấy mãi mãi và không thể thay đổi. Như vậy, khi nghiên cứu về việc
nhập thể của Ngôi Lời trong Đức Giêsu, chúng ta không chỉ đang nói về những gì
đã diễn ra, nhưng còn là những gì đang tiếp tục diễn ra hôm nay.
4. Đức Giêsu, Đền thờ mới
Khi Đức Giêsu hoàn thành một cách
siêu việt tất cả kinh nghiệm của dân Israel về lời Thiên Chúa, đồng thời Ngài cũng
thực hiện trong bản thân và công trình của Ngài ý nghĩa và chức năng sâu sắc
hơn của đền thờ Jerusalem và chức tư tế của nó. Trong những thế kỉ đóng chân tại
Jerusalem, đền thờ được Salomon xây dựng này đã đóng vai trò biểu trưng rất sâu
xa trong đời sống của Israel. Sự tồn tại của nó là dấu chỉ sự nâng đỡ và củng cố
của Thiên Chúa đối với triều đại Đavid, và qua triều đại này, là vương triều
Giuđa. Khi nó dần dần trở nên đền thờ trung tâm của toàn thể Israel, và chức tư
tế của nó có được một vị trí ưu việt trong đời sống tôn giáo của dân tộc, đền
thờ dần dần trở nên trung tâm hiệp nhất. Trong đền thờ, hòm bia giao ước được
gìn giữ để nhắc nhớ giao ước được kí kết ở Sinai. Cũng trong đền thờ, người ta
dâng những hy lễ lên Thiên Chúa như được mô tả trong lề luật. Trong những dịp đại
lễ tại đền thờ, khi đó dân Israel từ khắp nơi quy tụ lại với nhau, lắng nghe lời
công bố và giải thích luật, nhờ đó Thiên Chúa hướng dẫn đời sống của họ.
Theo một ý nghĩa nào đó, đền thờ
này là nơi hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa Israel. Không phải ĐỨC CHÚA bị
giam hãm trong nơi cực thánh, phần thánh thiêng nhất của đền thờ, nhưng ở đây,
sự hiện diện của Thiên Chúa được tập trung một cách nào đó, nơi đó người ta có
thể được bảo đảm có cơ hội tiếp xúc với Thiên Chúa, làn khói bốc lên từ các hy
lễ xác quyết cho dân rằng Thiên Chúa đang chấp nhận lời cầu nguyện của họ và
đáp ứng các nhu cầu của họ. Đền thờ đóng vai trò như là một biểu tượng về sự
trung thành liên lĩ của dân Israel đối với Thiên Chúa; nó còn hơn là một biểu
tượng về lòng trung thành không ngơi nghỉ của Thiên Chúa trong việc bảo vệ và
hướng dẫn dân chúng.
Trình bày vai trò biểu trưng mạnh
mẽ và trung tâm của đền thờ vua Salomon, chúng ta có thể tưởng tượng ý nghĩa thảm
họa đổ ập xuống dân khi quân đội Babilon phá hủy nó vào năm 586 TCN. Chúng ta
chỉ có thể bắt đầu hiểu đúng lòng khao khát mãnh liệt nhất của dân Do Thái ở
nơi lưu đày Babilon mong muốn trở về Jerusalem và tái thiết đền thờ.
Vào thời Chúa Giêsu, đền thờ đã
được tái thiết này mang một ảnh hưởng biểu trưng rộng lớn hơn. Mặc dù dân Do
Thái bị phân tán xung quanh lưu vực Địa Trung Hải trong cuộc lưu đày là kết quả
của các cuộc xâm lược Palestine, họ tìm thấy nguồn căn tính và hiệp nhất nơi đền
thờ Jerusalem. Khi có thể, họ đến đền thờ để cử hành các nghi lễ quan trọng.
Ngay cả khi không thể đi lên Jerusalem, việc nhận biết về sự hiện hữu của đền
thờ là sức mạnh thống nhất giữa dân Do Thái.
Như được mô tả trong Tin Mừng, sự
mâu thuẫn giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Do Thái xét cho cùng được cô đọng
trong mối tương quan giữa chính bản thân Ngài và việc xây dựng đền thờ. Đức
Giêsu không chỉ công kích những lạm dụng trong việc thờ phượng ở đền thờ, nhưng
sứ mạng của Ngài còn đánh dấu khởi đầu cho sự kết thúc của đền thờ và tất cả những
gì diễn ra trong đó, kết thúc vai trò trung gian đặc biệt của chức tư tế đền thờ.
Những gì được thực hiện trong đời sống của Ngài và đặc biệt là trong cái chết
và phục sinh của ngài vừa thay thế vừa hoàn thiện tất cả ý nghĩa của đền thờ
trong đời sống của dân giao ước. Chính Chúa Giêsu là “nơi cư ngụ” mới của sự hiện
diện cứu độ của Thiên Chúa được gắn liền với một nơi thánh thiêng; việc cư ngụ
của Thiên Chúa phải tìm ra tiêu điểm của nó trong dân giao ước mới, cộng đoàn
đó là “thân thể của Đức Kitô” (theo cách nói của thánh Phaolô).
5. Đức Giêsu, sự hiện diện của Abba
Khi chúng ta dừng lại để suy tư về
đề tài Tân ước nói về Chúa Giêsu như là Lời và Đền Thờ, chúng ta có thể nhận thấy
rằng đức tin Kitô giáo nhìn nhận Chúa Giêsu như là bí tích căn bản về sức mạnh
cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử. Ngài không chỉ là dấu chỉ hữu hình mà
Thiên Chúa thực hiện trong thế giới của chúng ta; Ngài là công trình của Thiên
Chúa trong thế giới. Điều này bắt đầu với sự hiện diện độc nhất của Thiên Chúa
với cảm nghiệm của Đức Giêsu Nazareth, cảm nghiệm về Abba của Chúa Giêsu, một cảm
nghiệm có một không hai nơi tâm trí con người của Ngài với thực tại siêu việt,
là một điều gì đó mà chúng ta chỉ có thể hình dung cách mơ hồ. Chúng ta có thể
liên tưởng đến một cái nhìn trực tiếp về Thiên Chúa, chúng ta có thể nói rằng
Ngài nhận thức về Thiên Chúa “diện-đối-diện”, chúng ta cũng có thể nói nhận thức
về Thiên Chúa lan tỏa trong toàn bộ tinh thần của Ngài, nhưng tất cả phát biểu
này đều không thỏa đáng, thậm chí còn là những diễn tả sai lạc về sự mật thiết
mầu nhiệm giữa con người lịch sử này và Thiên Chúa siêu việt mà Ngài xem như là
Abba - Cha. Không một người Do Thái trong thời Chúa Giêsu sử dụng từ ngữ thân
thương này để gọi Thiên Chúa của Israel.
Chúng ta có thể đưa ra một loại
suy mờ nhạt từ một vài hoàn cảnh con người về sự thân mật riêng tư. Ví dụ, khi
tôi nói chuyện với người mà tôi rất yêu thương và tôi nhìn vào đôi mắt người ấy,
có một sự thân mật chân thành về mối liên hệ cá nhân, và tôi không thể giấu
mình đối với người đó, và do đó, chúng tôi trở nên hiện tại đối với nhau. Trái
lại, nếu tôi không thực sự muốn nói chuyện cách chân thành với ai đó, tôi tránh
tiếp xúc trực tiếp bằng mắt. Do đó, chúng ta có thể quảng diễn rằng Chúa Giêsu,
với những gì chúng ta gọi là “đôi mắt của linh hồn” sống trong sự thân mật và
hiện diện của Thiên Chúa, và Ngài đã sống như vậy với sự nhận thức về tình trạng
– vượt ra khỏi những gì người khác có thể tuyên bố - làm Con Thiên Chúa.
Bởi vì sự nhận thức về Thiên Chúa
siêu vượt như là Cha của Ngài là điều bất khả phân ly khỏi việc tự nhận thức về
mình, Đức Giêsu luôn sống trong sự hiện diện đầy ý thức của Thiên Chúa; Thiên
Chúa cư ngụ trong sự hiện diện đặc biệt nơi Đức Giêsu. Thiên Chúa bày tỏ chính
mình như là ngôi vị nơi người con mang bản tính nhân loại (human son) này; Đức Giêsu là sự bày tỏ được đón nhận và chuyển dịch
(received and translated) trong đời sống
con người. Đức Giêsu là Lời của Thiên Chúa đã trở thành xác phàm. Cụ thể hơn, Đức
Giêsu không nghĩ về chính Ngài tách biệt khỏi nhận thức về Abba, trong mối tương quan với Đấng mà Ngài làm nên sự ý thức về
chính mình của Ngài.
Tuy nhiên, chúng ta không được
nghĩ rằng vai trò của Đức Giêsu liên quan đến sự hiện diện của Thiên Chúa là một
điều hoàn toàn thụ động. Sự hiện diện đòi hỏi rằng người ta phải tự do mở ra với
người muốn thông truyền; nó đòi hỏi lắng nghe theo ý nghĩa sâu xa nhất của hạn
từ đó. Tư tưởng Tân ước nói đến khía cạnh này nơi tương quan của Chúa Giêsu với
Cha của Ngài trong hạn từ “vâng phục”. Ngài sống trong sự chấp nhận liên lĩ và
vô điều kiện; mọi thứ trong đời sống của Ngài là sự đáp trả đầy yêu thương đối
với tình yêu mà Ngài cảm nghiệm phát xuất từ Cha của Ngài. Truyền thống Tin Mừng
Gioan mô tả Đức Giêsu như là “luôn làm đẹp lòng Cha.” Một cách cụ thể, ở bình
diện đời sống cá nhân, việc Đức Giêsu hướng tình yêu về Cha, đối với Ngài, có
nghĩa là sống như một con người và với ý thức như là người con.
Đức Giêsu là con người, giống như
tất cả chúng ta, mối tương quan bao hàm trong việc sống như người con của một
ai đó là một điều ở trong tình trạng tiến triển. Thật không may, nhiều người đi
đến tuổi trưởng thành chỉ về mặt sinh học và vẫn là con của ai đó về mặt pháp
lý, bởi vì họ từ chối cha mẹ của họ ở bình diện cá nhân từ lâu; mối tương quan
này không còn quan trọng đối với họ; nó không nằm ở cội nguồn căn tính của họ.
Đối với tất cả chúng ta, trở thành con không phải là một tiến trình lâu dài,
trong nhiều trường hợp, đó còn là một quá trình đầy khó khăn. Đối với Đức
Giêsu, tiến trình trở thành con của Cha vẫn tiếp tục kéo dài trong suốt đời sống
trần thế cũng như qua cái chết và phục sinh của Ngài.
“Việc trở thành con” này chắc chắn
được điều kiện hóa bởi hoàn cảnh thời gian, nơi chốn, và những gì xảy ra làm
nên kinh nghiệm ngày nối tiếp ngày của Đức Giêsu; mối liên hệ này và sự chấp nhận
của Cha được thể hiện một cách cụ thể trong quá trình đáp ứng với những hoàn cảnh
này. Do đó, cá tính riêng trong đời sống lịch sử của Ngài đã trở nên, và vẫn trở
nên, một phần nội tại trong bản chất của Ngài như là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập
thể. Chính con người này, Đức Giêsu Nazareth, một cách cụ thể, là Đức Kitô và
là Chúa.
Bởi vì sự phát triển con người của
Đức Giêsu được thể hiện qua việc đáp trả liên tục với sự hiện diện đặc biệt của
Cha Ngài, chúng ta có thể nói rằng việc tự tỏ bày một cách cá nhân của Thiên Chúa,
Ngôi Lời, là sự sáng tạo không ngừng của con người Đức Giêsu. Không chỉ sáng tạo
về mặt hữu thể học như là yếu tố duy trì sự hiện hữu của mọi thứ trong vũ trụ.
Cũng không chỉ sáng tạo theo cách thức cảm nghiệm tôn giáo mãnh liệt của Thiên
Chúa định hình trong ý thức của vị ngôn sứ và nhà huyền bí. Trong Đức Giêsu, nó
vượt ra khỏi những kiểu cụ thể này, bởi vì nó chính là nguồn của việc tự nhận
thức về bản thân của Ngài. Căn tính con người của Ngài là làm con của Cha.
6. Đức Giêsu, bí tích về sự hiện diện cứu độ của
Thiên Chúa
Một cách diễn tả khác về bản chất
và vai trò của Đức Giêsu đó là Ngài là bí tích về sự hiện diện cứu độ của Thiên
Chúa, hiển nhiên điều này đem chúng ta đến gần hơn với nghiên cứu của chúng ta
về vấn đề Đức Kitô thiết lập các bí tích có nghĩa là gì. Ở trọng tâm tính chất
bí tích của Đức Giêsu, và cử hành bí tích Kitô giáo, chính là sự hiện diện đặc
biệt của Thiên Chúa với Đức Giêsu mà Ngài nhận biết trong kinh nghiệm về Cha của
Ngài, một sự hiện diện đòi buộc Đức Giêsu mở ra hoàn toàn với việc trao ban
chính mình đối với Cha Ngài. Khi nó phát triển trong suốt đời sống trần thế, cảm
nghiệm này là biểu tượng nền tảng qua đó Đức Giêsu dần dần ý thức về Thiên Chúa
và về chính mình.
Tuy nhiên, sự hiện diện biến thể
và sáng tạo này của Cha Đức Giêsu trở thành bí tích hóa đối với những người
khác, vì nó được thể hiện theo cách thức làm thay đổi ý nghĩa đời sống con người
và nó được “chuyển dịch” (translate) ở
hai mức độ: 1) Nó là một phần của nhận thức của Đức Giêsu theo cách thức đụng
chạm đến ý nghĩa của mọi thứ khác mà Ngài đã trải nghiệm. 2) Như vậy, nó được
diễn tả trong những lời nói và hành động mà Đức Giêsu chia sẻ với những người
xung quanh Ngài và diễn tả những gì đời sống có ý nghĩa với Ngài. Nhận thức của
Ngài và sự mở ra với Cha Ngài phải diễn ra như là một yếu tố nội tại trong cảm
nghiệm liên tục của Ngài về tình trạng con người Giêsu. Ngài cảm nghiệm Cha của
Ngài như là nguồn cội, ý nghĩa sau cùng và mục đích tối hậu của mọi sự kiện diễn
ra trong đời sống của Ngài. Cha của Ngài được mặc khải cho Ngài ở trong và
thông qua những biến cố; đồng thời, những biến cố ấy khác biệt một cách triệt để
như là những kinh nghiệm nhân loại, chúng không bao gồm sự hiện diện này của
Cha Ngài.
Đức Giêsu đã sống một loạt những
hệ lụy về kinh nghiệm cụ thể của nhân loại trong lịch sử (là người Galilê trong
thời kì biến loạn xã hội mà cuối cùng dẫn đến việc người Rôma phá hủy
Jerusalem, dạy dỗ và xây dựng một nhóm nhỏ các môn đệ, bị các thượng tế chống đối,
vv…) trong một cảm nghiệm liên lỉ về sự hiện diện của Cha Ngài. Đối với Ngài,
thực chất của việc làm người là liên tục được “thần thiêng hóa” (divinized). Bởi vì Cha của Ngài là thực
tại căn bản nhất mà Ngài ý thức được, thực tại của Cha Ngài đem lại ý nghĩa tối
hậu cho mọi thứ khác mà Ngài trải nghiệm. Tự nhận thức về chính mình – là cái
đã dần dần phát triển kinh nghiệm này – được định hình bởi mối tương quan với
Cha Ngài, Đấng được nhận biết giữa những gì xảy ra trong cuộc đời Ngài.
Theo cách này, dòng kinh nghiệm nền
tảng mang tính nhân loại được biến đổi trong ý nghĩa của nó, đó là trong tính
chất bí tích của nó, bởi những gì diễn ra trong nhận thức của Đức Giêsu. Nhờ trải
nghiệm về mặt tâm lý học sâu xa với cái siêu việt, tất cả các yếu tố căn bản của
việc làm người – được sinh ra, lớn lên, đau khổ, vui mừng, thành công, thất bại,
quyết định, nguy hiểm, không chắc chắn, cái chết, sợ hãi, hy vọng, yêu thương –
mang lấy một ý nghĩa sâu xa chưa từng có. Ở đây, trong Đức Giêsu, những gì nhân
tính có thể trở thành nếu nó sống trong sự thân mật với thần linh được mặc khải;
đồng thời, ở đây trong Đức Giêsu, cùng đích của nhân loại cũng được mặc khải.
Tuy nhiên, những gì diễn ra trong
ý thức của Đức Giêsu chỉ ở mức độ thứ nhất của “chuyển dịch”. Để sự hiện diện cụ
thể của Người Cha thần thiêng trở thành bí tích cho người khác, ý nghĩa đời sống
con người đã được biến đổi này phải được thông truyền nhờ Đức Giêsu thông qua lời
nói và hành động của Ngài. Đây là những gì trình thuật của Tin Mừng về sứ mạng,
cái chết-phục sinh của Đức Giêsu muốn nhắm tới. Thông qua giáo huấn và việc chữa
lành của Đức Giêsu, nhưng trên hết là cuộc gặp gỡ trao ban sự sống qua cái chết
của Ngài, Ngài đã bí tích hóa sự hiện diện biến thể của Cha nhờ những gì chính
Ngài đã sống.
Khi chúng ta cẩn thận nhìn lại những
thập niên đầu của Kitô giáo và quá trình suy tư và truyền thống truyền khẩu dẫn
đến việc biên soạn các bản văn Tân ước, chúng ta có thể nhận thấy rằng các Kitô
hữu tiên khởi rất ý thức về “chuyển dịch ở mức độ thứ hai” của việc cử hành bí
tích của Đức Giêsu, tuy nhiên, một cách hiển nhiên, chúng không được thực hiện
theo cách mà chúng ta đang làm. Cách tiếp cận của họ được diễn tả trong quan niệm
rằng Thiên Chúa đã thực hiện những việc làm vĩ đại: cuộc sống, cái chết và phục
sinh của Đức Giêsu; đây là đỉnh điểm của tất cả việc làm vĩ đại của Thiên Chúa
đã làm nên lịch sử Israel thời Cựu ước. Dĩ nhiên, những gì Đức Giêsu đã làm là
những gì Ngài thực sự đang làm, nhưng đó cũng là công trình của Thiên Chúa
trong Đức Giêsu: Thiên Chúa đã sai Đức Giêsu đến làm Đấng Cứu Thế, và đã xác nhận
điều đó bằng cách làm cho Ngài chỗi dậy từ cõi chết. Những gì Chúa Giêsu đã là,
đã nói và đã làm phải được xem như là bày tỏ sự hiện diện và ý định cứu độ của
Thiên Chúa. Nói theo hạn từ Thánh Kinh, Đức Giêsu đã là và là “vinh quang Thiên
Chúa”.
Do đó, không có gì nơi Đức Giêsu
là vô nghĩa. Trong những cách thức đó, hành động của Đức Giêsu và chính hữu thể
của Ngài truyền đạt những ý nghĩa, chúng mặc khải cho chúng ta ý nghĩa về chính
những kinh nghiệm đời sống của chúng ta. Ý nghĩa của những gì Ngài đã nói và đã
làm gợi lên những ý nghĩa mà chúng ta áp dụng vào chính kinh nghiệm của chúng
ta. Đời sống của Ngài, và đặc biệt là cái chết và sự phục sinh, là những dụ
ngôn có phần bí ẩn mà Thiên Chúa trao tặng chúng ta như là nguồn khai mở ý nghĩa
sâu xa vào trong điều kiện con người. Những ai tuyên bố là môn đệ Đức Giêsu là
những người chấp nhận “ý nghĩa Giêsu” (Jesus
meaning) này như là của chính họ và làm cho nó trở thành “lề luật mới” hướng
dẫn đời sống của họ. Những nhận thức này phát xuất từ việc lắng nghe “dụ ngôn
Thiên Chúa” là quan trọng nhất và là những yếu tố quyết định trong việc thông
diễn (hermeneutic) các kinh nghiệm của
họ.
7. Tóm tắt
Đức Giêsu đã thiết lập các bí
tích không phải bằng cách đích thân làm ra những nghi lễ tôn giáo nào đó. Thay
vào đó, Ngài đã đem lại cho toàn bộ kinh nghiệm nhân loại một ý nghĩa mới, bởi
vì Ngài đã sống, đã chết và đã sống lại vào trong một đời sống mới dưới ảnh hưởng
liên lỉ của sự hiện diện thân mật của Thiên Chúa. Thiên Chúa, Abba của Đức Giêsu, sống với Ngài một
cách thân mật chưa từng có, nên Kitô giáo sơ khai đã xem Đức Giêsu như là “đền
thờ mới”. Đức Giêsu là hiện thân sống động của sự hiện diện cứu độ của Thiên
Chúa, vì Ngài là Ngôi Lời của Thiên Chúa, là bí tích về quyền năng cứu độ của
Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại.
Mặc dù toàn bộ đời sống của Đức
Giêsu mang tính bí tích, nhưng đặc biệt hơn, ý nghĩa bí tích được gắn kết với
cái chết và sự phục sinh của Ngài. Trong khi cảm nghiệm cái chết như là tự do
chấp nhận nguy hiểm tột bậc, như là hoàn toàn trung thành với chân lý và tình
yêu, như là chứng từ cao nhất về Abba
của Ngài, và như là việc bước vào đời sống mới, Đức Giêsu đem lại cho đời sống
nhân loại một ý nghĩa trọn vẹn và viên mãn. Đây là “ý nghĩa Kitô” (Christ-meaning) được diễn tả bởi các bí
tích Kitô giáo khi chúng biến đổi-ý nghĩa (trans-signify)
đời sống con người. Đức Giêsu thiết lập các bí tích này bằng bí tích nguyên sơ
về sự hiện diện cứu độ của Cha Ngài trong đời sống, cái chết và sự phục sinh của
Ngài.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 86 (Tháng
01 & 02 năm 2015)