BIẾT NHỜ TIN NHÂN CHỨNG
Linh mục
Phêrô Phan Văn Lợi,
Tổng Giáo phận Huế, 19.07.2021
WHĐ (19.7.2021) – Mỗi năm, chúng
ta cùng với Giáo hội mừng lễ Thánh Tôma Tông đồ ngày 03 tháng 7. Trong bài
Tin Mừng chúng ta nghe dịp đó (Ga 20,24-29: Chúa Phục sinh hiện ra cho Tôma),
câu đáng chú ý nhất có lẽ là câu Chúa nói với ngài: “Vì đã thấy Thầy nên anh
tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29).
Là tín hữu trong Hội thánh, chúng
ta thường nghe nói đến chuyện tin Chúa, tin đạo. Rồi còn được nhắc nhở: dù
không thấy cứ nhắm mắt mà tin, dù không hiểu cứ cúi đầu mà tin. Điều đó khiến
chúng ta đôi khi bực mình, có lúc mặc cảm trước kẻ ngoại đạo, cảm thấy như Chúa
áp bức tự do của những ai theo Người, không cho Kitô hữu suy nghĩ tìm hiểu.
Trước hết phải nói ngay: tin là
điều bình thường trong cuộc sống. Lúc nhỏ chúng ta tin cha mẹ, bắt đầu đi học
chúng ta tin thầy giáo, đau bệnh chúng ta tin bác sĩ… Tin những gì họ nói với
chúng ta. Có hai lý do để chúng ta tin cha mẹ, thầy giáo, bác sĩ… Một là vì họ
thương mến hay ít nhất tử tế đối với chúng ta, hai là vì họ thành thật, nói cho
ta điều họ nghĩ rằng mình biết hay làm cho ta điều họ nghĩ rằng mình thạo, hoặc
ít nhất chúng ta cho là như vậy. Khi lớn lên hoặc với thời gian, chúng ta sẽ kiểm
chứng những gì họ đã nói và làm, vì có khi họ đã sai lầm hay đã lừa gạt (ví dụ
như chuyện các thần y dỏm).
Hiểu biết sự thật
Điều đó đặt chúng ta trước một vấn
đề quan trọng của cuộc sống, đó là vấn đề hiểu biết sự thật. Có mấy loại sự thật?
Có mấy cách hiểu biết? Cái gì chứng minh cho loại sự thật đó? Hay nói cách
khác, chúng ta hiểu biết sự thật dựa trên bằng chứng nào?
1- Thưa trước hết, chúng ta biết bằng giác quan, ngũ quan: mắt thấy, tay sờ, tai nghe,
mũi ngửi, lưỡi nếm. Cách hiểu biết này có đối tượng là vật chất, thực tại vật
chất, những gì liên quan tới thế giới hữu hình chung quanh chúng ta. Đây là lãnh
vực mà người ta gọi là khoa học,
chuyên khám phá và mô tả bản tính mọi loài, để tìm ra định luật trong vật thể,
sự thật của vật thể. Dĩ nhiên điều này đòi hỏi ta phải có ngũ quan tốt và máy
móc tốt. Chuyện nhiều thầy bói mù sờ voi là một ví dụ minh họa. Bằng chứng ở
đây được gọi là vật chứng. Có vật
chứng thì hẳn biết rõ, có vật chứng thì phải chấp nhận. Cũng xin lưu ý rằng
khoa học không bao giờ ra khỏi giới hạn này cả, nên tự nó chẳng bênh cũng chẳng
chống thuyết vô thần hay thuyết hữu thần.
2- Cách biết thứ hai là biết bằng lý luận, nghĩa là bằng đầu óc suy nghĩ, tìm ra sự liên hệ giữa
nhiều thực tại, dựa trên một vài nguyên tắc cơ bản, chẳng hạn nguyên tắc nhân
quả (có quả tức phải có nhân, có tác phẩm ắt phải có tác giả…)… Và đây là lãnh
vực mà người ta gọi là triết học,
chuyên tìm hiểu và giải thích mối liên hệ giữa những hữu thể, những hiện tượng,
hoặc đi từ cái mình thấy đến cái mình không thấy, để rút ra một kết luận. Bằng
chứng ở đây được gọi là lý chứng.
Ví dụ thấy tác phẩm biết có tác giả; thấy đồng hồ biết có thợ làm đồng hồ; thấy
tạo vật tốt đẹp biết có Tạo hóa tài ba, thấy định luật trong trời đất và trong
lương tâm thì biết có Đấng lập luật, lý luận ra có Đấng lập luật; thấy nơi loài
người có sự hiểu biết bao la, vượt thời gian không gian, có trái tim vĩ đại,
yêu người đến độ hy sinh chính mình, thì biết có hồn thiêng, lý luận ra rằng có
hồn thiêng. Đừng đặt vấn đề tin ở đây, như nhiều giáo lý viên hay hạch hỏi giáo
lý sinh rằng: “Các em tin có Chúa không, tin có linh hồn không?” Lý luận thì biết
là có, cần gì phải tin rằng có. Người lương cũng biết có hồn thiêng, có Ông Trời
mà! Điều kiện cần ở đây là có một lý trí lành mạnh và lương tâm trong sáng. Đừng
như kẻ duy vật vô thần, tiên thiên (=ngay từ đầu) phủ nhận Thiên Chúa rồi nói:
tạo vật tự nhiên chuyển động, tự mình biến hóa, chẳng cần có Trời làm ra, hơn nữa
chẳng thấy Ổng đâu cả! Họ đánh đồng, lẫn lộn mô tả với giải thích.
Một ví dụ khác: Làm sao biết sách
Tin Mừng nói thật? Dĩ nhiên là không thể dựa vào vật chứng. Có đâu mà dựa!
Nhưng nhờ lịch sử, chúng ta biết sách Tin Mừng đã được viết bởi các Tông đồ và
môn đệ Đức Giêsu, tức những người đã thấy Chúa. Khi họ khởi thảo thì vẫn còn sống
rất nhiều người từng nghe và thấy Chúa giảng dạy, tử nạn, phục sinh. Các sách
Tin Mừng lại được viết giữa một cộng đoàn có tổ chức, có kỷ luật (Giáo hội sơ
khai). Những điều ấy cho thấy là không thể viết thêm, viết bậy, viết bịa. Các
Tông đồ và môn đệ Chúa lại không trục lợi nhờ những điều lạ lùng kỳ diệu trong
Tin Mừng, hay là nhờ tổ chức các cộng đoàn Kitô hữu. Trái lại các ngài đã bỏ mọi
sự, chịu gian khổ, vượt chông gai, đi khắp nơi rao giảng nội dung Tin Mừng, cuối
cùng lấy sinh mạng để làm chứng cho những gì mình đã thấy, đã ghi, đã truyền lại.
Và rồi, từ nhóm nhỏ các ngài, một Giáo hội đã khai sinh, lớn lên và phát triển
khắp hoàn cầu như ta thấy hôm nay. Như thế, nhờ cách lý luận vừa đưa ra, tức là
nhờ lý chứng, chúng ta biết sách Tin Mừng nói thật.
3- Có cách biết thứ ba, sâu xa hơn, liên quan đến tâm linh,
tinh thần, đến các thực tại tâm linh, các hữu thể tinh thần. Tôi chỉ biết người
khác nghĩ gì, cảm gì khi chính họ tỏ cho tôi biết. Vì những tư tưởng, tình cảm
nằm trong linh hồn: trong trái tim, trong óc não, không thể biết bằng giác
quan, bằng dụng cụ khoa học như điện tâm đồ (electrocardiogram), điện não đồ
(electroencephalogram) vốn chỉ cho biết tim hay não hoạt động nhiều hay ít, mạnh
hay nhẹ thôi, hoặc là bằng lý luận, suy diễn, mà chỉ biết được nhờ đương sự
đích thân bày tỏ, còn người
nghe chỉ có việc tin vào. Nhưng
chỉ có sự bày tỏ lòng mình với hai điều kiện: bản thân người thổ lộ cảm nghĩ
đúng đắn và chân thành yêu mến kẻ được thổ lộ. Thông thường, đó là khi bạn bè
tâm sự với nhau. Sâu xa hơn, khi vợ chồng bày tỏ ý tình cho nhau. Cao hơn nữa,
đó là việc những tín đồ có cảm nghiệm tâm linh đích thực với Đấng Tuyệt đối và
rồi nói lên cho người khác hay. Bằng chứng ở đây được gọi là nhân chứng, xuất phát từ chứng nhân. Dĩ
nhiên chứng nhân cũng có thể là người (hay nhiều người) duy nhất chứng kiến một
sự việc và rồi kể lại, nhưng chứng từ này không phải là vấn đề tâm linh, kinh
nghiệm tâm linh (tư tưởng, tình cảm).
Nhân chứng kinh nghiệm tâm linh
càng mang tính thuyết phục khi được củng cố bằng cuộc sống trở nên đạo hạnh nhờ
đó và nhất là bằng cái chết cam chịu anh dũng vì đó. Trong Kitô giáo, đấy là cảm
nghiệm thần bí (gặp gỡ, giao tiếp với Thiên Chúa cách sống động trong tâm hồn)
mà ta thấy nơi ông Môsê, nơi vua Đavít, nơi các ngôn sứ Cựu Ước... Sang thời
Tân Ước, nơi Đức Mẹ, Thánh Giuse, Thánh Gioan Tẩy giả, các Tông đồ và nhiều môn
đệ Chúa. Trong lịch sử Giáo hội thì là các hiển thánh, nhất là những vị đã được
ban cho ơn thần nghiệm và những tín hữu có đời sống đức tin sâu đậm. Tất cả họ
đều tiếp xúc với thế giới tinh thần tuyệt đối là chính Thiên Chúa và đã được
Người bày tỏ (tiếng chuyên môn gọi là mạc
khải) cho nhiều điều. Các ngài đã tin Thiên Chúa rồi tỏ lộ kinh nghiệm ấy lại
cho chúng ta, để chúng ta tin vào các ngài và từ đó tin vào Thiên Chúa. Tất cả
các ngài đã củng cố chứng từ của mình bằng cuộc sống thánh thiện, bằng gian khổ
triền miên và phần lớn bằng cái chết anh dũng. Đó là lãnh vực mà người ta gọi
là thần học.
Nhưng chứng nhân số một chính là
Đấng mà Tin mừng Gioan 1,18 đã nói: “Không
ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở
nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết”. Chính Chúa
Giêsu cũng xác nhận như thế với các Tông đồ trong Diễn từ giã biệt: “Tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của
Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15). Rồi để làm chứng cho lời mình
nói là chân thật, Chúa đã chịu chết đau khổ. Và cũng để làm chứng cho lời mình
nói là hữu hiệu, Chúa đã phục sinh vinh quang.
Vậy Chúa Giêsu đã bày tỏ những gì
từ Thiên Chúa, mạc khải những gì cho chúng ta? Thưa đó là những điều mà giáo lý
gọi là “mầu nhiệm”. Trên hết là mầu nhiệm
một Chúa ba Ngôi, tiếp đến là mầu nhiệm Nhập thể (Ngôi Con làm người), mầu nhiệm
Chúa tử nạn phục sinh, mầu nhiệm Giáo hội như Thân thể Đức Kitô, mầu nhiệm
Thánh Thể, mầu nhiệm Đức Mẹ đồng trinh… Như thế, theo những gì nói trên kia, có
thể cho rằng các mầu nhiệm chính là những nỗi lòng của Thiên Chúa, những tâm sự
về gia đình Thiên Chúa mà Ngôi Con bày tỏ với loài người, như giữa bạn bè với
nhau; vì thế Chúa Giêsu đã nói: “Thầy
không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy
gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy
đã cho anh em biết” (Ga 15,15). Đó cũng là những tâm sự mà Chúa Kitô ngỏ với
Giáo hội, như giữa vợ chồng. Ta chẳng nhớ Chúa Giêsu tự gọi mình là Hôn phu và
Giáo hội là Hôn thê sao? Và mỗi một tâm hồn tín hữu chẳng được gọi là Bạn tình
của Chúa Kitô sao?
Dĩ nhiên những gì Ngôi Con mạc khải
về Thiên Chúa thì thâm sâu, khó hiểu. Chuyện đó chẳng có chi lạ. Ngay cả những
điều thuộc thế giới, vũ trụ hữu hình thì cũng đã thâm sâu, khoa học tới nay vẫn
chưa khám phá ra hết, nên được gọi là bí
nhiệm. Những gì ở trong tâm hồn con người càng thâm sâu hơn, vợ chồng với
nhau cả đời cũng chưa chắc đã hiểu lòng nhau, bạn bè lâu năm tri kỷ cũng chưa hẳn
đã thấu tâm nhau, vì thế mà triết học hiện sinh gọi tâm hồn mỗi người là một huyền nhiệm. Huống chi là những điều
thuộc về tâm lòng, thế giới Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không mạc khải
các mầu nhiệm để thách thức óc não, đánh đố suy nghĩ của nhân loại. Nghĩ như thế
là tội cho Người quá! “Mầu nhiệm chẳng
phải là một bức tường cho trí tuệ bể nát khi đụng vào, mà là một đại dương
trong đó trí tuệ bị mất hút luôn” (G. Thibon). Một đại dương tình yêu bao
la, một nỗi lòng thiết tha sâu thẳm.
Quả thế, mầu nhiệm Ba Ngôi cho
chúng ta thấy Thiên Chúa của Ki-tô giáo là Thiên Chúa độc nhất, nhưng vì
Người là Tình Yêu nên có Ba Ngôi. Người là Ba Ngôi, nhưng vì là Tình yêu, nên
đã hợp nhất thành một Thiên Chúa. Và tình yêu đó tràn ra qua việc Người dựng
nên muôn vật hữu hình và vô hình. Mầu nhiệm Nhập thể cho thấy Thiên Chúa đã hóa
nên người phàm để ở với nhân loại và để cứu chuộc nhân loại, như đòi hỏi của
tình yêu nơi Người, là không để tạo vật của Người bơ vơ trên cõi thế, khốn đốn
vì tự do và đi vào cõi hư vô tuyệt diệt. Mầu nhiệm Giáo hội cho thấy Thiên Chúa
muốn kết hợp tất cả thụ tạo hữu hình và vô hình (từ thiên thần đến loài người
và muôn vật) trong một Thân Thể vĩ đại mà Đức Kitô phục sinh là đầu và mọi thụ
tạo khác là thành phần, là chi thể, để hết thảy trở về với Thiên Chúa, Nguồn gốc
và Cùng đích, như mong ước vĩ đại của tình yêu là tất cả nên một. Mầu nhiệm
Thánh Thể cho thấy Chúa Kitô Phục sinh ở với chúng ta mọi nơi và mọi lúc cách hữu
hình nhờ Mình Máu Người. Mình Máu ấy duy trì nơi ta sự sống thần linh, liên kết
chúng ta với Thiên Chúa và chúng ta với nhau, để từ đó xây dựng nên Thân Thể mầu
nhiệm của Người. Đó chẳng phải là bản chất của tình yêu hay sao? Các mầu nhiệm
khác cũng mang ý nghĩa tương tự…
Kết luận
Như thế, sự hiểu biết nhờ tin vào
mạc khải từ lòng con người, và đặc biệt trong Kitô giáo, nhờ tin vào mạc khải từ
lòng Thiên Chúa, chính là kiểu hiểu biết mang tính sâu xa nhất, nhân bản nhất,
vì có thể giúp tạo ra ý nghĩa cho kiếp sống, hướng đi cho cuộc đời. Kitô hữu hạnh
phúc khi tin vào Thiên Chúa vì Người không sai lầm cũng chẳng lừa gạt chúng ta.
Những gì Người mạc khải cho chúng ta xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa, có nội
dung: Thiên Chúa là Tình Yêu, một sự thật cao vời, bao trùm mọi sự thật.
Trở lại với câu chuyện Tôma,
chúng ta thấy vị Tông đồ này đã lần lượt trải qua 3 thứ hiểu biết với 3 bằng chứng:
1- thấy Chúa liền nhận ra vị Thầy mình đã sống với suốt 3 năm. 2- nhìn vết
thương ở bàn tay và cạnh sườn Thầy, suy ra rằng Thầy đã thực sự sống lại. 3- được
sự soi sáng, được ơn mạc khải (như Phêrô ở Mt 16,17), cuối cùng tin nhận và
tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên
Chúa của con” (Ga 20,28).