Đức Bênêđictô XVI, Huấn dụ Chúa nhật 28 Thường niên năm C (14/10/2007) - Hai cấp độ chữa lành |
Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 28 Thường niên năm C (09/10/2022), Thánh lễ phong thánh cho hai chân phước Giovanni Battista Scalabrini và Artemide Zatti - Cùng nhau bước đi và tạ ơn
Anh chị em thân mến,
Đang khi Chúa Giêsu đi trên đường thì có mười người phong cùi đến gặp Người và kêu lớn: “Xin thương xót chúng tôi” (Lc 17,13). Tất cả mười người đều được chữa lành, nhưng chỉ có một người trong số họ quay lại cảm ơn Chúa Giê-su: anh ta là người Samari, một người lạc giáo đối với người Do Thái. Khởi đầu họ đi cùng nhau, nhưng sau đó sự khác biệt xảy ra khi người Samari đó quay lại “lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa” (câu 15). Chúng ta hãy dừng lại ở hai khía cạnh mà chúng ta có thể rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay: cùng nhau bước đi và tạ ơn.
Cùng nhau bước đi
Trước hết là cùng nhau bước đi. Khởi đầu câu chuyện không có sự phân biệt giữa người Samari và chín người khác. Câu chuyện chỉ đơn giản nói về mười người phong cùi, những người này tạo thành một nhóm cùng nhau và không có sự tách biệt, đi gặp Chúa Giê-su. Bệnh phong cùi, như chúng ta biết, không chỉ là vết thương thể lý – mà ngay cả ngày nay chúng ta phải dấn thân để loại bỏ -, mà còn là một “căn bệnh xã hội”, bởi vì thời đó, vì nỗi sợ ô uế, người phong cùi phải ở ngoài cộng đồng (x. Lv 13,46). Vì vậy, họ không thể vào các trung tâm dân cư, họ bị giới hạn ở một khoảng cách xa, bị đẩy ra rìa của đời sống xã hội và thậm chí cả tôn giáo, họ bị cô lập. Cùng nhau bước đi, những người phong cùi này biểu lộ tiếng kêu của họ đối với một xã hội loại trừ họ. Chúng ta cũng lưu ý rằng: người Samari, ngay cả khi bị coi là một kẻ lạc giáo, một “người ngoại quốc”, cũng ở trong cùng một nhóm với những người khác. Anh chị em, bệnh tật và yếu đuối thường phá vỡ các rào cản và vượt qua mọi loại trừ.
Đây cũng là một hình ảnh đẹp đối với chúng ta: khi thành thật với chính mình, chúng ta nhớ rằng chúng ta đều đau bệnh nơi lòng mình, rằng chúng ta đều là tội nhân, tất cả đều cần đến lòng thương xót của Chúa Cha. Và do đó, chúng ta không còn phân chia dựa trên công trạng, vai trò mà chúng ta đảm nhận hoặc những yếu tố bên ngoài khác của cuộc sống, và do đó, phá vỡ bức tường bên trong, phá vỡ những định kiến. Vì vậy, cuối cùng, chúng ta lại nhận ra mình là anh em. Ngay cả Naaman người Syri – mà chúng ta nghe ở bài đọc I -, dù giàu có và quyền thế, cũng phải làm một việc đơn giản để được chữa lành: dìm mình trong dòng sông nơi tắm của tất cả những người khác. Trước hết, ông phải cởi bỏ áo giáp, y phục của mình (x. 2V 5): thật tốt khi chúng ta cởi bỏ áo giáp bên ngoài, các hàng rào phòng thủ và tắm một cách khiêm nhường; hãy nhớ rằng tất cả chúng ta đều mong manh bên trong, tất cả chúng ta cần được chữa lành, tất cả là anh chị em. Chúng ta hãy nhớ điều này: đức tin Kitô giáo luôn đòi hỏi chúng ta phải cùng nhau bước đi với những người khác, đừng bao giờ trở thành những người bước đi đơn độc; nó luôn luôn mời gọi chúng ta ra khỏi chính mình để đến với Thiên Chúa và với anh chị em của chúng ta, đừng bao giờ khép lại trong chính mình; Thiên Chúa luôn luôn đòi chúng ta nhận ra bản thân cần được chữa lành và được tha thứ, và chia sẻ sự yếu đuối của những người bên cạnh chúng ta, mà không thấy mình là người vượt trội.
Anh chị em thân mến, hãy kiểm điểm xem trong cuộc sống của chúng ta, trong gia đình của chúng ta, nơi chúng ta làm việc và lui tới hàng ngày, chúng ta có thể cùng nhau bước đi với những người khác không? Chúng ta có thể lắng nghe, vượt qua cám dỗ dựng rào chắn bằng cách tự quy chiếu về mình và chỉ nghĩ đến nhu cầu của mình không? Nhưng cùng nhau bước đi - là “hiệp hành” - cũng là ơn gọi của Giáo hội. Chúng ta hãy tự hỏi mình xem chúng ta thực sự hướng tới những cộng đoàn mở và hoà nhập đến mức nào; xem chúng ta có thể làm việc cùng nhau, linh mục và giáo dân, để phục vụ Tin Mừng; xem chúng ta có thái độ chào đón - không chỉ bằng lời nói mà còn bằng những cử chỉ cụ thể - đối với những người ở xa và đối với tất cả những người đến gần chúng ta, những người cảm thấy hụt hẫng vì cuộc sống gập ghềnh của họ. Chúng ta có làm cho họ cảm thấy là thành phần của cộng đoàn hay chúng ta loại trừ họ? Tôi rất sợ khi thấy các cộng đoàn Kitô hữu phân chia thế giới thành tốt và xấu, người thánh và kẻ tội lỗi: theo lối này, chúng ta đi đến chỗ cảm thấy mình tốt hơn những người khác và tránh xa nhiều người mà Thiên Chúa ôm vào lòng. Xin hãy vui lòng luôn đón nhận trong Giáo hội, cũng như trong xã hội, nơi vẫn còn bị đánh dấu bởi rất nhiều bất bình đẳng và nhiều người bị gạt ra bên lề xã hội.
Hãy luôn đón nhận. Hôm nay, trong ngày Scalabrini trở thành một vị thánh, tôi muốn nghĩ đến những người di cư. Thật là tệ hại khi loại trừ người di cư! Thật vậy, loại trừ những người di cư là tội phạm, nó khiến họ chết trước mặt chúng ta. Ngày nay chúng ta có Địa Trung Hải là nghĩa trang lớn nhất trên thế giới. Việc loại trừ những người di cư là kinh tởm, là tội lỗi, là tội phạm. Chúng ta có thể nói: “Không, chúng tôi không loại trừ họ, chúng tôi gửi họ đi”: đến các trại tập trung, nơi họ bị bóc lột và bị bán làm nô lệ. Anh chị em thân mến, hôm nay chúng ta nghĩ đến những người di cư của chúng ta, những người đã chết. Và đối với những người được vào, chúng ta có nhận họ như anh chị em hay chúng ta bóc lột họ? Tôi chỉ đặt ra câu hỏi.
Tạ ơn
Khía cạnh thứ hai là tạ ơn. Trong nhóm mười người phong cùi chỉ có một người, khi thấy mình được chữa lành, đã quay lại ngợi khen Thiên Chúa và diễn tả lòng biết ơn đối với Chúa Giêsu. Chín người còn lại được chữa lành, nhưng rồi họ đi luôn, quên mất Đấng đã chữa lành cho họ. Quên mất những ân sủng mà Chúa ban cho chúng ta. Ngược lại, người Samari làm cho món quà nhận được trở thành khởi đầu của một cuộc hành trình mới: anh ta quay trở lại với Đấng đã chữa lành cho anh, tìm hiểu kỹ hơn về Chúa Giêsu, bắt đầu một tương quan với Người. Do đó, thái độ biết ơn của anh không đơn thuần là một cử chỉ lịch sự, nhưng là khởi đầu của một hành trình biết ơn: Anh sấp mình dưới chân Đức Kitô (x. Lc 17,16), nghĩa là, anh làm một cử chỉ thờ lạy: nhận rằng Đức Giêsu là Chúa, và điều đó còn quan trọng hơn sự chữa lành đã nhận được.
Anh chị em thân mến, đây là một bài học lớn cho chúng ta, những người được hưởng nhờ ơn huệ mỗi ngày từ Thiên Chúa, nhưng lại thường bỏ đi theo con đường riêng của mình mà quên trau dồi mối tương quan sống động và thực sự với Người. Đây là một căn bệnh tinh thần rất xấu: chẳng để tâm gì, ngay cả với đức tin, thậm chí mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, đến mức trở thành những Kitô hữu không còn biết ngạc nhiên, không còn biết nói lời “cảm ơn”, không diễn tả lòng biết ơn, không biết nhìn thấy điều kỳ diệu của Chúa. Và, do đó, chúng ta đi đến chỗ nghĩ rằng mọi thứ chúng ta nhận được hàng ngày là hiển nhiên và phải có. Ngược lại, lòng biết ơn, biết cách nói “cảm ơn”, dẫn chúng ta đến việc nhận biết sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa. Và cũng nhận ra tầm quan trọng của những người khác, chiến thắng sự cay đắng và thờ ơ khiến tâm hồn chúng ta trở nên xấu xí. Điều cần thiết là phải biết cảm ơn. Mỗi ngày nói lời tạ ơn Chúa, mỗi ngày biết cảm ơn nhau: trong gia đình, vì những điều nhỏ chúng ta nhận được mà đôi khi chẳng buồn hỏi chúng đến từ đâu; ở những nơi chúng ta thường lui tới hàng ngày, vì nhiều sự phục vụ mà chúng ta nhận được và những người hỗ trợ chúng ta; trong các cộng đoàn Kitô của chúng ta, vì tình yêu của Thiên Chúa mà chúng ta cảm nghiệm qua sự gần gũi của anh chị em, những người thường cầu nguyện trong thinh lặng, dâng hiến, chịu đau khổ, bước đi cùng với chúng ta. Xin đừng quên từ khóa này: “cảm ơn”! Đừng quên nghe và nói “cảm ơn”!
Noi gương hai vị tân hiển thánh
Hai vị được phong thánh hôm nay nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc bước đi cùng nhau và biết tạ ơn. Giám mục Scalabrini, người đã thành lập hai Hội Dòng, một nam và một nữ, chăm sóc người di cư, khẳng định rằng khi bước đi chung với những người di cư, đừng chỉ nhìn thấy các vấn đề, mà còn nhận ra một kế hoạch của Chúa quan phòng. Ngài nói: “Chính nhờ sự di cư ép buộc do bị bách hại mà Giáo hội đã vượt ra khỏi biên giới của Giêrusalem và Israel, và trở thành “Công giáo”; nhờ những cuộc di cư ngày nay, Giáo hội sẽ là khí cụ của hòa bình và hiệp thông giữa các dân tộc ”(L’emigrazione degli operai italiani, Ferrara 1899). Ngay lúc này, có một cuộc di cư ở Châu Âu khiến chúng ta đau khổ rất nhiều và khiến chúng ta phải mở lòng: cuộc di cư của những người Ucraina chạy trốn khỏi chiến tranh. Chúng ta đừng quên Ucraina khốn khổ hôm nay! Thánh Scalabrini đã có tầm nhìn xa, hướng tới một thế giới và một Giáo hội không có rào chắn, không có người xa lạ. Về phần mình, Artemide Zatti, tu huynh Salêdiêng, với chiếc xe đạp của mình, là một tấm gương sống động về lòng biết ơn: được chữa lành khỏi bệnh lao, thầy đã dành cả cuộc đời mình để cho người khác, để chữa lành người bệnh bằng tình yêu thương và sự dịu dàng. Người ta kể đã nhìn thấy thầy mang trên vai xác của một trong những người bệnh. Với lòng biết ơn về những gì mình đã nhận được, thầy muốn nói lời “cảm ơn” của mình bằng cách gánh lấy vết thương của người khác. Hai tấm gương cho chúng ta!
Chúng ta hãy cầu nguyện xin những người anh em thánh thiện này của chúng ta giúp chúng ta bước đi cùng nhau, không có bức tường ngăn cách; và để nuôi dưỡng tâm hồn cao thượng này trở nên đẹp lòng Thiên Chúa, đó là lòng biết ơn.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 28 Thường niên năm C (13/10/2019), Thánh lễ phong thánh cho Đức Hồng y Newman và bốn nữ chân phước - Kêu cầu, bước đi và tạ ơn
Anh chị em thân mến,
“Lòng tin của anh đã cứu chữa anh" (Lc 17,19). Đây là câu chính yếu của bài Tin mừng hôm nay, câu này nói về hành trình đức tin. Có ba chặng trong hành trình đức tin. Chúng ta nhận ra điều đó qua ba hành động của những người phong hủi được Chúa Giêsu chữa lành: họ kêu cầu, họ bước đi, và họ tạ ơn.
Trước hết, họ kêu cầu. Những người phong cùi ở trong một tình cảnh khốn cùng, không chỉ vì căn bệnh – vốn vẫn còn phổ biến ngay cả ngày nay và cần phải kiên trì chiến đấu – mà còn vì bị xã hội loại trừ. Vào thời Đức Giêsu, người phong cùi bị xem là ô uế, nên bị cô lập, tách biệt khỏi cộng đồng (x. Lv 13,46). Ta thấy khi họ đến gần Chúa Giêsu, họ “đứng đàng xa” (Lc 17,12). Dù hoàn cảnh khiến họ bị gạt ra ngoài, Tin mừng kể rằng họ “kêu lớn tiếng” (c. 13) và van xin Người thương xót. Họ không để mình bị tê liệt bởi sự loại trừ của xã hội và họ kêu lên cùng Thiên Chúa, Đấng không loại trừ bất cứ ai. Đây là cách họ rút ngắn những khoảng cách, vượt qua sự cô độc: không đóng kín trong chính mình và trong sự đau khổ của mình, không nghĩ đến những phán xét của người khác, nhưng kêu cầu Chúa, vì Chúa lắng nghe tiếng kêu của người đơn độc.
Cũng như những người phong cùi ấy, chúng ta cũng cần được chữa lành, mỗi người trong chúng ta. Chúng ta cần được chữa lành khỏi sự mất lòng tin vào bản thân, vào cuộc sống, tương lai; khỏi nhiều nỗi sợ hãi; khỏi những tật xấu mà chúng ta là nô lệ; khỏi sự khép kín, lệ thuộc và gắn chặt với các “games”, tiền bạc, tivi, điện thoại di động, sự phán xét của người khác. Chúa giải thoát và chữa lành trái tim, nếu chúng ta cầu khẩn Ngài, nếu chúng ta nói với Ngài: ‘Lạy Chúa, con tin rằng Chúa có thể chữa lành con; xin chữa lành con khỏi sự khép kín của mình, xin giải thoát con khỏi sự xấu xa và sợ hãi, lạy Chúa Giêsu.’ Những người phong cùi là những người đầu tiên trong Tin mừng này đã kêu cầu danh Chúa Giêsu. Sau đó, một người mù và một kẻ trộm bị đóng đinh cũng làm như vậy: tất cả đều là những người túng thiếu, kêu cầu danh Chúa Giêsu – nghĩa là “Thiên Chúa cứu độ”. Họ gọi đích danh Thiên Chúa, cách trực tiếp và tự nhiên. Gọi ai đó bằng tên là dấu chỉ của lòng tin tưởng, và điều đó làm đẹp lòng Chúa. Đức tin lớn lên chính bằng lời cầu nguyện đầy tín thác như thế: lời cầu nguyện trong đó ta đem đến cho Chúa Giêsu con người thật của mình, với tâm hồn rộng mở, không che giấu nỗi đau khổ. Mỗi ngày, chúng ta hãy tin tưởng mà kêu cầu danh Chúa Giêsu: “Thiên Chúa cứu độ.” Hãy lặp lại điều đó: đó chính là cầu nguyện, bởi nói “Giêsu” là đã cầu nguyện. Và cầu nguyện là điều thiết yếu! Thật vậy, cầu nguyện chính là cánh cửa của đức tin, là liều thuốc chữa lành con tim.
Từ thứ hai là “bước đi”. Đây là giai đoạn thứ hai. Trong bài Tin mừng ngắn hôm nay, có nhiều động từ diễn tả sự chuyển động. Điều đáng chú ý là những người phong cùi không được chữa lành ngay khi họ đứng trước mặt Chúa Giêsu; họ chỉ được chữa lành sau đó, trên đường đi. Tin mừng nói rằng: “Đang khi đi thì họ được sạch” (Lc 17,14). Họ được chữa lành trong khi tiến bước lên Giêrusalem, nghĩa là trong hành trình đi lên dốc. Trên con đường của cuộc sống, sự thanh luyện diễn ra trong chính hành trình ấy, một hành trình thường là gian nan, vì nó dẫn ta lên cao. Đức tin đòi hỏi một hành trình, đòi đi ra, nó tạo nên những điều kỳ diệu nếu chúng ta đi ra khỏi sự tiện nghi chắc chắn, nếu chúng ta rời khỏi những bến cảng yên tâm, những tổ ấm thoải mái của chúng ta. Niềm tin gia tăng cùng với món quà và phát triển cùng với rủi ro. Đức tin tiến triển khi chúng ta tiến bước với niềm tin vào Chúa. Đức tin tiến bước bằng những bước khiêm tốn và cụ thể, như những bước chân của các người phong cùi hay của Naaman khi ông xuống tắm bảy lần trong sông Giođan (x. 2 V 5,14-17). Điều đó cũng đúng với chúng ta: chúng ta tiến bước trong đức tin với tình yêu khiêm nhường và cụ thể, với sự kiên nhẫn hàng ngày, khi cầu khẩn Chúa Giêsu và tiến bước trên con đường đời.
Có một khía cạnh đáng chú ý khác trong hành trình của những người phong cùi: họ cùng nhau bước đi. Tin mừng nói: “Đang khi đi thì họ được sạch” (c. 14). Các động từ đều ở số nhiều. Đức tin cũng có nghĩa là cùng nhau bước đi, không bao giờ một mình. Tuy nhiên, sau khi được chữa lành, chín người trong số họ lại rẽ sang đường riêng của mình, chỉ có một người quay lại để tạ ơn. Chúa Giêsu bấy giờ tỏ ra ngạc nhiên và hỏi: “Còn chín người kia đâu?” (c. 17). Dường như Người muốn người duy nhất quay lại phải chịu trách nhiệm cho chín người kia. Đúng thật đó là nhiệm vụ của chúng ta – của chúng ta, những người đang ở đây để cử hành "Thánh Thể", nghĩa là “tạ ơn” – chăm sóc những người đã dừng bước, những người lạc đường. Chúng ta được mời gọi là người chăm sóc bảo vệ các anh chị em ở xa. Chúng ta cầu nguyện cho họ, chúng ta chịu trách nhiệm về họ, được mời gọi trả lời họ, yêu thương quý trọng họ. Anh chị em muốn phát triển trong đức tin? Hãy chăm sóc một người anh em, một người chị em ở xa. Anh chị em có muốn lớn lên trong đức tin không? Anh chị em đang hiện diện ở đây có muốn lớn lên trong đức tin không? Vậy thì hãy chăm sóc một người anh em xa cách, một người chị em lạc lối.
Kêu cầu. Bước đi. Và tạ ơn là bước cuối cùng. Chỉ với người đã biết tạ ơn, Chúa Giêsu mới nói: “Đức tin của anh đã cứu anh” (Lc 17,19). Người này không chỉ được lành sạch mà còn được cứu độ. Qua đó, chúng ta thấy rằng mục tiêu tối hậu không phải là sức khỏe hay sự an lành thể xác, mà là cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu. Ơn cứu độ không phải là uống một ly nước để giữ sức khỏe, nhưng là đi đến nguồn mạch, đó là Chúa Giêsu. Chỉ mình Người mới có thể giải thoát ta khỏi sự dữ và chữa lành tâm hồn chúng ta. Chỉ cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu mới có thể cứu chúng ta, làm cho đời sống chúng ta nên tròn đầy và tươi đẹp. Mỗi khi chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu, từ “tạ ơn” liền tự nhiên vang lên trên môi miệng, vì ta đã khám phá ra điều quan trọng nhất trong cuộc đời: không phải là nhận được một ân huệ hay giải quyết một vấn đề, mà là ôm lấy chính Chúa – Đấng ban sự sống. Và đó chính là điều quan trọng nhất của đời người: ôm lấy Chúa của sự sống.
Thật cảm động khi thấy người được chữa lành – vốn là một người Samari – đã diễn tả niềm vui của mình bằng toàn thể con người: anh lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, sấp mình thờ lạy và dâng lời cảm tạ (x. Lc 17,15–16). Đỉnh cao của hành trình đức tin là sống một đời tạ ơn liên lỉ. Chúng ta hãy tự hỏi: chúng ta – những người có đức tin – có sống mỗi ngày như một gánh nặng, hay như một bài ca chúc tụng? Chúng ta có khép kín trong chính mình, chỉ biết chờ đợi để xin thêm ơn lành, hay chúng ta tìm thấy niềm vui trong việc tạ ơn? Khi chúng ta biết tỏ lòng biết ơn, trái tim Chúa Cha được đánh động, và Người đổ tràn Thánh Thần xuống trên chúng ta. Tạ ơn không chỉ là một cử chỉ lịch sự hay phép xã giao; đó là hành động của đức tin. Một trái tim biết ơn là một trái tim luôn trẻ trung. Biết nói: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa” khi thức dậy, trong suốt ngày sống và trước khi đi ngủ - đó là cách tốt nhất để giữ cho tâm hồn mình mãi tươi trẻ, bởi vì trái tim con người có thể trở nên già cỗi và chai sạn. Điều này cũng đúng trong các gia đình, giữa vợ chồng với nhau: hãy nhớ nói “cảm ơn”. Đó là những lời đơn sơ nhất, nhưng cũng hiệu quả và quý giá nhất.
Cầu xin, bước đi, tạ ơn. Hôm nay chúng ta tạ ơn Chúa về các tân hiển thánh; các ngài đã bước đi trong đức tin và giờ đây đang chuyển cầu cho chúng ta. Ba vị là các nữ tu và tỏ cho chúng ta thấy rằng đời tu là một hành trình yêu thương trong những ngoại biên của cuộc sống của thế giới. Còn thánh Maguerite Bays, một thợ may, cho chúng ta thấy lời cầu nguyện đơn giản, sự chịu đựng kiên nhẫn, sự trao ban âm thầm thì có sức mạnh dường nào: qua những điều này, Chúa đã chiếu tỏ sự huy hoàng Phục sinh nơi chị thánh. Đó là sự thánh thiện hàng ngày mà thánh Hồng y Newman đã nói: “Người Kitô hữu có một bình an sâu xa, thầm lặng, ẩn kín, mà thế gian không thấy được... Người Kitô hữu vui tươi, nhẹ nhàng, nhân hậu, dịu dàng, lịch thiệp, chân thành, không giả tạo, khiêm tốn... đến mức, với cung cách giản dị và khiêm nhường, người ta có thể dễ dàng lầm tưởng họ là một người bình thường” (Bài giảng Parochial and Plain Sermons, tập V, số 5).
Chúng ta hãy cầu xin để cũng được như thế — trở nên “ánh sáng hiền lành” giữa đêm tối bao quanh. “Lạy Chúa Giêsu, xin ở lại với con, và rồi con sẽ bắt đầu tỏa sáng như Chúa đang chiếu sáng: để tỏa sáng hầu trở nên ánh sáng cho người khác” (Suy niệm về Giáo lý Kitô giáo, VII, 3). Amen.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 28 Thường niên năm C (09/10/2016), Năm thánh cho các Hội đoàn, Phong trào Thánh Mẫu - Để biết tạ ơn thì cần khiêm tốn
Anh chị em thân mến!
Tin mừng Chúa nhật hôm nay (Xc Lc 17,11-19) mời gọi chúng ta nhìn nhận những hồng ân của Thiên Chúa với lòng kinh ngạc và biết ơn. Trên đường dẫn Ngài đến cái chết và sự phục sinh, Chúa Giêsu gặp 10 người phong cùi, họ tiến đến gặp Ngài, dừng lại từ xa xa và kêu lên nỗi bất hạnh của họ với người mà họ, trong niềm tin, trực giác thấy vị ấy có thể là Đấng Cứu Thế: ”Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng con!” (v.13). Họ là bệnh nhân và đi tìm kiếm người chữa lành họ. Đáp lại, Chúa Giêsu bảo họ hãy đi trình diện với các tư tế; theo luật, các vị này có nhiệm vụ chứng thực xem có sự khỏi bệnh thực sự hay không. Theo cách thức đó, Chúa không phải chỉ nêu lên một lời hứa, nhưng Ngài còn thử thách đức tin của họ. Thực vậy, trong lúc ấy, 10 người chưa được khỏi. Họ chỉ được lành bệnh trong lúc đi đường, sau khi đã vâng nghe lời Chúa Giêsu. Bấy giờ tất cả đều tràn đầy vui mừng, họ trình diện với các tư tế, rồi mỗi người ai đi đường nấy, mà quên vị Ân nhân, nghĩa là Chúa Cha đã chữa lành họ nhờ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Nhưng có một người luật trừ, đó là một người Samaritano, một người ngoại kiều sống bên lề dân được tuyển chọn, hầu như một người ngoại đạo! Người ấy không hài lòng vì đã được khỏi bệnh nhờ niềm tin, nhưng còn làm cho sự khỏi bệnh ấy đạt tới mức vẹn toàn, bằng cách trở lại bày tỏ lòng biết ơn vì hồng ân đã lãnh nhận, nhìn nhận Chúa Giêsu là vị Tư Tế đích thực, sau khi đã nâng ông trỗi dậy và cứu vớt ông, Ngài là Đấng có thể làm cho ông lên đường và đón nhận ông vào số các môn đệ của Ngài.
Biết cám ơn, biết chúc tụng vì những gì Chúa làm cho chúng ta, đó là điều quan trọng! Và bây giờ chúng ta có thể tự hỏi: Chúng ta có khả năng nói lời cám ơn hay không? Bao nhiêu lần chúng ta nói cám ơn trong gia đình, trong cộng đoàn, trong Giáo hội? Bao nhiêu lần chúng ta nói cám ơn người giúp đỡ chúng ta, người ở gần kề chúng ta, người đồng hành với chúng ta trong cuộc sống? Nhiều khi chúng ta coi mọi sự là điều dĩ nhiên! Và điều cũng xảy ra đối với Thiên Chúa. Thật là dễ đi gặp Chúa để xin điều gì, nhưng trở lại cám ơn Ngài thì lại cảm thấy là khó!... Vì thế, Chúa Giêsu nhấn mạnh sự thiếu sót của 9 người phong cùi vô ơn: “Chẳng phải tất cả 10 người đều được khỏi bệnh sao? Vậy 9 người kia đi đâu? Sao không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên CHúa, ngoại trừ người ngoại kiều này?” (Lc 17, 17-18).
Trong ngày mừng Năm Thánh này, chúng ta được đề nghị một mẫu gương để chúng ta nhìn lên, đó là Đức Maria, Mẹ chúng ta. Sau khi lãnh nhận lời loan báo của Thiên Thần, Mẹ đã để cho tâm hồn Mẹ trào lên một bài ca chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa...”. Chúng ta hãy xin Đức Mẹ giúp chúng ta hiểu rằng tất cả là hồng ân của Thiên Chúa và biết nói lời “Tạ ơn”. Khi đó, tôi đảm bảo với anh chị em, niềm vui của chúng ta sẽ trọn vẹn. Chỉ những ai biết nói lời “Tạ ơn” mới cảm nghiệm được niềm vui trọn vẹn.
Để biết cám ơn, cũng cần phải có lòng khiêm tốn. Trong bài đọc thứ I, chúng ta đã nghe chuyện Ông Naaman, tư lệnh quân đội của vua Aram (Xc 2 V 5,14-17). Ông bị bệnh phong cùi, và để được khỏi bệnh, ông đã chấp nhận đề nghị của người tớ gái nghèo và tín thác nơi sự săn sóc của ngôn sứ Elisa vốn là kẻ thù đối với Ông. Nhưng Naaman sẵn sàng hạ mình xuống. Và ngôn sứ Elisa chẳng đòi hỏi ông điều gì, chỉ truyền cho ông đi dìm mình xuống trong dòng sông Giođan. Lời yêu cầu đó làm cho Naaman ngỡ ngàng, và thậm chí còn tức bực nữa: Liệu một Thiên Chúa đòi hỏi những điều tầm thường như vậy có thực sự là Thiên Chúa? Ông muốn quay lại, nhưng rồi ông đồng ý dìm mình xuống sông Giođan và ngay lập tức được chữa lành.
Tâm hồn Mẹ Maria, hơn ai khác, là một tâm hồn khiêm tốn, và có khả năng đón nhận các hồng ân của Thiên Chúa. Và Thiên Chúa, để làm người, đã chọn một thiếu nữ tầm thường ở Nazareth, không sống trong dinh thự đền đài quyền lực và giàu sang, không thực hiện những công trình ngoại thường. Chúng ta tự hỏi xem ta có sẵn sàng đón nhận các hồng ân của Thiên Chúa hay không, hoặc chúng ta muốn khép mình trong những an ninh vật chất, những an ninh tinh thần, những an ninh do các dự phóng của chúng ta.
Thật là điều ý nghĩa sự kiện ông Naaman và người Samaritano là hai người ngoại quốc. Những người này, và cả nmhững người thuộc các tôn giáo khác, nêu gương cho chúng ta về những giá trị mà đôi khi chúng ta quên hoặc lơ là. Người sống cạnh chúng ta, có lẽ bị khinh rẻ hoặc bị gạt ra ngoài lề vì họ là người ngoại quốc, nhưng họ có thể dạy chúng ta cách thức tiến bước trên con đường Chúa muốn. Cả Mẹ Thiên Chúa, cùng với hôn phu của Người là Thánh Giuse, đã cảm nghiệm thân phận ở xa quê hương. Trong thời gian dài, Mẹ là khách ngụ cư trên đất Ai Cập, xa những người họ hàng và bạn hữu. Nhưng niềm tin của Mẹ đã biết vượt thắng những khó khăn. Chúng ta hãy giữ chặt nơi mình niềm tin đơn sơ ấy của Mẹ Thiên Chúa; chúng ta hãy cầu xin Mẹ luôn biết trở về cùng Chúa Giêsu và cảm tạ Chúa vì bao nhiêu phúc lộc do lòng từ bi thương xót của Chúa.
Nguồn: archivioradiovaticana.va
Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 28 Thường niên năm C (13/10/2013), ngày Thánh Mẫu trong năm Đức tin - Thiên Chúa làm cho chúng ta ngạc nhiên
“Hãy hát mừng Chúa một bài ca mới, vì Ngài đã thực hiện những việc diệu kỳ” (Tv 97,1).
Ngày hôm nay chúng ta đứng trước một trong những điều kỳ diệu của Chúa: đó là Đức Maria! Một thụ tạo khiêm hạ và yếu đuối như chúng ta, được chọn để làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đấng Tạo Hóa.
Chính khi nhìn Mẹ Maria, dưới ánh sáng các bài đọc chúng ta đã nghe, tôi muốn cùng với anh chị em suy tư về 3 thực tại: Thiên Chúa làm cho chúng ta ngạc nhiên, Thiên Chúa yêu cầu chúng ta trung thành, Thiên Chúa là sức mạnh của chúng ta.
1. Thứ I: Thiên Chúa làm chúng ta ngạc nhiên. Sự tích Naaman, tư lệnh quân đội của vua Aram, thật là đặc biệt; để được khỏi bệnh phong cùi, ông ngỏ lời với vị Ngôn Sứ của Thiên Chúa là Eliseo, nhưng Người không làm những nghi thức ma thuật, cũng chẳng yêu cầu ông tướng những điều ngoại thường, nhưng chỉ tín thác với Thiên Chúa và dìm mình trong nước sông; nhưng không phải là những sông cả của thành Damasco, mà là dòng sông Giordan bé nhỏ. Đó là một lời yêu cầu làm cho tướng Naaman ngỡ ngàng, kinh ngạc; phải chăng Thiên Chúa có thể là vị yêu cầu những chuyện đơn giản như vậy sao? Ông muốn trở lui, nhưng rồi ông cũng đi dìm mình trong sông Giordan và tức thì ông được lành mạnh. Ta thấy Thiên Chúa làm chúng ta ngạc nhiên; chính trong sự nghèo hèn, yếu đuối, khiêm hạ mà Chúa tỏ mình ra và ban cho chúng ta tình yêu cứu độ của Ngài, chữa lành và ban sức mạnh cho chúng ta. Chúa chỉ yêu cầu chúng ta ngheo lời và tín thác nơi Ngài. Đó là kinh nghiệm của Đức Trinh Nữ Maria: trước lời loan báo của Thiên Thần, Trinh Nữ không giấu sự ngạc nhiên. Đó là sự ngỡ ngàng khi thấy rằng Thiên Chúa, để làm người, đã chọn một thiếu nữ tầm thường ở Nazareth, không sống trong các dinh thự của những người quyền thế và giàu sang, không thi hành những công trình ngoại thường, nhưng cởi mở đối với Thiên Chúa, biết tín thác nơi Ngài, cho dù không hiểu tất cả: “Này tôi là tôi tớ Chúa: xin xảy đến cho tôi theo lời Sứ Thần” (Lc 1,38). Đó là câu trả lời của Người. Thiên Chúa luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên, Ngài phá vỡ những khung nền của chúng ta, làm cho những dự phóng của chúng ta bị khủng hoảng, và Chúa nói với chúng ta: con hãy tín thác nơi Cha, đừng sợ, hãy để cho con được ngạc nhiên, hãy ra khỏi chính mình và theo Cha!
Hôm nay tất cả chúng ta cũng hãy tự hỏi xem mình có sợ điều mà Thiên Chúa có thể yêu cầu chúng ta hoặc điều mà chúng ta xin Chúa hay không. Tôi có để cho Chúa làm cho ngạc nhiên, như Chúa đã làm với Mẹ Maria hay không, hoặc tôi khép kín mình trong những điều an toàn của tôi, an toàn vật chất, an toàn trí thức, an toàn ý thức hệ, an toàn các dự phóng của tôi? Tôi có để cho Chúa thực sự đi vào trong cuộc sống của tôi hay không? Tôi trả lời Chúa như thế nào?
2. Trong đoạn thư thánh Phaolô chúng ta đã nghe, Thánh Tông đồ ngỏ lời với môn đệ Timôthêo và nói rằng: “con hãy nhớ Chúa Giêsu Kitô, nếu chúng ta kiên trì với Ngài, chúng ta sẽ được cùng Ngài hiển trị” (Xc 2 Tm 2,8-13). Và đây là điểm thứ hai: Hãy luôn nhớ đến Đức Kitô, kiên trì trong đức tin: Thiên Chúa làm cho chúng ta ngạc nhiên bằng tình thương của Ngài, nhưng Chúa yêu cầu chúng ta hãy trung thành theo Ngài. Chúng ta có thể “không trung thành”, nhưng Chúa thì không, Chúa là Đấng Trung Thành, và Ngài yêu cầu chúng ta hãy trung thành như vậy. Chúng ta hãy nghĩ đến bao nhiêu lần chúng ta hăng hái phấn khởi vì một điều gì, vì một sáng kiến, một sự dấn thân nào đó, nhưng rồi, trước những vấn đề đầu tiên xảy ra, chúng ta tháo lui. Và rất tiếc là điều này cũng xảy ra trong những chọn lựa cơ bản như hôn phối. Người ta khó kiên trì bền chí, khó trung thành với những quyết định đã đề ra, với những cam kết đã quyết tâm. Nói “xin vâng”, “đồng ý' thì dễ, nhưng rồi người ta không lập lại được quyết tâm đồng thuận như vậy.
Mẹ Maria đã thưa “xin vâng” với Thiên Chúa, một lời “xin vâng” đã đảo lộn cuộc sống khiêm hạ của Mẹ ở Nazareth, nhưng không phải là lời thưa 'xin vâng' duy nhất, nhưng đó là lời đầu tiên trong bao nhiêu lời thưa 'xin vâng' được xướng lên trong tâm hồn những lúc vui tươi, cũng nhưng trong những lúc đau khổ, bao nhiêu lời thưa “xin vâng đạt tới đột đỉnh trong lời “xin vâng' dưới cây Thập Giá. Hôm nay, ở đây có bao nhiêu bà mẹ; chị em hãy nghĩ đến lòng trungthành của Mẹ Maria với Thiên Chúa tới mức độ nào: khi thấy Con duy nhất của Mẹ trên Thập Giá. Mẹ là phụ nữ trung thành, đứng đó, lòng tan nát, nhưng trung thành và can đảm.
Tôi có phải là một Kitô hữu tùy lúc hay là một Kitô hữu luôn luôn? Nền văn hóa tạm bợ, tương đối, cũng lẻn vào cuộc sống đức tin. Thiên Chúa yêu cầu chúng ta trung thành với Ngài, mỗi ngày, trong những hoạt động thường nhật và Ngài thêm rằng cả khi chúng ta không trung thành với Chúa, Chúa vẫn luôn trung thành, và với lòng từ bi, Ngài không ngừng giơ tay cho chúng ta để nâng chúng ta dậy, khuyến khích chúng ta hãy tiếp tục hành trình, trở về cùng Ngài và thưa với Ngài về sự yếu đuối để Ngài ban sức mạnh cho chúng ta.
3. Điểm sau cùng: Thiên Chúa là sức mạnh của chúng ta. Tôi nghĩ đến 10 người phong cùi trong Phúc Âm được Chúa Giêsu chữa lành: họ đến gặp Ngài, dừng lại từ xa xa và kêu lên: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng con!” (Lc 17,13). Họ là những người bệnh, đang cần được thương yêu, được sức mạnh và tìm kiếm người chữa trị họ. Và Chúa Giêsu đáp lại, giải thoát tất cả khỏi bệnh tật của họ. Nhưng thật là điều ngạc nhiên khi thấy chỉ có một người trở lại để lớn tiếng chúc tụng Thiên Chúa và cảm tạ Chúa. Chính Chúa Giêsu nhận xét điều đó: 10 người đã kêu lớn tiếng để được chữa lành và chỉ có một người trở lại để kêu lớn tiếng cảm tạ Thiên Chúa và nhìn nhận rằng Chúa là sức mạnh của chúng ta. Biết cảm tạ, chúc tụng vì những gì Chúa làm cho chúng ta.
Chúng ta hãy nhìn Mẹ Maria: sau khi được truyền tin, cử chỉ đầu tiên Mẹ thực hiện là cử chỉ bác ái đối với bà chị họ cao niên Elisabeth; và những lời đầu tiên Mẹ nói lên là: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”, bài ca chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa, không những vì điều Chúa đã làm nơi Mẹ, nhưng vì hoạt động của Chúa trong toàn thể lịch sử cứu độ. Tất cả là hồng ân; Nếu chúng ta có thể hiểu tất cả là hồng ân của Chúa, thì tâm hồn chúng ta sẽ được hạnh phúc dường nào! Tất cả là hồng ân.
Chúa chính là sức mạnh của chúng ta! Cảm tạ thật là điều dễ dàng, nhưng cũng rất khó khăn! Bao nhiêu lần chúng ta nói cám ơn trong gia đình? Đó là một trong những lời chủ yếu của cuộc sống chung. “Xin phép”, “xin lỗi”, “cám ơn”: nếu trong một gia đình, có 3 lời ấy được người ta nói lên, thì gia đình tiếp tục tiến bước. Bao nhiêu lần chúng ta nói cám ơn người giúp đỡ chúng ta, người ở gần chúng ta, tháp tùng chúng ta trong cuộc sống. Nhiều khi chúng ta coi đó là điều dĩ nhiên! Và điều này cũng xảy ra đối với Thiên Chúa.
Tiếp tục Thánh Lễ, chúng ta hãy cầu xin sự chuyển cầu của Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng ta để cho mình được Thiên Chúa làm ngạc nhiên, không kháng cự, trung thành với Chúa hằng ngày, chúc tụng và cảm tạ Chúa vì Ngài là sức mạnh của chúng ta.
Nguồn: archivioradiovaticana.va
Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng Chúa nhật 28 Thường niên năm C (10/10/2010), Thánh lễ khai mạc Đại hội Thượng Hội đồng về Trung Đông - Tin vào lời của sứ giả Thiên Chúa
Anh em giám mục khả kính,
Quý vị và các bạn thân mến!
Việc cử hành Thánh Thể là việc tạ ơn Thiên Chúa cách tuyệt hảo nhất. Việc cử hành Thánh Thể hôm nay mang một ý nghĩa đặc biệt đối với chúng ta, những người đang quy tụ quanh mộ Thánh Phêrô, bởi vì chúng ta được diễm phúc chứng kiến một biến cố đầy ân sủng: lần đầu tiên trong lịch sử, các giám mục của khu vực Trung Đông cùng nhau quy tụ tại một Thượng Hội đồng chung quanh Giám mục Rôma, Mục tử hoàn vũ. Biến cố độc đáo này cho thấy toàn thể Giáo hội đang dành mối quan tâm sâu sắc cho phần quý báu và yêu dấu của Dân Thiên Chúa đang sinh sống tại Đất Thánh và toàn vùng Trung Đông.
Trước hết, chúng ta dâng lời tạ ơn Chúa của lịch sử, bởi lẽ – dù đã trải qua bao biến cố cam go và đầy thử thách – Người vẫn cho phép vùng Trung Đông được chứng kiến sự hiện diện liên tục của các Kitô hữu từ thời Chúa Giêsu cho đến hôm nay. Chính tại những miền đất ấy, Giáo hội duy nhất của Chúa Kitô được thể hiện trong sự đa dạng phong phú của các truyền thống phụng vụ, thiêng liêng, văn hóa và kỷ luật nơi sáu Giáo hội Công giáo Đông phương tự trị (sui iuris), cũng như trong truyền thống Latinh. Với lòng quý mến sâu sắc, tôi gửi lời chào huynh đệ đến các Thượng phụ của mỗi Giáo hội ấy, và qua các ngài, tôi muốn gửi lời chào thăm và lời cầu chúc hiệp thông thân ái đến tất cả các tín hữu được trao phó cho sứ vụ mục vụ của các ngài – dù họ đang sống tại quê hương hay đang tản mác ở dạng kiều cư (Diaspora).
Vào Chúa nhật XXVIII Thường niên, Lời Chúa hôm nay gửi đến chúng ta một chủ đề suy niệm mang ý nghĩa sâu xa, giúp chúng ta tiến gần hơn đến biến cố của Thượng Hội đồng được khai mạc hôm nay. Bài đọc liên tục theo Tin mừng Luca đưa chúng ta đến trình thuật về mười người phong cùi được chữa lành, trong đó chỉ có một người – là người Samari – quay lại tạ ơn Chúa Giêsu. Liên kết với đoạn Tin mừng này, bài đọc thứ nhất, trích từ sách Các vua quyển thứ hai, kể lại câu chuyện Naaman, viên tướng người Aram, cũng mắc bệnh phong, được chữa lành sau khi dìm mình bảy lần trong dòng sông Giođan, theo lệnh của ngôn sứ Êlisa. Sau khi được chữa lành, Naaman cũng trở lại gặp vị ngôn sứ và, nhận ra ông là trung gian của Thiên Chúa, Naaman tuyên xưng đức tin của mình vào Thiên Chúa duy nhất. Như thế, cả hai người phong – hai người ngoại giáo – đều được chữa lành vì họ đã tin vào lời của sứ giả của Thiên Chúa. Thân xác họ được lành sạch, nhưng chính đức tin đã mở ra con đường cứu độ cho linh hồn họ, nghĩa là họ đã được cứu độ.
Thánh vịnh Đáp ca ca tụng thực tại ấy: “Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ, mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân; Người đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ít-ra-en. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta” (Tv 98,2-3). Như vậy, chủ đề chính của các bài đọc là: Ơn cứu độ mang tính phổ quát, nhưng được chuyển thông qua một trung gian lịch sử cụ thể – đó là Dân Israel, và sau này là Đức Giêsu Kitô cùng Giáo hội của Người. Cửa sự sống được mở cho mọi người, nhưng – như Chúa Giêsu dạy – đó là “một cửa”, nghĩa là một lối đi xác định và cần thiết. Tất cả được tóm kết trong công thức của Thánh Phaolô mà chúng ta vừa nghe trong Thư thứ hai gửi Timôthê: “Ơn cứu độ ở trong Đức Kitô Giêsu” (2 Tm 2,10). Đây chính là mầu nhiệm của tính phổ quát trong ơn cứu độ, và đồng thời là mối liên kết tất yếu của ơn cứu độ với trung gian lịch sử của Đức Kitô Giêsu – Đấng được báo trước bởi Dân Israel và được tiếp nối bởi Giáo hội. Thiên Chúa là Tình yêu, và Ngài muốn mọi người được thông phần sự sống của Ngài. Để thực hiện kế hoạch ấy, Thiên Chúa Ba Ngôi đã dựng nên trong thế giới này một mầu nhiệm hiệp thông vừa nhân loại vừa thần linh, vừa lịch sử vừa siêu việt. Ngài thực hiện điều đó theo phương thức của Giao ước, liên kết chính Ngài với con người bằng tình yêu trung tín và vô tận, và dựng nên một dân thánh để trở thành phúc lành cho mọi gia đình trên mặt đất (x. St 12,3). Như thế, Thiên Chúa tỏ mình là Thiên Chúa của Ápraham, Isaác và Giacóp (x. Xh 3,6), Đấng muốn dẫn dắt dân của Ngài tới “miền đất” của tự do và bình an. Miền đất ấy không thuộc về thế gian, vì toàn bộ kế hoạch của Thiên Chúa vượt trên lịch sử, nhưng Ngài muốn kiến tạo nó với con người, cho con người và trong con người, khởi đi từ không gian và thời gian nơi họ đang sống, do chính Ngài đã ban.
Với những đặc tính riêng biệt của mình, miền đất mà chúng ta gọi là “Trung Đông” cũng nằm trong những tọa độ của lịch sử cứu độ ấy. Thiên Chúa nhìn vùng đất này từ một viễn tượng khác, có thể nói là “từ trên cao”: đây là vùng đất của Ápraham, Isaác và Giacóp; là vùng đất của cuộc Xuất Hành và của cuộc hồi hương sau lưu đày; là vùng đất của Đền thờ và các Ngôn sứ; là mảnh đất nơi Người Con Một của Đức Maria được sinh ra, sống, chịu chết và sống lại; là cái nôi của Giáo hội, được thiết lập để mang Tin mừng của Đức Kitô đến tận cùng trái đất. Và chính chúng ta, với tư cách là những tín hữu, cũng nhìn về Trung Đông từ viễn tượng ấy, tức là từ nhãn quan của lịch sử cứu độ. Chính cái nhìn nội tại này đã hướng dẫn tôi trong các chuyến tông du tại Thổ Nhĩ Kỳ, Đất thánh – Giođan, Israel, Palestine – và đảo Síp, nơi tôi đã có thể trực tiếp cảm nhận niềm vui và những nỗi ưu tư của các cộng đoàn Kitô hữu. Chính vì lý do đó, tôi đã vui lòng chấp thuận đề nghị của các Thượng phụ và các Giám mục để triệu tập một Đại hội Thượng Hội đồng, nhằm cùng nhau suy tư dưới ánh sáng của Kinh thánh và truyền thống Giáo hội về hiện trạng và tương lai của các tín hữu cũng như các dân tộc tại Trung Đông.
Khi nhìn phần đất ấy của thế giới theo viễn tượng của Thiên Chúa, chúng ta nhận ra rằng đó chính là “cái nôi” của kế hoạch cứu độ phổ quát trong tình yêu – một mầu nhiệm hiệp thông được thực hiện trong tự do, và vì thế mời gọi con người đáp trả. Ápraham, các ngôn sứ, và Trinh nữ Maria là những nhân vật tiêu biểu của sự đáp trả ấy, một sự đáp trả được hoàn tất nơi Đức Giêsu Kitô, Người Con của chính miền đất này, nhưng đã từ trời mà xuống. Chính từ Người, từ Trái Tim và Thần Khí của Người, Giáo hội đã được khai sinh — một Giáo hội lữ hành trong thế gian, nhưng thuộc trọn về Người. Giáo hội được thiết lập để trở nên dấu chỉ và khí cụ của kế hoạch cứu độ duy nhất và phổ quát của Thiên Chúa giữa loài người. Giáo hội chu toàn sứ mạng này bằng chính việc là chính mình, nghĩa là “hiệp thông và chứng tá”, như chủ đề của Đại hội Thượng Hội đồng khai mạc hôm nay đã nêu rõ, khi quy chiếu về mô tả nổi tiếng của Thánh Luca về cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi: “Cộng đoàn các tín hữu chỉ có một lòng một ý” (Cv 4,32). Không có hiệp thông thì không thể có chứng tá: chính đời sống hiệp thông mới là chứng tá lớn lao nhất. Chúa Giêsu đã khẳng định rõ: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Sự hiệp thông này chính là sự sống của Thiên Chúa, được thông ban trong Chúa Thánh Thần, nhờ Đức Giêsu Kitô. Vì thế, đây là một hồng ân, chứ không phải là điều chúng ta có thể tự mình kiến tạo nhờ nỗ lực riêng. Chính vì là một ân ban, nên sự hiệp thông đòi hỏi tự do của chúng ta và chờ đợi lời đáp trả của chúng ta: hiệp thông luôn đòi hỏi hoán cải, cũng như một món quà chỉ thực sự có giá trị khi được đón nhận và sử dụng cách xứng hợp. Tại Giêrusalem, những Kitô hữu tiên khởi chỉ là một nhóm nhỏ bé. Không ai có thể tưởng tượng được điều gì sẽ xảy ra sau đó. Nhưng Giáo hội vẫn tiếp tục sống nhờ cùng một sức mạnh ấy, sức mạnh đã làm cho Giáo hội được khai sinh và lớn lên. Lễ Hiện xuống là biến cố khởi nguyên, nhưng đồng thời cũng là một năng động thường hằng; và Thượng Hội đồng Giám mục chính là một thời điểm đặc ân, trong đó ân sủng của Lễ Hiện xuống có thể được canh tân trong hành trình của Giáo hội, để Tin mừng cứu độ có thể được công bố cách công khai và được mọi dân tộc lắng nghe.
Vì thế, lý do chính yếu của Đại hội Thượng Hội đồng này là lý do mục vụ. Dù không thể bỏ qua tình hình xã hội và chính trị tế nhị, đôi khi còn bi đát, tại một số quốc gia, các Mục tử của những Giáo hội Trung Đông vẫn muốn tập trung vào những khía cạnh cốt yếu của sứ mạng riêng của mình. Về điểm này, Tài liệu Làm việc (Instrumentum laboris) – được soạn thảo bởi Hội đồng Tiền Thượng Hội đồng, mà chúng ta bày tỏ lòng biết ơn về công việc của họ – đã nhấn mạnh mục tiêu mang tính Giáo hội của Đại hội, chỉ rõ rằng, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Đại hội mong muốn canh tân mối hiệp thông của Giáo hội Công giáo tại Trung Đông. Trước hết, là trong từng Giáo hội, giữa mọi thành phần của Giáo hội: thượng phụ, giám mục, linh mục, tu sĩ, những người sống đời thánh hiến và giáo dân; và từ đó, trong các mối tương quan với những Giáo hội khác. Khi đời sống Giáo hội được củng cố như thế, những hoa trái tốt lành sẽ nảy sinh trong con đường đại kết với các Giáo hội và các Cộng đoàn Giáo hội khác hiện diện tại Trung Đông. Dịp này cũng thuận tiện để tiếp tục cách xây dựng cuộc đối thoại với người Do Thái, với họ chúng ta gắn bó bằng mối dây bất khả phân ly – lịch sử lâu dài của Giao ước – và với người Muslim.
Ngoài ra, công trình của Đại hội Thượng Hội đồng còn hướng tới việc làm chứng của các Kitô hữu trên bình diện cá nhân, gia đình và xã hội. Điều này đòi hỏi phải củng cố căn tính Kitô giáo của họ nhờ Lời Chúa và các bí tích. Tất cả chúng ta đều hy vọng rằng các tín hữu có thể cảm nghiệm niềm vui khi được sống trên Đất thánh, mảnh đất được chúc phúc nhờ sự hiện diện và mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Giêsu Kitô. Qua nhiều thế kỷ, những nơi thánh ấy đã thu hút biết bao đoàn hành hương, cũng như nhiều nam nữ tu sĩ, những người coi đó là một đặc ân lớn lao khi được sống và làm chứng ngay trên quê hương của Chúa Giêsu. Dù có nhiều khó khăn, các Kitô hữu tại Đất thánh được mời gọi canh tân ý thức về chính mình như là những viên đá sống động của Giáo hội tại Trung Đông, tại những nơi thánh của ơn cứu độ chúng ta. Tuy nhiên, được sống cách xứng đáng trên chính quê hương mình trước hết là một quyền căn bản của con người; do đó, những điều kiện của hòa bình và công lý – vốn là thiết yếu cho sự phát triển hài hòa của mọi người đang sinh sống trong vùng – cần được cổ võ. Vì thế, tất cả đều được mời gọi đóng góp phần của mình: cộng đồng quốc tế, bằng cách hỗ trợ một lộ trình ổn định, trung thực và xây dựng hướng tới hòa bình; các tôn giáo lớn trong khu vực, bằng cách thúc đẩy những giá trị tinh thần và văn hóa liên kết con người lại với nhau và loại trừ mọi hình thức bạo lực. Các Kitô hữu sẽ tiếp tục góp phần của họ không chỉ qua các hoạt động xã hội, chẳng hạn như những cơ sở giáo dục và y tế, nhưng trước hết bằng tinh thần của các mối Phúc thật, một tinh thần nuôi dưỡng việc thực hành tha thứ và hòa giải. Trong nỗ lực này, họ luôn có được sự nâng đỡ của toàn thể Giáo hội, điều được minh chứng cách long trọng qua sự hiện diện của các đại biểu của các Hội đồng Giám mục đến từ các châu lục khác tại đây.
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy phó thác công trình của Đại hội Thượng Hội đồng Trung Đông cho các thánh của miền đất được chúc phúc này; và hãy khẩn cầu sự bảo trợ không ngừng của Đức Trinh nữ Maria rất thánh, để cho những ngày cầu nguyện, suy tư và hiệp thông huynh đệ sắp tới trở nên dấu chỉ báo trước những hoa trái tốt lành cho hiện tại và tương lai của các dân tộc Trung Đông thân yêu. Với tất cả tấm lòng, chúng ta gửi đến họ lời chào tràn đầy hy vọng: “Chúc anh em được bình an, chúc gia đình anh em được bình an, chúc anh em vạn sự bình an !” (1 Sm 25,6).
Đức Bênêđictô XVI, Huấn dụ Chúa nhật 28 Thường niên năm C (14/10/2007) - Hai cấp độ chữa lành
Anh chị em thân mến,
Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay trình bày Chúa Giêsu chữa lành mười người mắc bệnh phong; trong số đó chỉ có một người Samari tức là ngoại kiều, trở lại cám ơn Người (x. Lc 17,11-19). Chúa nói với anh ta rằng: “Hãy đứng lên và về đi; đức tin của anh đã cứu anh!” (Lc 17,19). Trang sách Tin mừng mời gọi chúng ta suy nghĩ hai điểm. Thứ nhất là có hai cấp độ chữa lành; một thứ chữa bên ngoài, liên quan đến thân thể, còn một thứ sâu xa hơn liên quan đến chỗ thâm sâu của con người, mà Kinh Thánh gọi là “con tim”, từ đó lan rộng ra khắp toàn thể con người. Sự chữa lành toàn diện và tận gốc gọi là “cứu chữa”, cũng tựa như khi người ta phân biệt giữa “chữa bệnh” và “chữa lành”. Điều này cho thấy rằng sự cứu chữa (cứu độ) là điều gì còn lớn hơn sự chữa bệnh nữa, bởi vì sự cứu độ bao hàm một cuộc sống mới, sung mãn, vĩnh cửu. Ngoài ra, ở đây cũng như ở nhiều trường hợp khác, Chúa đã tuyên bố rằng: “đức tin đã cứu chữa anh”. Chính đức tin mới cứu chữa con người, đặt nó trong mối tương quan sâu đậm với Thiên Chúa, với chính minh và với tha nhân; và đức tin được bộc lộ qua lòng biết ơn. Phàm ai, theo gương của người Samari được lành bệnh, biết tạ ơn Thiên Chúa, thì chứng tỏ rằng mình nhìn nhận tất cả mọi sự không phải như là cái mà mình có quyền đòi hỏi nhưng như là một hồng ân, mà kể cả khi nó đến từ những người khác hay từ thiên nhiên, cuối cùng nó vẫn bắt nguồn từ Thiên Chúa. Từ đó đức tin bao gồm việc con người mở rộng lòng với hồng ân của Chúa, nhận biết rằng tất cả đều là hồng ân, tất cả đều là ân huệ. Quả thật lời nói “cám ơn” chan chứa biết bao ý nghĩa súc tích.
Chúa Giêsu đã chữa lành mười người mắc bệnh phong, một bệnh mà thời đó bị coi như “sư ô uế truyền nhiễm”, đòi buộc một lễ nghi thanh tấy (xc Lv 14,1-37). Thực ra, bệnh phong gây hoen ố cho con người và xã hội là tội lỗi; tội kiêu ngạo và ích kỷ gây ra trong tâm hồn sự thờ ơ lãnh đạm, hận thù và bạo lực. Duy một mình Thiên Chúa mới có thể chữa lành bệnh phong về tinh thần làm cho khuôn mặt nhân loại bị méo mó, bởi vì Thiên Chúa là tình thương. Khi mở rộng tấm lòng cho Thiên Chúa, con người hoái cải được thực sự chữa lành khỏi sự dữ.
“Hãy hoán cải và tin theo Tin Mừng” (xc. Mc 1,15). Chúa Giêsu đã khai mạc sứ vụ công khai bằng lời hô hào ấy, lời vẫn còn tiếp tục vang lên trong Hội thánh, và Đức Mẹ Maria trong những lần hiện ra, đặc biệt trong những thời gian gần đây, luôn luôn lặp lại lời kêu gọi đó. Hôm nay, chúng ta nghĩ đến Fatima cách riêng, nơi mà cách đây 90 năm, từ ngày 13/5 đến ngày 13/10 năm 1917, Mẹ đã hiện ra với ba trẻ Lucia, Giacinta, Francesco. Nhờ các phương tiện của đài truyền thanh và truyền hình, tôi muốn hiện diện bằng tinh thần ở thánh điện này, nơi mà hồng y Tarcisio Bertone đã chủ toạ thay mặt tôi các lễ nghi bế mạc kỷ niệm đầy ý nghĩa. Tôi xin chào mừng các hồng y và giám mục có mặt, các linh mục đang hoạt động tại đền thánh, các đoàn hành hương đến từ khắp thế giới vào dịp này. Chúng ta hãy nài xin Mẹ Maria cho tất cả các Kitô hữu được ơn cải hoán thật tình, hầu cho sứ điệp Tin mừug là con đường dẫn tới hoà bình chân chính, có thể được loan truyền và chứng tá cách trung thành.
Nguồn: archivioradiovaticana.va