Đồng tế với Đức Thánh Cha có 177 nghị phụ, trong số này có 19 hồng y, 9 thượng phụ, 72 tổng giám mục và 67 giám mục. Phần còn lại là 69 linh mục chuyên gia, dự thính viên, cộng tác viên. Tháp tùng sát ĐTC là 4 vị Chủ tịch thừa ủy trong đó có hai vị Chủ tịch danh dự là Đức Hồng y Sfeir, Thượng phụ Giáo chủ Công giáo Maronit Liban, và Đức Hồng y Emmanuel III Delly của Giáo hội Công giáo Canđê bên Irak. Hai vị chủ tịch thừa ủy thực thụ là Đức Hồng y Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Công giáo Đông phương và Đức Thượng Phụ Youssif III Younan của Giáo hội Công giáo Siri ở Liban. Ngoài ra, có 3 chức sắc khác của Thượng hội đồng giám mục này. Hiện diện trong thánh lễ, ngoài 9 ngàn tín hữu Công giáo còn có một số đại diện của các Giáo hội Kitô anh em.

Đảm trách phần thánh ca trong thánh lễ, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa Thánh còn 3 ca đoàn khác, đông nhất là Ca đoàn Mẹ Giáo Hội với 85 ca viên, tiếp đến là Ca đoàn Liên Học viện Giáo Hội Đông phương ở Roma với 35 ca viên, sau cùng là ca đoàn Hy Lạp gồm 22 ca viên.

Đúng 9 giờ rưỡi, các nghị phụ bắt đầu đi rước từ cuối Đền thờ tiến lên bàn thờ chính. Phẩm phục vụ của các vị phản ánh hùng hồn đặc tính hoàn vũ và đại đồng của Giáo Hội với nhiều sắc thái khác nhau: các hồng y, giám mục thuộc nghi lễ latinh mặc áo lễ màu xanh, trong khi các thượng phụ và giám mục thuộc các nghi lễ Đông phương mang phẩm phục màu trắng, màu vàng, và các màu khác theo lễ điển của mình. Trong khi đó ca đoàn và cộng đoàn hát kinh cầu xin ơn phù trợ của các thánh.

Trong lời dẫn nhập đầu thánh lễ, Đức Thánh Cha nói: “Trong Thượng hội đồng Giám mục này Chúa ban cho chúng ta một thời gian thuận tiện để cùng nhau cầu nguyện, đối chiếu bản thân chúng ta với Lời Chúa không bao giờ qua đi và suy tư về những thách đố và cơ hội mà Giáo Hội tại Trung Đông đang gặp ngày nay. Chúng ta hãy chuẩn bị cho những ngày làm việc khẩn trương này, xin Chúa ban ơn thánh vì không có ơn Chúa chúng ta không thể làm được gì. Chúa Kitô sẽ thực sự hiện diện giữa chúng ta nơi đây, dưới hình bánh và rượu được thánh hiến trên bàn thờ. Chúng ta hãy xin Ngài sai Thánh Thần Chân Lý đến soi sáng tâm trí các GM miền Trung Động, tụ họp nhau tại Roma này, tòa của người Kế Vị Thánh Phêrô, là nguyên lý và là nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất Giáo Hội”. (Nguồn: archivioradiovaticana.va)

Sau đây là toàn văn bài giảng của Đức Thánh Cha:

ĐỨC GIÁO HOÀNG BÊNÊĐICTÔ XVI

BÀI GIẢNG

THÁNH LỄ KHAI MẠC

ĐẠI HỘI ĐẶC BIỆT CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC

DÀNH CHO TRUNG ĐÔNG

Chúa nhật, ngày 10/10/2010

[Đa phương tiện]

Anh em giám mục khả kính,

Quý vị và các bạn thân mến!

Việc cử hành Thánh Thể là việc tạ ơn Thiên Chúa cách tuyệt hảo nhất. Việc cử hành Thánh Thể hôm nay mang một ý nghĩa đặc biệt đối với chúng ta, những người đang quy tụ quanh mộ Thánh Phêrô, bởi vì chúng ta được diễm phúc chứng kiến một biến cố đầy ân sủng: lần đầu tiên trong lịch sử, các giám mục của khu vực Trung Đông cùng nhau quy tụ tại một Thượng Hội đồng chung quanh Giám mục Rôma, Mục tử hoàn vũ. Biến cố độc đáo này cho thấy toàn thể Giáo hội đang dành mối quan tâm sâu sắc cho phần quý báu và yêu dấu của Dân Thiên Chúa đang sinh sống tại Đất Thánh và toàn vùng Trung Đông.

Trước hết, chúng ta dâng lời tạ ơn Chúa của lịch sử, bởi lẽ – dù đã trải qua bao biến cố cam go và đầy thử thách – Người vẫn cho phép vùng Trung Đông được chứng kiến sự hiện diện liên tục của các Kitô hữu từ thời Chúa Giêsu cho đến hôm nay. Chính tại những miền đất ấy, Giáo hội duy nhất của Chúa Kitô được thể hiện trong sự đa dạng phong phú của các truyền thống phụng vụ, thiêng liêng, văn hóa và kỷ luật nơi sáu Giáo hội Công giáo Đông phương tự trị (sui iuris), cũng như trong truyền thống Latinh. Với lòng quý mến sâu sắc, tôi gửi lời chào huynh đệ đến các Thượng phụ của mỗi Giáo hội ấy, và qua các ngài, tôi muốn gửi lời chào thăm và lời cầu chúc hiệp thông thân ái đến tất cả các tín hữu được trao phó cho sứ vụ mục vụ của các ngài – dù họ đang sống tại quê hương hay đang tản mác ở dạng kiều cư (Diaspora).

Vào Chúa nhật XXVIII Thường niên, Lời Chúa hôm nay gửi đến chúng ta một chủ đề suy niệm mang ý nghĩa sâu xa, giúp chúng ta tiến gần hơn đến biến cố của Thượng Hội đồng được khai mạc hôm nay. Bài đọc liên tục theo Tin mừng Luca đưa chúng ta đến trình thuật về mười người phong cùi được chữa lành, trong đó chỉ có một người – là người Samari – quay lại tạ ơn Chúa Giêsu. Liên kết với đoạn Tin mừng này, bài đọc thứ nhất, trích từ sách Các vua quyển thứ hai, kể lại câu chuyện Naaman, viên tướng người Aram, cũng mắc bệnh phong, được chữa lành sau khi dìm mình bảy lần trong dòng sông Giođan, theo lệnh của ngôn sứ Êlisa. Sau khi được chữa lành, Naaman cũng trở lại gặp vị ngôn sứ và, nhận ra ông là trung gian của Thiên Chúa, Naaman tuyên xưng đức tin của mình vào Thiên Chúa duy nhất. Như thế, cả hai người phong – hai người ngoại giáo – đều được chữa lành vì họ đã tin vào lời của sứ giả của Thiên Chúa. Thân xác họ được lành sạch, nhưng chính đức tin đã mở ra con đường cứu độ cho linh hồn họ, nghĩa là họ đã được cứu độ.

Thánh vịnh Đáp ca ca tụng thực tại ấy: “Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ, mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân; Người đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ít-ra-en. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta” (Tv 98,2-3). Như vậy, chủ đề chính của các bài đọc là: Ơn cứu độ mang tính phổ quát, nhưng được chuyển thông qua một trung gian lịch sử cụ thể – đó là Dân Israel, và sau này là Đức Giêsu Kitô cùng Giáo hội của Người. Cửa sự sống được mở cho mọi người, nhưng – như Chúa Giêsu dạy – đó là “một cửa”, nghĩa là một lối đi xác định và cần thiết. Tất cả được tóm kết trong công thức của Thánh Phaolô mà chúng ta vừa nghe trong Thư thứ hai gửi Timôthê: “Ơn cứu độ ở trong Đức Kitô Giêsu” (2 Tm 2,10). Đây chính là mầu nhiệm của tính phổ quát trong ơn cứu độ, và đồng thời là mối liên kết tất yếu của ơn cứu độ với trung gian lịch sử của Đức Kitô Giêsu – Đấng được báo trước bởi Dân Israel và được tiếp nối bởi Giáo hội. Thiên Chúa là Tình yêu, và Ngài muốn mọi người được thông phần sự sống của Ngài. Để thực hiện kế hoạch ấy, Thiên Chúa Ba Ngôi đã dựng nên trong thế giới này một mầu nhiệm hiệp thông vừa nhân loại vừa thần linh, vừa lịch sử vừa siêu việt. Ngài thực hiện điều đó theo phương thức của Giao ước, liên kết chính Ngài với con người bằng tình yêu trung tín và vô tận, và dựng nên một dân thánh để trở thành phúc lành cho mọi gia đình trên mặt đất (x. St 12,3). Như thế, Thiên Chúa tỏ mình là Thiên Chúa của Ápraham, Isaác và Giacóp (x. Xh 3,6), Đấng muốn dẫn dắt dân của Ngài tới “miền đất” của tự do và bình an. Miền đất ấy không thuộc về thế gian, vì toàn bộ kế hoạch của Thiên Chúa vượt trên lịch sử, nhưng Ngài muốn kiến tạo nó với con người, cho con người và trong con người, khởi đi từ không gian và thời gian nơi họ đang sống, do chính Ngài đã ban.

Với những đặc tính riêng biệt của mình, miền đất mà chúng ta gọi là “Trung Đông” cũng nằm trong những tọa độ của lịch sử cứu độ ấy. Thiên Chúa nhìn vùng đất này từ một viễn tượng khác, có thể nói là “từ trên cao”: đây là vùng đất của Ápraham, Isaác và Giacóp; là vùng đất của cuộc Xuất Hành và của cuộc hồi hương sau lưu đày; là vùng đất của Đền thờ và các Ngôn sứ; là mảnh đất nơi Người Con Một của Đức Maria được sinh ra, sống, chịu chết và sống lại; là cái nôi của Giáo hội, được thiết lập để mang Tin mừng của Đức Kitô đến tận cùng trái đất. Và chính chúng ta, với tư cách là những tín hữu, cũng nhìn về Trung Đông từ viễn tượng ấy, tức là từ nhãn quan của lịch sử cứu độ. Chính cái nhìn nội tại này đã hướng dẫn tôi trong các chuyến tông du tại Thổ Nhĩ Kỳ, Đất thánh – Giođan, Israel, Palestine – và đảo Síp, nơi tôi đã có thể trực tiếp cảm nhận niềm vui và những nỗi ưu tư của các cộng đoàn Kitô hữu. Chính vì lý do đó, tôi đã vui lòng chấp thuận đề nghị của các Thượng phụ và các Giám mục để triệu tập một Đại hội Thượng Hội đồng, nhằm cùng nhau suy tư dưới ánh sáng của Kinh thánh và truyền thống Giáo hội về hiện trạng và tương lai của các tín hữu cũng như các dân tộc tại Trung Đông.

Khi nhìn phần đất ấy của thế giới theo viễn tượng của Thiên Chúa, chúng ta nhận ra rằng đó chính là “cái nôi” của kế hoạch cứu độ phổ quát trong tình yêu – một mầu nhiệm hiệp thông được thực hiện trong tự do, và vì thế mời gọi con người đáp trả. Ápraham, các ngôn sứ, và Trinh nữ Maria là những nhân vật tiêu biểu của sự đáp trả ấy, một sự đáp trả được hoàn tất nơi Đức Giêsu Kitô, Người Con của chính miền đất này, nhưng đã từ trời mà xuống. Chính từ Người, từ Trái Tim và Thần Khí của Người, Giáo hội đã được khai sinh — một Giáo hội lữ hành trong thế gian, nhưng thuộc trọn về Người. Giáo hội được thiết lập để trở nên dấu chỉ và khí cụ của kế hoạch cứu độ duy nhất và phổ quát của Thiên Chúa giữa loài người. Giáo hội chu toàn sứ mạng này bằng chính việc là chính mình, nghĩa là “hiệp thông và chứng tá”, như chủ đề của Đại hội Thượng Hội đồng khai mạc hôm nay đã nêu rõ, khi quy chiếu về mô tả nổi tiếng của Thánh Luca về cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi: “Cộng đoàn các tín hữu chỉ có một lòng một ý” (Cv 4,32). Không có hiệp thông thì không thể có chứng tá: chính đời sống hiệp thông mới là chứng tá lớn lao nhất. Chúa Giêsu đã khẳng định rõ: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Sự hiệp thông này chính là sự sống của Thiên Chúa, được thông ban trong Chúa Thánh Thần, nhờ Đức Giêsu Kitô. Vì thế, đây là một hồng ân, chứ không phải là điều chúng ta có thể tự mình kiến tạo nhờ nỗ lực riêng. Chính vì là một ân ban, nên sự hiệp thông đòi hỏi tự do của chúng ta và chờ đợi lời đáp trả của chúng ta: hiệp thông luôn đòi hỏi hoán cải, cũng như một món quà chỉ thực sự có giá trị khi được đón nhận và sử dụng cách xứng hợp. Tại Giêrusalem, những Kitô hữu tiên khởi chỉ là một nhóm nhỏ bé. Không ai có thể tưởng tượng được điều gì sẽ xảy ra sau đó. Nhưng Giáo hội vẫn tiếp tục sống nhờ cùng một sức mạnh ấy, sức mạnh đã làm cho Giáo hội được khai sinh và lớn lên. Lễ Hiện xuống là biến cố khởi nguyên, nhưng đồng thời cũng là một năng động thường hằng; và Thượng Hội đồng Giám mục chính là một thời điểm đặc ân, trong đó ân sủng của Lễ Hiện xuống có thể được canh tân trong hành trình của Giáo hội, để Tin mừng cứu độ có thể được công bố cách công khai và được mọi dân tộc lắng nghe.

Vì thế, lý do chính yếu của Đại hội Thượng Hội đồng này là lý do mục vụ. Dù không thể bỏ qua tình hình xã hội và chính trị tế nhị, đôi khi còn bi đát, tại một số quốc gia, các Mục tử của những Giáo hội Trung Đông vẫn muốn tập trung vào những khía cạnh cốt yếu của sứ mạng riêng của mình. Về điểm này, Tài liệu Làm việc (Instrumentum laboris) – được soạn thảo bởi Hội đồng Tiền Thượng Hội đồng, mà chúng ta bày tỏ lòng biết ơn về công việc của họ – đã nhấn mạnh mục tiêu mang tính Giáo hội của Đại hội, chỉ rõ rằng, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Đại hội mong muốn canh tân mối hiệp thông của Giáo hội Công giáo tại Trung Đông. Trước hết, là trong từng Giáo hội, giữa mọi thành phần của Giáo hội: thượng phụ, giám mục, linh mục, tu sĩ, những người sống đời thánh hiến và giáo dân; và từ đó, trong các mối tương quan với những Giáo hội khác. Khi đời sống Giáo hội được củng cố như thế, những hoa trái tốt lành sẽ nảy sinh trong con đường đại kết với các Giáo hội và các Cộng đoàn Giáo hội khác hiện diện tại Trung Đông. Dịp này cũng thuận tiện để tiếp tục cách xây dựng cuộc đối thoại với người Do Thái, với họ chúng ta gắn bó bằng mối dây bất khả phân ly – lịch sử lâu dài của Giao ước – và với người Muslim.

Ngoài ra, công trình của Đại hội Thượng Hội đồng còn hướng tới việc làm chứng của các Kitô hữu trên bình diện cá nhân, gia đình và xã hội. Điều này đòi hỏi phải củng cố căn tính Kitô giáo của họ nhờ Lời Chúa và các bí tích. Tất cả chúng ta đều hy vọng rằng các tín hữu có thể cảm nghiệm niềm vui khi được sống trên Đất thánh, mảnh đất được chúc phúc nhờ sự hiện diện và mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Giêsu Kitô. Qua nhiều thế kỷ, những nơi thánh ấy đã thu hút biết bao đoàn hành hương, cũng như nhiều nam nữ tu sĩ, những người coi đó là một đặc ân lớn lao khi được sống và làm chứng ngay trên quê hương của Chúa Giêsu. Dù có nhiều khó khăn, các Kitô hữu tại Đất thánh được mời gọi canh tân ý thức về chính mình như là những viên đá sống động của Giáo hội tại Trung Đông, tại những nơi thánh của ơn cứu độ chúng ta. Tuy nhiên, được sống cách xứng đáng trên chính quê hương mình trước hết là một quyền căn bản của con người; do đó, những điều kiện của hòa bình và công lý – vốn là thiết yếu cho sự phát triển hài hòa của mọi người đang sinh sống trong vùng – cần được cổ võ. Vì thế, tất cả đều được mời gọi đóng góp phần của mình: cộng đồng quốc tế, bằng cách hỗ trợ một lộ trình ổn định, trung thực và xây dựng hướng tới hòa bình; các tôn giáo lớn trong khu vực, bằng cách thúc đẩy những giá trị tinh thần và văn hóa liên kết con người lại với nhau và loại trừ mọi hình thức bạo lực. Các Kitô hữu sẽ tiếp tục góp phần của họ không chỉ qua các hoạt động xã hội, chẳng hạn như những cơ sở giáo dục và y tế, nhưng trước hết bằng tinh thần của các mối Phúc thật, một tinh thần nuôi dưỡng việc thực hành tha thứ và hòa giải. Trong nỗ lực này, họ luôn có được sự nâng đỡ của toàn thể Giáo hội, điều được minh chứng cách long trọng qua sự hiện diện của các đại biểu của các Hội đồng Giám mục đến từ các châu lục khác tại đây.

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy phó thác công trình của Đại hội Thượng Hội đồng Trung Đông cho các thánh của miền đất được chúc phúc này; và hãy khẩn cầu sự bảo trợ không ngừng của Đức Trinh nữ Maria rất thánh, để cho những ngày cầu nguyện, suy tư và hiệp thông huynh đệ sắp tới trở nên dấu chỉ báo trước những hoa trái tốt lành cho hiện tại và tương lai của các dân tộc Trung Đông thân yêu. Với tất cả tấm lòng, chúng ta gửi đến họ lời chào tràn đầy hy vọng: “Chúc anh em được bình an, chúc gia đình anh em được bình an, chúc anh em vạn sự bình an !” (1 Sm 25,6).

Văn Việt

Chuyển ngữ từ: vatican.va