Sáng Chúa nhật 13/10, trước hàng chục ngàn tín hữu hiện diện tại quảng trường, Đức Thánh Cha Phanxicô chủ sự Thánh lễ tuyên phong hiển thánh cho 5 chân phước: Đức Hồng y John Henry Newman người Anh, nữ tu Giuseppina Vannini người Ý, nữ tu Mariam Thresia Chiramel Mankidiyan người Ấn Độ, nữ tu Dulce Lopes Pontes và cuối cùng là nữ giáo dân Maguerite Bays.

Thánh lễ phong thánh diễn ra giữa kỳ Thượng Hội đồng Giám mục về miền Amazon nên đã có hơn 50 Hồng y và 250 Giám mục đồng tế với Đức Thánh Cha. Ngoài 250 linh mục phụ trách cho rước lễ, 2300 linh mục đồng tế ngồi kín một phần quảng trường.

Phái đoàn các quốc gia

Hiện diện tại Thánh lễ có một số phái đoàn của các nước. Trước tiên là Tổng Thống Ý, ông Sergio Mattarella, và đoàn tùy tùng. Tiếp đến là Thái tử Charles dẫn đầu phái đoàn Anh quốc. Phái đoàn Brazil được hướng dẫn bởi Phó Tổng thống Hamilton Martins Mourao. Bên cạnh đó còn có Phó Tổng thống Đài Loan Trần Kiến Nhân, Bộ trưởng Giáo dục Ai Len, ông Joe McHugh, cố vấn liên bang Thụy Sĩ, bà Karin Keller Stutter, và các đoàn tùy tùng.

Đồng tế chính với Đức Thánh Cha trong Thánh lễ hôm nay là các vị đại diện các quốc gia nguyên quán của các tân hiển thánh. Cha Ignatius Harrison của Anh; Đức cha Lauro Tisi của Ý; Đức cha Mar Pauly Kannookadan của Ấn Độ; Đức cha Murilo Kriegere của Brazil; và Đức cha Charles Morerod của Thụy Sĩ.

Nghi thức phong thánh

Sau khi hát Kinh Chúa Thánh Thần, Đức Hồng y Angelo Becciu, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, được tháp tùng bởi các thỉnh nguyện viên án phong thánh, đến trước Đức Thánh Cha và xin Đức Thánh Cha phong thánh cho 5 chân phước. Sau đó Đức Hồng y Becciu tường thuật sơ lược tiểu sử của 5 chân phước sắp được phong thánh.

Sau kinh cầu Các Thánh, Đức Thánh Cha đã đọc công thức phong thánh: để tôn vinh Chúa Ba Ngôi, đề cao đức tin Công giáo và gia tăng đời sống Kitô hữu, bằng quyền của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta và của các thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô và của chính chúng ta, sau khi đã suy tư và cầu xin sự trợ giúp của Chúa và nghe ý kiến của các anh em Giám mục của chúng tôi, chúng tôi tuyên bố và xác định các chân phước John Henry Newman, Giuseppina Vannini, Mariam Thresia Chiramel Mankidiyan, Dulce Lopes Pontes và Maguerite Bays là hiển thánh và ghi tên các ngài vào sổ bộ các thánh, truyền rằng các ngài được tôn kính bởi toàn thể Giáo hội. Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Thánh lễ tiếp tục với phần phụng vụ Lời Chúa Chúa nhật XXVIII Thường niên.

Trong bài giảng, dựa trên lời tuyên bố của Chúa Giêsu “lòng tin của anh đã cứu chữa anh”, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến 3 bước trong hành trình đức tin mà những người phong cùi đã thực hiện. Sau đây là toàn văn bài giảng của Đức Thánh Cha: 


ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

BÀI GIẢNG

THÁNH LỄ PHONG THÁNH CHO ĐỨC HỒNG Y NEWMAN, GIUSEPPINA VANNINI, MARIAM THRESIA CHIRAMEL MANKIDIYAN, DULCE LOPES PONTES, MARGUERITE BAYS

Quảng trường Thánh Phêrô

Chúa nhật, 13/10/2019

[Đa phương tiện]

“Lòng tin của anh đã cứu chữa anh" (Lc 17,19). Đây là câu chính yếu của bài Tin mừng hôm nay, câu này nói về hành trình đức tin. Có ba chặng trong hành trình đức tin. Chúng ta nhận ra điều đó qua ba hành động của những người phong hủi được Chúa Giêsu chữa lành: họ kêu cầu, họ bước đi, và họ tạ ơn.

Trước hết, họ kêu cầu. Những người phong cùi ở trong một tình cảnh khốn cùng, không chỉ vì căn bệnh – vốn vẫn còn phổ biến ngay cả ngày nay và cần phải kiên trì chiến đấu – mà còn vì bị xã hội loại trừ. Vào thời Đức Giêsu, người phong cùi bị xem là ô uế, nên bị cô lập, tách biệt khỏi cộng đồng (x. Lv 13,46). Ta thấy khi họ đến gần Chúa Giêsu, họ “đứng đàng xa” (Lc 17,12). Dù hoàn cảnh khiến họ bị gạt ra ngoài, Tin mừng kể rằng họ “kêu lớn tiếng” (c. 13) và van xin Người thương xót. Họ không để mình bị tê liệt bởi sự loại trừ của xã hội và họ kêu lên cùng Thiên Chúa, Đấng không loại trừ bất cứ ai. Đây là cách họ rút ngắn những khoảng cách, vượt qua sự cô độc: không đóng kín trong chính mình và trong sự đau khổ của mình, không nghĩ đến những phán xét của người khác, nhưng kêu cầu Chúa, vì Chúa lắng nghe tiếng kêu của người đơn độc.

Cũng như những người phong cùi ấy, chúng ta cũng cần được chữa lành, mỗi người trong chúng ta. Chúng ta cần được chữa lành khỏi sự mất lòng tin vào bản thân, vào cuộc sống, tương lai; khỏi nhiều nỗi sợ hãi; khỏi những tật xấu mà chúng ta là nô lệ; khỏi sự khép kín, lệ thuộc và gắn chặt với các “games”, tiền bạc, tivi, điện thoại di động, sự phán xét của người khác. Chúa giải thoát và chữa lành trái tim, nếu chúng ta cầu khẩn Ngài, nếu chúng ta nói với Ngài: ‘Lạy Chúa, con tin rằng Chúa có thể chữa lành con; xin chữa lành con khỏi sự khép kín của mình, xin giải thoát con khỏi sự xấu xa và sợ hãi, lạy Chúa Giêsu.’ Những người phong cùi là những người đầu tiên trong Tin mừng này đã kêu cầu danh Chúa Giêsu. Sau đó, một người mù và một kẻ trộm bị đóng đinh cũng làm như vậy: tất cả đều là những người túng thiếu, kêu cầu danh Chúa Giêsu – nghĩa là “Thiên Chúa cứu độ”. Họ gọi đích danh Thiên Chúa, cách trực tiếp và tự nhiên. Gọi ai đó bằng tên là dấu chỉ của lòng tin tưởng, và điều đó làm đẹp lòng Chúa. Đức tin lớn lên chính bằng lời cầu nguyện đầy tín thác như thế: lời cầu nguyện trong đó ta đem đến cho Chúa Giêsu con người thật của mình, với tâm hồn rộng mở, không che giấu nỗi đau khổ. Mỗi ngày, chúng ta hãy tin tưởng mà kêu cầu danh Chúa Giêsu: “Thiên Chúa cứu độ.” Hãy lặp lại điều đó: đó chính là cầu nguyện, bởi nói “Giêsu” là đã cầu nguyện. Và cầu nguyện là điều thiết yếu! Thật vậy, cầu nguyện chính là cánh cửa của đức tin, là liều thuốc chữa lành con tim.

Từ thứ hai là “bước đi”. Đây là giai đoạn thứ hai. Trong bài Tin mừng ngắn hôm nay, có nhiều động từ diễn tả sự chuyển động. Điều đáng chú ý là những người phong cùi không được chữa lành ngay khi họ đứng trước mặt Chúa Giêsu; họ chỉ được chữa lành sau đó, trên đường đi. Tin mừng nói rằng: “Đang khi đi thì họ được sạch” (Lc 17,14). Họ được chữa lành trong khi tiến bước lên Giêrusalem, nghĩa là trong hành trình đi lên dốc. Trên con đường của cuộc sống, sự thanh luyện diễn ra trong chính hành trình ấy, một hành trình thường là gian nan, vì nó dẫn ta lên cao. Đức tin đòi hỏi một hành trình, đòi đi ra, nó tạo nên những điều kỳ diệu nếu chúng ta đi ra khỏi sự tiện nghi chắc chắn, nếu chúng ta rời khỏi những bến cảng yên tâm, những tổ ấm thoải mái của chúng ta. Niềm tin gia tăng cùng với món quà và phát triển cùng với rủi ro. Đức tin tiến triển khi chúng ta tiến bước với niềm tin vào Chúa. Đức tin tiến bước bằng những bước khiêm tốn và cụ thể, như những bước chân của các người phong cùi hay của Naaman khi ông xuống tắm bảy lần trong sông Giođan (x. 2 V 5,14-17). Điều đó cũng đúng với chúng ta: chúng ta tiến bước trong đức tin với tình yêu khiêm nhường và cụ thể, với sự kiên nhẫn hàng ngày, khi cầu khẩn Chúa Giêsu và tiến bước trên con đường đời.

Có một khía cạnh đáng chú ý khác trong hành trình của những người phong cùi: họ cùng nhau bước đi. Tin mừng nói: “Đang khi đi thì họ được sạch” (c. 14). Các động từ đều ở số nhiều. Đức tin cũng có nghĩa là cùng nhau bước đi, không bao giờ một mình. Tuy nhiên, sau khi được chữa lành, chín người trong số họ lại rẽ sang đường riêng của mình, chỉ có một người quay lại để tạ ơn. Chúa Giêsu bấy giờ tỏ ra ngạc nhiên và hỏi: “Còn chín người kia đâu?” (c. 17). Dường như Người muốn người duy nhất quay lại phải chịu trách nhiệm cho chín người kia. Đúng thật đó là nhiệm vụ của chúng ta – của chúng ta, những người đang ở đây để cử hành "Thánh Thể", nghĩa là “tạ ơn” – chăm sóc những người đã dừng bước, những người lạc đường. Chúng ta được mời gọi là người chăm sóc bảo vệ các anh chị em ở xa. Chúng ta cầu nguyện cho họ, chúng ta chịu trách nhiệm về họ, được mời gọi trả lời họ, yêu thương quý trọng họ. Anh chị em muốn phát triển trong đức tin? Hãy chăm sóc một người anh em, một người chị em ở xa. Anh chị em có muốn lớn lên trong đức tin không? Anh chị em đang hiện diện ở đây có muốn lớn lên trong đức tin không? Vậy thì hãy chăm sóc một người anh em xa cách, một người chị em lạc lối.

Kêu cầu. Bước đi. Và tạ ơn là bước cuối cùng. Chỉ với người đã biết tạ ơn, Chúa Giêsu mới nói: “Đức tin của anh đã cứu anh” (Lc 17,19). Người này không chỉ được lành sạch mà còn được cứu độ. Qua đó, chúng ta thấy rằng mục tiêu tối hậu không phải là sức khỏe hay sự an lành thể xác, mà là cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu. Ơn cứu độ không phải là uống một ly nước để giữ sức khỏe, nhưng là đi đến nguồn mạch, đó là Chúa Giêsu. Chỉ mình Người mới có thể giải thoát ta khỏi sự dữ và chữa lành tâm hồn chúng ta. Chỉ cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu mới có thể cứu chúng ta, làm cho đời sống chúng ta nên tròn đầy và tươi đẹp. Mỗi khi chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu, từ “tạ ơn” liền tự nhiên vang lên trên môi miệng, vì ta đã khám phá ra điều quan trọng nhất trong cuộc đời: không phải là nhận được một ân huệ hay giải quyết một vấn đề, mà là ôm lấy chính Chúa – Đấng ban sự sống. Và đó chính là điều quan trọng nhất của đời người: ôm lấy Chúa của sự sống.

Thật cảm động khi thấy người được chữa lành – vốn là một người Samari – đã diễn tả niềm vui của mình bằng toàn thể con người: anh lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, sấp mình thờ lạy và dâng lời cảm tạ (x. Lc 17,15–16). Đỉnh cao của hành trình đức tin là sống một đời tạ ơn liên lỉ. Chúng ta hãy tự hỏi: chúng ta – những người có đức tin – có sống mỗi ngày như một gánh nặng, hay như một bài ca chúc tụng? Chúng ta có khép kín trong chính mình, chỉ biết chờ đợi để xin thêm ơn lành, hay chúng ta tìm thấy niềm vui trong việc tạ ơn? Khi chúng ta biết tỏ lòng biết ơn, trái tim Chúa Cha được đánh động, và Người đổ tràn Thánh Thần xuống trên chúng ta. Tạ ơn không chỉ là một cử chỉ lịch sự hay phép xã giao; đó là hành động của đức tin. Một trái tim biết ơn là một trái tim luôn trẻ trung. Biết nói: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa” khi thức dậy, trong suốt ngày sống và trước khi đi ngủ - đó là cách tốt nhất để giữ cho tâm hồn mình mãi tươi trẻ, bởi vì trái tim con người có thể trở nên già cỗi và chai sạn. Điều này cũng đúng trong các gia đình, giữa vợ chồng với nhau: hãy nhớ nói “cảm ơn”. Đó là những lời đơn sơ nhất, nhưng cũng hiệu quả và quý giá nhất.

Cầu xin, bước đi, tạ ơn. Hôm nay chúng ta tạ ơn Chúa về các tân hiển thánh; các ngài đã bước đi trong đức tin và giờ đây đang chuyển cầu cho chúng ta. Ba vị là các nữ tu và tỏ cho chúng ta thấy rằng đời tu là một hành trình yêu thương trong những ngoại biên của cuộc sống của thế giới. Còn thánh Maguerite Bays, một thợ may, cho chúng ta thấy lời cầu nguyện đơn giản, sự chịu đựng kiên nhẫn, sự trao ban âm thầm thì có sức mạnh dường nào: qua những điều này, Chúa đã chiếu tỏ sự huy hoàng Phục sinh nơi chị thánh. Đó là sự thánh thiện hàng ngày mà thánh Hồng y Newman đã nói: “Người Kitô hữu có một bình an sâu xa, thầm lặng, ẩn kín, mà thế gian không thấy được... Người Kitô hữu vui tươi, nhẹ nhàng, nhân hậu, dịu dàng, lịch thiệp, chân thành, không giả tạo, khiêm tốn... đến mức, với cung cách giản dị và khiêm nhường, người ta có thể dễ dàng lầm tưởng họ là một người bình thường” (Bài giảng Parochial and Plain Sermons, tập V, số 5).

Chúng ta hãy cầu xin để cũng được như thế — trở nên “ánh sáng hiền lành” giữa đêm tối bao quanh.

“Lạy Chúa Giêsu, xin ở lại với con, và rồi con sẽ bắt đầu tỏa sáng như Chúa đang chiếu sáng: để tỏa sáng hầu trở nên ánh sáng cho người khác” (Suy niệm về Giáo lý Kitô giáo, VII, 3). Amen.

----------

Cuối Thánh lễ, Đức Thánh Cha chào tất cả mọi người hiện diện, đặc biệt những người thuộc các gia đình thiêng liêng của các tân hiển thánh. Đặc biệt ngài chào các đại diện của Liên hiệp Anh giáo và cám ơn sự hiện diện của họ.

Nguồn: vaticannews.va/vi