DẪN NHẬP
Sứ mạng làm cho mọi người nhận biết Thiên Chúa vẫn luôn thúc bách Hội Thánh kể từ sau lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21); “anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19); “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15); “phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”, “chính anh em là chứng nhân” (Lc 24,47-48). Sứ mạng ấy đang hiển hiện trong mỗi kitô hữu. Vì khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, người kitô hữu mang trong mình sứ vụ ngôn sứ nhằm loan báo Tin Mừng. Đây là một sứ mệnh phổ quát của Hội Thánh hoàn vũ, của Hội Thánh địa phương và từng người kitô hữu.
Sứ vụ truyền giáo càng cấp thiết hơn khi thế gian này không ngừng thay đổi bằng nhiều hình thái xã hội. Lãnh thổ giáo xứ không chỉ là một không gian địa lý, mà còn là “lãnh thổ hiện sinh” (x. các số 8-9.16). Để thích ứng với môi trường mới, Giáo Hội không ngừng đọc biết các dấu chỉ thời đại để canh tân đường lối truyền giáo của mình. Bởi thế, giáo xứ là một Hội Thánh địa phương cũng phải mang trong thân mình sự canh tân phù hợp với hoàn cảnh xã hội hầu làm cho Tin Mừng được thấm đẫm và triển nở trong đời sống đạo, nhờ đó làm chứng một cách sống động cho Tin Mừng.
Ngày 20/7/2020, Bộ Giáo sĩ đã ban hành Huấn thị về việc “hoán cải mục vụ của cộng đồng giáo xứ để phục vụ cho sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh”. Huấn thị này đã được Đức Thánh Cha Phanxicô phê chuẩn vào ngày 27/6 và được Bộ Giáo sĩ ký ngày 29/6. Điểm nổi bật của Huấn thị này là sự cấp thiết canh tân truyền giáo. Chính vì vậy, nơi chương IV, huấn thị lấy tiêu đề : Truyền giáo: kim chỉ nam để canh tân”. Cuộc canh tân mục vụ này có một đường hướng rõ rệt; đó là sứ mạng loan báo Tin Mừng. Qua các số 16 - 26, chúng ta xác định mục đích của hoán cải mục vụ giáo xứ; khám phá hương vị Tin Mừng mà chúng ta rao giảng; thúc đẩy lòng nhiệt thành truyền giáo và sống tinh thần năng động loan báo Tin Mừng.
I. MỤC ĐÍCH HOÁN CẢI MỤC VỤ GIÁO XỨ : LOAN BÁO TIN MỪNG
Hội Thánh qua dòng lịch sử đã có nhiều cuộc canh tân hay hoán cải về giáo thuyết, luân lý, mục vụ, phụng vụ, … để định hướng cho mình một đời sống làm lan tỏa Tin Mừng cứu độ. Mới đây, Đức Thánh Cha Phanxicô với Tông huấn Niềm Vui Của Tin Mừng (24/11/2013) mời gọi thực hiện cuộc hoán cải trên bình diện mục vụ nhằm làm cho mọi sinh hoạt của Hội Thánh hướng đến công cuộc truyền giáo. Ngài mời gọi: “Tôi hi vọng tất cả các cộng đoàn sẽ dành những cố gắng cần thiết để tiến tới theo con đường của một sự hoán cải mục vụ và truyền giáo, không thể để tình hình tiếp tục như hiện tại. Việc “quản trị thuần tuý” đã trở nên bất cập. Trên khắp thế giới, chúng ta phải “thường xuyên trong trạng thái truyền giáo” (EG 25). Huấn thị Cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ đã nhắc lại chính tư tưởng này của Đức Phanxicô: Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, đang hiện diện ở giữa nhân loại và chúng ta làm cho nhân loại nhận biết Người.[1] Huấn thị nêu lên mục đích canh tân mục vụ hướng đến truyền giáo theo những ý sau.
1. Loan báo Tin Mừng không mang tính phụ tùy
Huấn thị nhắc lại cho giáo xứ rằng sứ mạng truyền giáo là sứ mạng phổ quát. Giáo xứ nằm trong chính cộng đoàn Hội Thánh phổ quát nên cũng mang lấy bản tính truyền giáo (số 4).[2] Chúng ta đọc thấy những lời tái khẳng định bản tính ấy ngay trong huấn thị này: “cộng đoàn giáo xứ còn là bối cảnh nhân loại, trong đó ta thực hiện công cuộc Loan báo Tin Mừng của Hội Thánh, nơi cử hành các Bí Tích và sống tình bác ái, với một lòng nhiệt thành truyền giáo; và đây là điều không những là một phần nội tại của hành động mục vụ mà còn là tiêu chuẩn đánh giá tính xác thực của Hội Thánh Chúa Kitô” (số 19). Các hành động mục vụ từ loan báo Lời Chúa, cử hành các bí tích cho đến các việc bác ái từ thiện đều nhằm làm toát lên Thiên Chúa hiện diện một cách sống động trong cộng đoàn nhân loại với mọi thành phần của nó. Chính vì vậy, các hoạt động mục vụ giáo xứ không chỉ nhằm làm củng cố đời sống đức tin của cộng đoàn, mà còn phải làm ngọn đèn đức tin của cộng đoàn soi chiếu đến mọi người chung quanh.
Nói loan báo Tin Mừng không mang tính phụ tùy là nhắm đến căn cốt của người kitô hữu. Sứ mạng truyền giáo không chờ đợi khi người kitô hữu sống đức tin vững mạnh, mọi sinh hoạt tôn giáo ổn định và có điều kiện thuật lợi thì mới thực hiện. Khi người tín hữu luôn sống trạng thái truyền giáo, đời sống đức tin của họ càng được củng cố. Bởi vì, khi họ ở trong tình trạng như vậy, họ luôn ý thức việc lắng nghe lời Chúa, tham dự thánh lễ, cử hành các bí tích, và thực hành bác ái trong mối tương quan với Thiên Chúa sống động (số 19).
Tiếp đến, sứ mạng loan báo Tin Mừng là căn cốt của đời sống giáo xứ sẽ làm cho việc xây dựng cơ cấu của Hội Thánh địa phương không chỉ gói gọn trong việc cử hành phụng vụ, cử hành bí tích, mà chính sứ mạng ấy còn làm cho người tín hữu cảm nghiệm đời sống đức tin. Huấn thị viết: “Ngày càng thấy rõ hơn rằng tư cách thành viên của Hội Thánh ngày nay không hệ tại ở nơi ta sinh ra và lớn lên, cho bằng là việc ta tham dự vào một cộng đoàn do được thừa nhận, nơi đó người tín hữu có một kinh nghiệm rộng mở hơn về Dân Thiên Chúa, cảm nhận thực sự mình thuộc về một thân thể gồm nhiều bộ phận kết hợp với nhau, mỗi người làm việc vì thiện ích chung (1Cr 12,12-27)” (số 18).
Như thế, khi ý thức về sứ mạng phổ quát của Hội Thánh và cũng là chính sứ mạng của cộng đoàn giáo xứ, định hướng truyền giáo trong công cuộc hoán cải mục vụ là kim chỉ nam xuyên suốt quá trình này.
2. Thoát ra khỏi tình trạng bảo tồn Hội Thánh
Trong thời Hội Thánh sơ khai, ý thức truyền giáo rất mạnh mẽ, hoạt động truyền giáo đầy hiệu quả, và số tín hữu gia tăng nhiều cho dẫu ở trong thời kỳ bách hại. Lúc đó, Hội Thánh cũng quan tâm đến cơ cấu phẩm trật, tuy nhiên đó không phải là mối quan tâm hàng đầu. Nhưng, từ thế kỷ IV trở đi, khi Kitô giáo được công nhận là một tôn giáo hợp pháp, Hội Thánh dồn nỗ lực xây dựng cơ cấu phẩm trật, tổ chức quản trị, xây dựng giáo thuyết, giáo luật. Từ đó người ta hình dung về một Hội Thánh với những quan niệm: nặng về luật lệ khi cử hành phụng vụ, nhấn mạnh đến công thức tuyên xứng đức tin hơn là tương quan cá nhân với Thiên Chúa, cử hành bí tích đúng nghi thức hơn là nhắm đến đời sống mới do ân sủng bí tích mang lại, Hội Thánh quyền bính hơn là Dân Thiên Chúa, và công cuộc truyền giáo là kêu gọi người ngoại giáo trở về với Hội Thánh chứ không phải Hội Thánh đến với họ để loan báo Tin Mừng cứu độ.[3] Đức tổng Giuse Nguyễn Năng nêu lên hậu quả của quan niệm Hội Thánh nặng về cơ chế là một mục vụ mang tính bảo tồn: “bảo vệ các tín điều, duy trì kỷ luật ổn định trật tự, củng cố quyền bính theo não trạng giáo sĩ trị, thiết lập những cơ chế để cai trị hoặc phô trương, đầu tư công sức vào các sinh hoạt như xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức nghi lễ long trọng. Hội Thánh khi đó được xem như một tổ chức theo mô hình của một xã hội trần thế, một công ty đa quốc gia được điều hành bởi các chuyên viên quản trị hành chánh.”[4]
Chúng ta cũng nhận thấy điều ấy vẫn còn tồn tại trong nhiều giáo xứ trong giáo phận chúng ta hiện nay. Khi trong tiến trình thành lập giáo xứ hoặc trong giai đoạn giáo xứ còn non trẻ, đời sống đạo giáo xứ rất sinh động và nhiệt thành đạo đức. Cộng đoàn giáo xứ nỗ lực hiện diện đông đảo trong các thánh lễ, các cử hành phụng vụ, các việc đạo đức bác ái. Thế nhưng, khi đời sống giáo xứ đi vào nề nếp, cơ sở vật chất khang trang đẹp đẽ, chúng ta lại chứng kiến có nhiều người xa nhà thờ, không còn thiệt thành trong các cử hành phụng vụ. Có nhiều lý do đưa đến trình trạng này, chắc chắn cũng có lý do nặng về tổ chức cơ cấu, nhiều kitô hữu không còn cảm thấy đức tin sống động và niềm vui ở trong giáo xứ. Cho nên, khi sống trong một giáo xứ mà người tín hữu không cảm nhận được sức sống đức tin, niềm vui và bác ái Tin Mừng, cộng đoàn giáo xứ ấy cũng lu mờ sứ mạng truyền giáo.
Huấn thị nói rõ rằng: “bất cứ hoạt động mục vụ nào mà chỉ giới hạn trong lãnh thổ của giáo xứ đều trở nên lỗi thời, đó là điều mà chính người giáo dân nhận thấy khi giáo xứ của họ có vẻ bảo thủ chỉ biết hoài cổ thay vì bạo dạn hướng về tương lai. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, về phương diện giáo luật, nguyên tắc tòng thổ vẫn có hiệu lực, khi được quy định bởi pháp luật” (số 16). Huấn thị cũng nói thêm: “những hoạt động theo thói quen đều đặn không có tác động gì đến đời sống con người cụ thể sẽ chỉ là một cố gắng sống còn cằn cỗi, thường chỉ được mọi người thờ ơ đón nhận. Nếu giáo xứ không sống tinh thần năng động loan báo Tin Mừng, thì có nguy cơ giáo xứ tự quy chiếu vào chính mình và xơ cứng, cho những kinh nghiệm thiếu hương vị Tin Mừng và thiếu lòng nhiệt thành truyền giáo, chỉ biết đến những nhóm nhỏ mà thôi” (số 17).
Với hai số này, hoán cải mục vụ hướng đến việc giáo xứ mở cánh cửa đón nhận các hoàn cảnh mới vượt qua giới hạn địa lý để vươn tới lãnh thổ hiện sinh. Các hoạt động mục vụ giáo xứ nhằm làm cho cộng đoàn giáo xứ được mời gọi trở nên dấu chỉ sống động của sự gần gũi của Chúa Kitô qua các mối dây liên kết huynh đệ, hằng quan tâm đến những hình thức nghèo khổ mới (số 19).
3. Một cách tiếp cận mới với những sáng kiến mục vụ đa dạng
Trong cộng đoàn giáo xứ, luôn chất chứa nhiều thành phần: người lớn, trẻ em; ông bà cha mẹ, con cái cháu chắt; nam, nữ. Họ là những thành phần của Hội Thánh: linh mục, tu sĩ, giáo dân. Họ có những địa vị khác nhau trong xã hội, có trình độ văn hóa khác nhau. Chính vì thế, với sự đa dạng này nhiều giáo xứ có những hình thức sinh hoạt theo đoàn thể (gia trưởng, hiền mẫu, giới trẻ, …), theo lòng đạo đức (Legio Mariae, Lòng Chúa Thương Xót, Hội Mân Côi, Thiếu Nhi Thánh Thể,…), theo sự phục vụ (hội đồng mục vụ, giáo lý viên, ca đoàn, lễ sinh, ban trật tự, ban mai táng,…). Vì vậy, huấn thị viết: “ngày càng thấy rõ hơn rằng tư cách thành viên của Hội Thánh ngày nay không hệ tại ở nơi ta sinh ra và lớn lên, cho bằng là việc ta tham dự vào một cộng đoàn do được thừa nhận, nơi đó người tín hữu có một kinh nghiệm rộng mở hơn về Dân Thiên Chúa, cảm nhận thực sự mình thuộc về một thân thể gồm nhiều bộ phận kết hợp với nhau, mỗi người làm việc vì thiện ích chung (1Cr 12,12-27)” (số 18).
Với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, huấn thị cho thấy rõ ngày nay người ta ít gắn bó hơn trong một khung cảnh địa lý rõ ràng và cố định, mà lại sống trong “một ngôi làng toàn cầu và đa nguyên”. Bộ Truyền Thông đưa ra nhận định: “mạng xã hội là một môi trường trong đó người ta tương tác, chia sẻ kinh nghiệm và vun đắp các mối quan hệ chưa từng có trước đây. Tuy nhiên, trong khi truyền thông ngày càng bị ảnh hưởng bởi trí tuệ nhân tạo, thì chính ở đó nảy sinh nhu cầu khám phá lại sự gặp gỡ giữa người với người tại cốt lõi của nó.”[5] Đặc biệt nơi người trẻ, họ đang yêu cầu ta gặp họ tại nơi của họ, kể cả trên mạng xã hội, bởi vì thế giới kỹ thuật số là “một phần quan trọng trong căn tính và lối sống của người trẻ.”[6] Hội Thánh nhận thức sự hiện diện trên mạng xã hội của chúng ta thường tập trung vào việc lan tỏa thông tin. Cho nên, chúng ta hướng đến một mục vụ lan tỏa. Mục vụ này đòi hỏi việc trình bày ý tưởng, giáo huấn, tư tưởng, suy gẫm thiêng liêng, v.v… trên phương tiện truyền thông xã hội cần phải trung thành với truyền thống Kitô giáo. Vì thế, cung cách của người tín hữu và giáo xứ khi hiện diện trên mạng xã hội là một chứng nhân. Thật vậy, các Kitô hữu chúng ta nên thể hiện sự sẵn sàng lắng nghe và phân định trước khi hành động, đối xử với mọi người trong lòng tôn trọng, trả lời bằng một câu hỏi hơn là phán xét, giữ im lặng hơn là chọc khuấy tranh cãi, và “mau nghe, chậm nói, chậm giận” (Gc 1,19). Nói cách khác, tất cả những gì chúng ta làm, trong lời nói và hành động, đều phải mang dấu ấn của chứng nhân. Chúng ta không có mặt trên mạng xã hội để “bán sản phẩm”.
Chúng ta không quảng cáo, nhưng chuyển thông sự sống, là sự sống đã được ban cho chúng ta trong Chúa Kitô. Vì vậy, mọi Kitô hữu phải cẩn thận để không chiêu dụ, nhưng là làm chứng.[7] Kèm theo đó, phận vụ của chúng ta là phải khơi lên một câu hỏi để kích hoạt cuộc tìm kiếm.
II. KHÁM PHÁ HƯƠNG VỊ TIN MỪNG
Huấn thị cho rằng đời sống giáo xứ sẽ xơ cứng và tẻ nhạt nếu chỉ lập đi lập lại các hoạt động theo thói quen đều đặn, các buổi cử hành phụng vụ mang tính tổ chức có qui mô và hình thức “hoàng tráng”. Qua các hoạt động ấy, người tham dự không cảm nhận được sức sống của Lời Chúa, tính hiện sinh của thánh lễ, ân sủng của đời sống mới nơi bí tích, đức tin chân thật nơi các việc đạo đức bình dân và tình thương vô bờ bến của Thiên Chúa qua các việc bác ái. Vì vậy, cộng đoàn giáo xứ được mời gọi tái khám phá và cảm nghiệm hương vị Tin Mừng từ chính trong tất cả hoạt động của giáo xứ.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “hương vị” có nghĩa là nét đặc trưng của sự vật mang lại cho con người một cảm giác dễ chịu. Hiểu theo nghĩa tương tự, “hương vị Tin Mừng” là nhưng nét đặc trưng của Tin Mừng làm cho người nghe cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc, sức sống và những điều mang lại cảm nhận sự gần gũi của Thiên Chúa với con người. Như thế, hương vị Tin Mừng hay nét đặc trưng của Tin Mừng nằm nơi chính Đức Giêsu Kitô. Cả cuộc đời, việc rao giảng, cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Đức Kitô chứa đựng những phẩm chất của Thiên Chúa làm nên những hương vị phong phú cho đời sống người kitô hữu. Để trở nên người loan báo Tin Mừng, người tín hữu phải có những kinh nghiệm đầy ắp hương vị ấy.
1. Kinh Thánh
Huấn thị nêu rõ rằng: “chúng ta nhận thấy vai trò chính yếu của tác nhân Lời Thiên Chúa, là quyền năng biến đổi bên trong làm hoán cải các tâm hồn. Lời Chúa là lương thực dưỡng nuôi các môn đệ của Người và làm cho họ trở nên chứng nhân Tin Mừng trong những hoàn cảnh khác nhau của đời sống. Thánh Kinh hàm chứa một sức mạnh mang tính tiên tri khiến cho Lời Chúa luôn đầy sức sống” (số 21).
Thật vậy, Lời Thiên Chúa được vang lên một cách chính thức trong các cuộc cử hành phụng vụ. Trong mỗi thánh lễ, chúng ta có tối thiểu hai bài đọc Lời Chúa: bài đọc được trích từ các sách Cựu Ước hay Tân Ước, và một bài Tin Mừng được trích từ một trong bốn Tin Mừng. Chúa Nhật và lễ trọng có thêm một bài đọc trích từ các thư của các thánh tông đồ. Qua các bài đọc, chúng ta lắng nghe chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua Dân Thánh, lòng từ bi nhân hậu khi Chúa đối xử với dân Người, những chỉ dẫn đi đến nguồn hạnh phúc đích thực qua hình ảnh tiến về Đất Hứa, lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa khi dân sa ngã bất trung, sự che chở phù trì khi dân lâm cảnh gian nan khốn khố và đối diện với kẻ thù. Nơi bài Tin Mừng, qua từng lời giảng dạy, hành động chữa lành, tha thứ, săn sóc và phục sinh kẻ chết của Chúa Giêsu càng nêu bật hình ảnh Thiên Chúa gần gũi, yêu thương, cảm thông và chia sẻ thân phận con người. Qua đó, hương vị Tin Mừng cho người nghe chính là sự bình an, tha thứ, yêu thương và sự sống đời đời.
Lời Chúa được đọc lên với tâm hồn đạo đức trong các cuộc chia sẻ Lời Chúa. Nơi đó, người đọc cảm nhận được sự chỉ dẫn của Chúa cho những hoạt động của đời sống thường ngày. Thiên Chúa sống động đang cùng hoạt động với con người. Thiên Chúa làm việc liên lỉ được thể hiện qua một ngày làm việc của Chúa Giêsu. Và trong khi làm việc như vậy, con người không ngừng cảm nghiệm được sự soi sáng, cách thức thực hiện và kết quả luôn hướng đến thiện ích. Hương vị Tin Mừng chính là niềm vui trong mối tương quan với Thiên Chúa. Ngoài ra, Lời Chúa được đọc lên trong những hoàn cảnh khó khăn, thất vọng và mất phương hướng, người đọc tìm được nguồn an ủi, nguồn ánh sáng và nguồn động lực để đứng lên đối diện với những khó khăn thử thách ấy. Hương vị Tin Mừng chính là niềm hy vọng.
Vì vậy, “giáo xứ cần phải hướng dẫn các tín hữu biết đọc và suy gẫm Lời Chúa qua nhiều phương thức khác nhau để rao truyền, truyền đạt rõ ràng và dễ hiểu để loan báo Chúa Giêsu bằng lời chứng luôn luôn mới mẻ của lời loan báo tiên khởi (kerygma)” (số 21).
2. Thánh Lễ
Thánh lễ với chóp đỉnh là mầu nhiệm Thánh Thể luôn mang lại cho người tín hữu những hương vị Tin Mừng như sự hiện diện sống động của Chúa Giêsu, sự hiệp thông, sự hiến tế và sự phục sinh. Khi cử hành thánh lễ, chúng ta hiện tại hóa mầu nhiệm cứu độ của Chúa Giêsu qua cuộc hiến tế, cái chết và sự phục sinh của Người. Trong thánh lễ, Chúa Giêsu hiện diện bằng Lời và chính thân thể Người là Mình và Máu. Chính vì thế, việc lắng nghe Lời Chúa trong thánh lễ đòi hỏi người tín hữu ở trong tư thế lắng nghe chính Chúa Giêsu nói. Chính Chúa Giêsu nuôi dưỡng dân Người bằng chính Mình và Máu Người. Bởi vậy, việc rước lễ là sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa Giêsu cả nhân tính và thần tính của Người. Thánh lễ cũng diễn tả sự hiệp thông của toàn thể cộng đoàn đang quy tụ bên Chúa Giêsu. Đức Thánh Cha Phanxicô tái khẳng định trong Desiderio Desiderarvi: “khát vọng vô hạn của Người muốn tái lập mối hiệp thông với chúng ta, đã và vẫn là dự định từ đầu của Người, sẽ không được thoả mãn cho đến khi mọi người, thuộc mọi chi họ, ngôn ngữ, dân tộc và quốc gia (Kh 5,9) được ăn Thịt và uống Máu của Người: đó là lý do tại sao chính bữa tiệc này phải được hiện tại hóa trong việc cử hành Thánh Thể, cho đến khi Người trở lại.”[8] Và chính trong huấn thị này, sự hiệp thông trong thánh lễ làm nên sự hiệp nhất như danh xưng của Hội Thánh: “Hội Thánh ý thức ý nghĩa danh xưng của mình (Ecclesia), nghĩa là Dân Thiên Chúa được kêu gọi cùng quy tụ lại để ca tụng, khẩn cầu, xin ơn và tạ ơn” (số 22).
Trong thánh lễ, người tín hữu cũng được mời gọi hiệp dâng hy tế lên Thiên Chúa bằng việc kết hiệp của lễ đời mình với hy tế cứu chuộc của Chúa Giêsu. Bằng cuộc thương khó và vượt qua, Chúa Giêsu hiến tế thành của lễ dâng lên Chúa Cha như thế nào, người tín hữu cũng dùng chính những thành quả qua công khó của mình để dâng lên Chúa Cha như vậy. Hương vị hy tế luôn sống động trong đời sống người tín hữu qua lao động, những việc làm, các mối tương quan.
Đặc biệt, hương vị phục sinh và sự sống đời đời thắp lên niềm hy vọng cho cộng đoàn và người kitô hữu khi hiệp lễ, bởi chính Lời Chúa và Thánh Thể là lương thực nuôi dưỡng dẫn đưa nhân loại đến sự sống đời đời.
3. Các bí tích
Hội Thánh mời gọi tái khám phá nghi thức khai tâm Kitô giáo. Với nghi thức này, chúng ta thấy rằng, qua bí tích Rửa Tội, con người được tháp nhập vào công dân Nước Trời, trở nên con cái Chúa, một đời sống ân sủng trong Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần. Qua bí tích Thêm Sức, con người tái khẳng định đức tin của mình và được sai đi làm chứng cho Nước Thiên Chúa. Qua bí tích Thánh Thể, người tín hữu được dưỡng nuôi trên hành trình tiến về quê Trời. Huấn thị nhấn mạnh rằng: “cần phải tái khám phá nghi thức khai tâm Kitô giáo, khai sinh ta trong đời sống mới, nghĩa là được tham dự vào mầu nhiệm sự sống của chính Thiên Chúa. Đó là một hành trình tiếp diễn thường xuyên, không chỉ gắn kết với các cử hành hay biến cố, bởi vì hành trình này được xác định trước hết, không phải như là nghĩa vụ phải chu toàn một ‘nghi thức vượt qua’, nhưng đúng hơn, đây là việc không ngừng bước theo Chúa Kitô.” (số 23).
Như thế, hương vị nhận được nơi các bí tích khai tâm Kitô giáo là sự sống trong Thiên Chúa và sứ mạng chứng nhân. Cho nên, huấn thị nhắc rằng thật là hữu ích khi thiết lập một hành trình nhiệm huấn tác động thực sự đến đời sống vì đây là một hành trình thường xuyên bước theo Đức Kitô. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã nhập thể làm người, lớn lên như con người, sống và làm việc như con người. Tất cả chiều kích con người của Chúa Giêsu được thể hiện trong mối tương quan sự sống của Chúa Cha. Đó chính là hình mẫu của hương vị sự sống trong Thiên Chúa mà mỗi lần nhận lãnh và tham dự các bí tích người tín hữu cảm nhận.
Qua các bí tích chữa lành (Giải Tội và Xức Dầu), người tín hữu cảm nhận hương vị Thiên Chúa đầy lòng thương xót hay tha thứ và chữa lành mọi thương tích trong tâm hồn và nếu đẹp lòng Chúa thì tăng sức lực phần xác. Cho nên, người tín hữu cần hiểu và thực hành hai bí tích này một cách hiệu quả nhất.
Qua bí tích phục vụ và xây dựng cộng đoàn (Truyền Chức và Hôn Phối), người lãnh nhận cảm nhận hương vị được thông phần sứ mạng xây dựng sự hiệp nhất và phục vụ như chính Chúa Giêsu đã mời gọi.
4. Các việc đạo đức bình dân
Đức Phaolô VI nói về các hình thức đạo đức bình dân như thế này: “những cách diễn tả đặc biệt về sự tìm kiếm Thiên Chúa và về đức tin”, “Nó bao hàm một cảm thức sâu xa về những phẩm tính siêu việt của Thiên Chúa : Tình phụ tử, sự quan phòng, sự hiện diện yêu thương và bền vững của Người. Nó phát sinh những thái độ nội tâm khó thấy ở nơi khác cùng một mức độ : Sự kiên nhẫn, ý thức về thánh giá trong cuộc sống thường nhật, sự từ bỏ, sự hướng mở đến người khác, lòng sùng đạo.”[9] Thật vậy, những hình thức sống đạo bình dân như lần hạt Mân Côi, đi Đàng Thánh Giá, rước kiệu tôn vinh Chúa Giêsu, Mẹ Maria và các thánh, … toát lên hương vị lòng tin đơn sơ chân thành vào sự hiện diện của Chúa và các công trình nơi các thụ tạo của Người.
5. Các việc bác ái
Theo huấn thị, một trong những lãnh vực thiết yếu mà giáo xứ phát triển và thích nghi trong công cuộc hoán cải mục vụ theo định hướng truyền giáo là việc làm chứng bác ái. Việc bác ái ấy gắn liền với hành động yêu thương của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cảm thương dân chúng bơ vơ không người hướng dẫn, cảm thương những con người tội lỗi nên chữa lành cho họ, cảm thương những người bị loại ra khỏi cộng đoàn bằng cách chữa lành đưa họ trở lại với cộng đoàn, cảm thương những con người tuyệt vọng trước sự chết và Người đã cho họ sống lại. Và rồi, Người cũng dạy chúng ta rằng việc bác ái mà chúng ta làm cho tha nhân cũng là làm cho chính Chúa: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Như thế, bác ái là hương vị Tin Mừng làm cho giáo xứ và người tín hữu cảm nhận được sự hiện diện của Chúa nơi anh chị em mình, tình thương của Thiên Chúa và con người. Khi nhìn nhận hoàn cảnh hiện nay: “có khi có nhiều người bị loại ra bên lề xã hội và cô đơn, cộng đoàn giáo xứ được mời gọi trở nên dấu chỉ sống động của sự gần gũi của Chúa Kitô qua các mối dây liên kết huynh đệ, hằng quan tâm đến những hình thức nghèo khổ mới”[10], Hội Thánh mời gọi cộng đoàn giáo xứ thực hiện cuộc loan báo Tin Mừng bằng việc sống tình bác ái.
III. LÒNG NHIỆT THÀNH TRUYỀN GIÁO
Từ việc tái khám phá hương vị Tin Mừng qua việc đọc Kinh Thánh, tham dự thánh lễ, tham dự và lãnh nhận các bí tích, đến thực hành các việc đạo đức bình dân cũng như các việc bác ái, cộng đoàn giáo xứ cảm nếm các hương vị phong phú do Thiên Chúa ban: tình thương, bình an, tha thứ, hy vọng, sự sống đời đời, niềm an ủi, … Qua những điều này, lòng nhiệt thành truyền giáo của giáo xứ được hun đúc mạnh mẽ hơn. Một khi giáo xứ cảm nhận tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, sự cảm thông và liên đới, cũng như các hương vị khác của Tin Mừng, giáo xứ sẽ mở lòng chia sẻ những hương vị đó đến cho mọi người xung quanh.
1. Nhiệt thành, nhiệt tình, nhiệt tâm
Về mặt từ ngữ, nhiệt thành là một tính từ nói lên tính sốt sắng, ví dụ: nhiệt thành tham gia công tác xã hội. Nhiệt tình là một danh từ diễn tả một tình cảm sốt sắng đối với người hay việc, ví dụ: sự giúp đỡ đầy nhiệt tình. Nhiệt tâm là một danh từ diễn tả lòng sốt sắng đối với công việc chung, sự nghiệp chung.[11] Tựu trung, các từ ngữ này diễn tả một sự yêu mến, lòng hăng say, sự sốt sắng và trách nhiệm khi thực hiện một việc gì. Xem ra, lòng nhiệt thành là một yếu tố chủ chốt để khởi sự và hoàn thành một công việc gì nếu muốn công việc đấy đạt được thành công và hiệu quả, hay nói đúng hơn có một kết quả mỹ mãn. Lòng nhiệt thành hay nhiệt tâm trở thành một đức tính căn bản để con người hướng tới một cuộc sống tròn đầy và hạnh phúc. Vì thế, thiếu đi sự nhiệt tình, con người dễ chễnh mảng bổn phận và thiếu đi niềm vui cuộc sống. Bởi thế, Hoa Kỳ có một câu châm ngôn: “sự thất bại nặng nề nhất của con người là đánh mất đi lòng nhiệt thành.”
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta cũng bắt gặp mối băn khoăn khi cộng đoàn giáo xứ cứ lập đi lập lại một cách thói quen các hoạt động của đời sống đức tin hoặc chỉ chú tâm vào khâu tổ chức cơ cấu, dẫn đến nguy cơ tự quy chiếu về mình và thiếu đi lòng nhiệt thành truyền giáo.[12] Thật vậy, khi những buổi cử hành phụng vụ, các thực hành đạo đức bình dân, các hoạt động bác ái diễn ra như một thói quen mà không chạm đến một cá nhân nào, thì đó là một cố gắng sống còn cằn cỗi và thường chỉ được mọi người thờ ơ đón nhận.
2. Mẫu gương nhiệt tâm nơi Chúa Kitô, các tông đồ và các thánh
Đọc các trang Tin Mừng, chúng ta cảm nhận sự nhiệt tâm của Đức Giêsu Kitô khi thi hành sứ mạng cứu thế của mình. Chúa Giêsu áp dụng câu thánh vịnh cho mình: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân” (Tv 69,10; Ga 2,17). Với sứ mạng cứu độ, Chúa Giêsu nhiệt thành thanh tẩy đền thờ Giêrusalem, nó cũng chính là biểu tượng đền thờ tâm hồn mỗi người. Chúa Giêsu muốn thanh tẩy tâm hồn những ai lắng nghe sứ điệp của Người để trở về với Thiên Chúa. Chính vì vậy, Người đã không ngừng nghỉ rao giảng, nhắc nhở, chữa lành và khuyến cáo. Nhiều lần người ta tìm cách bách hại, ngăn cản sứ vụ của Người, nhưng Chúa Giêsu vẫn kiên quyết thực hiện. Sau cuộc tiên báo về cuộc khổ nạn, Phêrô đã nói với Chúa Giêsu: ‘“Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!’ Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: ‘Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người’” (Mt 16,22-23). Các thủ lãnh và tư tế thấy dân chúng theo Chúa Giêsu ngày một đông vì những lời giảng dạy và những việc Người thực hiện nên tìm cách giết Người. Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn tìm cách khác để tiếp tục sứ mạng của mình.
Các thánh tông đồ ban đầu cũng theo Chúa Giêsu một cách nhiệt thành, tuy vậy, tâm tình đó chưa được thanh luyện cho đúng mức. Sau cuộc phục sinh của Chúa Giêsu, các tông đồ nhận lãnh Thánh Thần đã mở tung cửa đi khắp nơi loan báo về Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất. Các ngài chấp nhận mất mạng sống mình để làm chứng cho Tin Mừng Chúa Giêsu. Đặc biệt, với thánh Phaolô, “rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cr 9,16). Bởi đâu có sự sốt sắng hay say đến như vậy nơi thánh Phaolô, chính là vì: “đối với tôi, sống là Đức Ki-tô”. Cho nên thánh Phaolô càng xác quyết hơn: “Đức Ki-tô được rao giảng là tôi mừng” (Pl 1, 18-21).
Nơi các vị thánh, nhất là các vị thánh truyền giáo, chúng ta bắt gặp một lòng nhiệt thành loan báo Tin Mừng không ngừng nghỉ. Thánh Phanxicô Xaviê nói rằng: “Có nhiều người không được làm Kitô hữu chỉ vì không có ai làm cho họ trở thành Kitô hữu. Nhiều lần tôi đã có ý định đi tới các đại học ở châu Âu, trước hết là đại học Paris, mà kêu gào: Chỉ vì lỗi các ông mà biết bao linh hồn thay vì lên thiên đàng lại phải xuống hỏa ngục…” (trích Bài đọc 2 giờ Kinh Sách lễ Thánh Phanxicô Xaviê). Thánh Phanxicô de Sale nói rằng: “Làm theo Thánh ý Chúa thôi thì chưa đủ, mà còn phải làm một cách vui vẻ và nhiệt tình.” Chỉ hai năm sau ngày được tuyên thánh, Đức Piô XI đã đặt thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu làm bổn mạng các xứ truyền giáo (1927). Têrêsa Lisieux chưa một lần bước ra khỏi nội vi đan viện để đến những miền truyền giáo. Thế nhưng, chị được tuyên dương như một nhà truyền giáo thực thụ vì tâm hồn truyền giáo của chị được biểu lộ qua thao thức “vì phần rỗi các linh hồn”. Chị không ngần ngại nhận trách nhiệm làm “mẹ các linh hồn”.[13] Chị chỉ dùng lời cầu nguyện và sự hy sinh của mình để diễn tả niềm cậy trông chị đặt nơi Thiên Chúa toàn năng sẽ cứu các linh hồn đang còn chưa nhận biết Chúa.
3. Hun đúc lửa nhiệt tình truyền giáo nơi cộng đoàn giáo xứ
Như trong chương IV, huấn thị nhắm đến truyền giáo như là kim chỉ nam cho cuộc canh tân mục vụ giáo xứ. Trong đó, Hội Thánh nêu lên ba khía cạnh để hun đúc lòng nhiệt thành truyền giáo: “trọng tâm của việc hoán cải mục vụ hằng mong đợi, vốn cần phải đạt tới những việc như loan báo Lời Chúa, đời sống bí tích và việc làm chứng bác ái, nói khác đi, là những lãnh vực thiết yếu mà giáo xứ phát triển và thích nghi để phù hợp với Mầu nhiệm mà mình tin” (số 20). Ba khía cạnh này được triển khai trong bốn số (21-24) để hướng dẫn cộng đoàn con đường hoán cải thật hiệu quả. Ở đây, chủ đích là nhắm đến hun đúc lòng nhiệt thành truyền giáo dựa trên đời sống kết hợp với Thiên Chúa qua Lời Người và các bí tích, củng cố mối tương quan với Chúa và tha nhân bằng đời sống đức tin và thực thi đức bác ái.
- Chúa Giêsu hằng ngày đều dành thời gian vào nơi thanh vắng để gặp gỡ Chúa Cha. Việc gặp gỡ Thiên Chúa là điều cần thiết vì qua việc này Chúa Giêsu thực hiện thánh ý Chúa Cha một cách thành toàn. Việc đó quan trọng đến nỗi Chúa Giêsu nói rằng: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Chúa Giêsu xem việc gặp gỡ Thiên Chúa như lương thực cho đời sống. Vì thế, cộng đoàn giáo xứ cần phải hướng dẫn người tín hữu biết đọc và suy gẫm Lời Chúa qua nhiều phương thức khác nhau.[14] Điều quan trọng chính là thái độ và tâm tình lắng nghe cũng như đọc Lời Chúa như thế nào để Lời Chúa trở nên lương thực nuôi dưỡng các môn đệ của Chúa Giêsu hiện nay, trở nên nguồn sáng chiếu soi vào tận đáy lòng người tín hữu. Sau khi đọc và lắng nghe trong thái độ khiêm tốn đón nhận, người tín hữu cảm nhận Lời Chúa vẫn luôn sống động, hợp thời, đụng chạm đến từng hoàn cảnh, có sức biến đổi tâm hồn. Từ kinh nghiệm đụng chạm đến Ngôi Lời nhập thể, người tín hữu thêm yêu mến Thiên Chúa và chia sẻ Lời Hằng Sống ấy cho người khác. Lời Chúa vang lên trong thánh lễ, trong các cử hành phụng vụ, các cử hành bí tích, trong các thực hành các việc đạo đức bình dân trở nên điểm quy chiếu đức tin, lời hy vọng, lời an ủi khích lệ, lời tha thứ và lời cứu độ. Như thế, nhờ vào việc cưu mang Lời Chúa bằng cách suy niệm trong lòng như Mẹ Maria mỗi ngày, người tín hữu hăm hở loan báo Lời ấy đến với tha nhân.
- Đời sống bí tích, như huấn thị nhắc tới trong số 23, làm cho người tín hữu tham dự vào mầu nhiệm sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Đời sống bí tích là một đời sống không ngừng bước theo Đức Kitô. Bởi thế, các bí tích khi được cử hành không chỉ dành riêng cho kẻ lãnh nhận mà còn nhắc nhở những gì mình đã lãnh nhận qua bí tích ấy. Thật vậy, những bí tích chỉ lãnh nhận được một lần và vĩnh viễn như Rửa Tội, Thêm Sức vẫn luôn có sức thúc đẩy chúng ta thanh tẩy mỗi ngày để trở nên con cái Chúa xứng đáng hơn, thúc đẩy chúng ta thi hành sứ mạng vì được Chúa Thánh Thần gợi hứng. Chính vì thế, khi tham dự các cuộc cử hành bí tích, tuy chúng ta không phải là người lãnh nhận, chúng ta cũng phải nhớ lại lúc mình lãnh nhận, nhớ lại lời tuyên xưng và cam kết dấn thân làm cho nước Chúa được trị đến. Qua các bí tích chữa lành (giải tội và xức dầu), người tín hữu luôn tin tưởng Thiên Chúa đầy lòng nhân hậu sẵn sàng tha thứ, nâng đỡ mình. Đặc biệt, nơi bí tích Thánh Thể, người tín hữu cảm nghiệm một cách sống động Chúa Giêsu nhập thể giảng dạy, qua cuộc khổ nạn, qua hy tế chính mình dâng lên Chúa Cha, qua cái chết và sự phục sinh. Con người hiện sinh của Đức Giêsu Kitô trở nên gần gũi với nhân loại. Để từ đó, người kitô hữu kết hiệp một cách trọn vẹn cả thần tính và nhân tính của Đức Giêsu Kitô. Càng kết hiệp như thế, người tín hữu càng nhiệt tâm hướng mọi người đến hiệp thông với nhau trong Thánh Thể. Chính vì thế, để cộng đoàn Kitô hữu đón mừng sự hiện diện sống động của Đức Chúa Đấng Chịu Đóng Đinh và Phục Sinh, đón nhận lời loan báo toàn thể mầu nhiệm Cứu độ, người tín hữu không chỉ dừng lại việc cử hành bí tích mà khám phá đời sống mới trong ân sủng do bí tích mang lại, làm cho tầm vóc Đức Kitô lớn lên trong tâm hồn, để rồi chia sẻ sức sống ấy cho tha nhân.
- Việc làm chứng bác ái chính là hệ quả của một đời sống kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Vì vậy, huấn thị mô tả trong sự tương tác mầu nhiệm giữa hành động của Thiên Chúa và con người, việc Loan báo Tin Mừng của các tín hữu hệ tại ở những gì họ tuyên xưng bằng chứng tá đời sống.[15] Thật vậy, như nhận định của huấn thị: “Thời đại ngày nay vốn được ghi dấu bởi sự thờ ơ, cá nhân chủ nghĩa và không chấp nhận người khác, nên việc tái khám phá tình huynh đệ là rất quan trọng và cần thiết vì sứ vụ Loan báo Tin Mừng” (số 24). Khi người tín hữu sống trong mối tương quan với Thiên Chúa và tha nhân một cách sống động nhờ việc siêng năng gặp gỡ cá vị với Thiên Chúa và hiệp thông với nhau khi cử hành phụng vụ. Người tín hữu có chất liệu để đối diện với sự thờ ơ trong các mối tương của con người hôm nay. Việc tái khám phá tình huynh đệ Tin Mừng, người tín hữu đánh tan cá nhân chủ nghĩa. Với tình huynh đệ, con người ở trong mối tương quan liên vị tròn đầy như Thiên Chúa Ba Ngôi. Cho nên, việc làm chứng bác ái bằng hành động, lời an ủi, sự cảm thông, chia sẻ thân phận con người luôn là chứng từ sống động cho tình yêu Thiên Chúa.
Tắt một lời, hun đúc lòng nhiệt thành truyền giáo bằng chính việc lắng nghe, suy gẫm và đem ra thực hành Lời Chúa; bằng việc tham dự các bí tích và phụng vụ trong sự sinh động của đời sống ân sủng; và bằng việc thực thi đức ái tương xứng với lời mình tuyên xưng sẽ luôn làm cho người kitô hữu thêm hăng say truyền giáo.
IV. TINH THẦN NĂNG ĐỘNG LOAN BÁO TIN MỪNG
Tin Mừng mời gọi chúng ta đáp lại vị Thiên Chúa của tình thương, Đấng cứu độ chúng ta, nhìn thấy Chúa nơi tha nhân và ra khỏi bản thân mình để tìm lợi ích cho tha nhân. Đồng thời, làm cho sứ điệp mà chúng ta rao giảng không mất đi “hương thơm của Tin Mừng”.[16] Đức Phanxicô nói với các môn đệ truyền giáo rằng công việc loan báo Tin Mừng hoạt động trong các giới hạn của ngôn ngữ và hoàn cảnh. Công việc này không ngừng tìm cách thông truyền sự thật của Tin Mừng một cách hiệu quả hơn trong một bối cảnh nhất định, không từ bỏ sự thật, sự thiện và ánh sáng mà nó có thể đem đến bất cứ nơi nào không thể có sự hoàn thiện. Một con tim truyền giáo ý thức về những giới hạn này và làm cho mình trở nên “yếu với người yếu... mọi sự cho mọi người” (1Cr 9,22).[17] Khi đã cảm nhận được các hương vị Tin Mừng một cách sống động của đời sống thường nhật và được làm bừng cháy ngọn lửa nhiệt thành truyền giáo, người tín hữu cần mặc lấy một tinh thần năng động loan báo Tin Mừng.
1. Sự năng động của Tin Mừng
Từ ngữ “năng động” đáng để chúng ta quan tâm trong đời sống con người. Đây là một tính từ mang nghĩa: “có tác động tích cực làm biến đổi thế giới xung quanh.”[18] Còn theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân thì: Năng động là có khả năng hoạt động tích cực.[19] Như thế, khi chúng ta nói một con người hay một tập thể năng động là muốn nói tới một cá nhân hay tập thể có khả năng hoạt động tích cực và có chủ đích làm biến đổi thế giới xung quanh.
Dựa vào ý nghĩa trên, chúng ta khám phá sự năng động của Tin Mừng, hay nói một cách rộng hơn, sự năng động của Lời Chúa. Hội Thánh hiểu một cách chắc chắn rằng Tin Mừng chính là Chúa Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa. Trong lời tựa ngôn của Tin Mừng Gioan: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa”(Ga 1,1) ; và “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Ngôi Lời ấy được Gioan Tẩy Giả làm chứng là Đức Giêsu Kitô (x. Ga 1,15). Và cũng trong chính Tựa Ngôn, thánh Gioan Tông Đồ nêu lên phẩm tính của Chúa Giêsu Kitô: sự sống, ánh sáng, ân sủng, sự thật (x. Ga 1,1-18).
- Sự Sống: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51). “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo” (Ga 15,5-6). “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Trong hành trình rao giảng, Chúa Giêsu đã 3 lần làm cho kẻ chết sống lại.
- Ánh Sáng: Chúa Giêsu là ánh sáng cho nhân loại “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9). “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3,19-21). Khi thực hiện sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã hai lần làm phép lạ mở mắt cho người mù được thấy.
- Ân Sủng: đọc lại toàn bộ bốn cuốn Tin Mừng, người tín hữu thấy tràn ngập ân sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại. Chúa Giêsu thể hiện tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người đến với Người: người nghèo được nghe Tin Mừng, người ốm đau bệnh tật được chữa lành, người bị loại trừ được hiệp thông với cộng đoàn, người tội lỗi được ơn tha thứ, … Chúa Giêsu thể hiện lòng khoan dung tha thứ: người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, đứa con hoang đàng, các môn đệ phản bội, các lãnh đạo Do Thái kết án Người, kẻ trộm biết ăn năn, … Chúa Giêsu luôn tìm kiếm để cứu chữa, chẳng hạn như dụ ngôn tìm chiên lạc (Lc 15,4-7).
- Sự Thật: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” Ga 8,31-32). Chúa Giêsu mạc khải sự thật về Thiên Chúa, về chính Người là Đấng cứu độ, về Nước Thiên Chúa.
- Biến Đổi: biết bao nhiêu người từ các tông đồ cho đến các thánh thuộc mọi thời đại sau khi gặp gỡ Ngôi Lời Thiên Chúa đã biến đổi trong tâm hồn. Chúng ta dễ dàng nhận thấy cuộc biến đổi của Phêrô, Matthêu, Phaolô, Augustinô, … Để được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, phải được nâng đỡ bởi trải nghiệm không ngừng được đổi mới của chúng ta về sự nếm cảm tình bạn và sứ điệp của Đức Kitô.[20] Gặp gỡ một Đức Giêsu Kitô để được biến đổi nhờ cả cuộc đời Ngài, cách Ngài đối xử với người nghèo, các hành động, tính chính trực, các hành vi quảng đại đơn sơ hằng ngày, và sau cùng sự hiến thân hoàn toàn của Ngài, tất cả là điều quí giá và mặc khải mầu nhiệm sự sống thần linh của Ngài.[21]
Vậy, sự năng động của Tin Mừng là làm cho những ai đón nhận Thiên Chúa, đón nhận Ngôi Lời được sự sống Thiên Chúa nuôi dưỡng, được Lời Chúa soi sáng cho biết nẻo đường cứu độ, được làm triển nở đời sống đức tin mỗi ngày nhờ hoạt động của Thiên Chúa Ba Ngôi trong linh hồn, được thanh tẩy nhờ sức mạnh Thiên Chúa, và làm cho người tín hữu có khả năng làm chứng cho sự sống, sự sáng, ân sủng và sự thật. Từ đó, họ mạnh dạn loan báo những hương vị Tin Mừng mà họ được Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần tác động.
2. Nguyên nhân thiếu tinh thần năng động loan báo Tin Mừng
Có nhiều nguyên nhân nội tại và ngoại tại dẫn đến người tín hữu và cộng đoàn giáo xứ thiếu tinh thần năng động loan báo Tin Mừng. Tuy nhiên, huấn thị này chỉ rõ nguyên nhân mà người tín hữu và cộng đoàn giáo xứ không sống tinh thần năng động loan báo Tin Mừng là “một cố gắng sống còn cằn cỗi” và thờ ơ tham dự đời sống phụng vụ, thánh lễ, các việc đạo đức bình dân và các việc bác ái tông đồ.[22]
Thật vậy, khi vai trò của Lời Chúa không được quan tâm đúng mức, Lời Chúa được nghe và đoán nhận một cách hời hợt. Khi cá nhân và cộng đoàn không xác tín Lời Chúa có quyền năng biến đổi bên trong làm hoán cải tâm hồn, làm lương thực nuôi dưỡng người môn đệ, hàm chứa một sức mạnh mang tính tiên tri khiến cho Lời Chúa luôn đầy sức sống, Lời Chúa không được loan báo một cách sống động (x. số 21). Khi cử hành Thánh lễ và các bí tích theo thói quen đều đặn không có tác động gì đến đời sống con người cụ thể, người tín hữu đâm ra thờ ơ và xơ cứng với các mầu nhiệm thánh. Từ đó, người tín hữu tham dự phụng vụ như một bổn phận làm lấy cho xong nhiệm vụ mà không cảm nhận được đời sống ân sủng Chúa ban qua từng cử chỉ hành động linh thánh nơi các bí tích.
Cho nên, khi những thực hành đời sống đạo chỉ còn hình thức bên ngoài qua những việc tổ chức hoàng tráng các lễ nghi phụng vụ, các cuộc rước kiệu linh đình, các việc bác ái phô trương, huấn thị bảo đấy là giáo xứ đang có nguy cơ tự quy chiếu về chính mình. Đức Thánh Cha Phanxicô xem đây là tình trạng của một đời sống thế tục thiêng liêng: “Núp dưới dáng vẻ của lòng đạo đức và thậm chí lòng yêu đối với Hội Thánh, tính thế tục thiêng liêng hệ tại việc không tìm kiếm vinh quang Thiên Chúa mà là tìm vinh quang loài người và sự thoả mãn của bản thân” (Evangelii Gaudium số 93). Đức Phanxicô còn nói thêm “Không hề có dấu ấn của Đức Kitô nhập thể, chịu đóng đinh và phục sinh” ( EG số 95). Chính vì thế, nó dẫn tới một điều phải suy xét: “không có cố gắng nào để đi ra bên ngoài tìm kiếm những người còn xa cách hay đám quần chúng bao la đang khát Đức Kitô. Nhiệt huyết Tin Mừng bị thay thế bằng sự hưởng thụ trống rỗng của tính tự mãn và buông thả” (EG số 95).
3. Tinh thần năng động loan báo Tin Mừng
Tông huấn Niềm Vui Của Tin Mừng tái khẳng định giáo xứ là môi trường để nghe Lời Chúa, để tăng trưởng trong đời sống Kitô hữu, để đối thoại, rao giảng, làm việc bác ái, thờ phượng và mừng lễ. Trong mọi hoạt động của mình, giáo xứ cổ vũ và huấn luyện các thành viên của mình để trở thành những người loan báo Tin Mừng. Và cuộc hoán cải mục vụ nhằm canh tân giáo xứ trở thành những môi trường sống hiệp thông và tham dự, và làm cho giáo xứ trở nên hoàn toàn hướng về truyền giáo.[23] Huấn thị này một lần nữa nhấn mạnh cộng đoàn giáo xứ còn là bối cảnh nhân loại, trong đó ta thực hiện công cuộc Loan báo Tin Mừng của Hội Thánh với một lòng nhiệt thành truyền giáo.[24] Vì vậy, lòng nhiệt thành truyền giáo của giáo xứ được thực hiện bằng tinh thần năng động của Tin Mừng.
- Được tăng trưởng nhờ sự sống Thiên Chúa dưỡng nuôi
“Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4), Chúa Giêsu đã trả lời đanh thép với sa-tan khi nó cám dỗ con người chỉ lo cái ăn cho đời sống thể xác. Thiên Chúa chẳng những nuôi sống thể xác con người qua công trình tạo dựng của Người (x. St 1,26-31), Người còn nuôi dưỡng nhân loại bằng chính Con Một của Người, là Ngôi Lời nhập thể, là Bánh hằng sống từ trời xuống. Điều cao cả và cốt lõi hơn nữa, Chúa Giêsu trở nên lương thực ban sự sống cho cả xác lẫn hồn, cả đời sống thể lý lẫn tinh thần cho con người. Chính vì thế, khi người tín hữu kết hiệp trọn vẹn với Chúa Giêsu trong thánh lễ: gồm cả Lời Chúa và Thánh Thể. Nơi bàn tiệc Lời Chúa, cá nhân và cộng đoàn giáo xứ được nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng. Nơi bàn tiệc Thánh Thể, cá nhân và cộng đoàn được nuôi dưỡng đời sống hiệp thông sâu xa với Chúa và tha nhân.
Quả vậy, với sự sống Thiên Chúa đang linh hoạt trong người tín hữu và cộng đoàn, họ mang lấy một sức sống thần thiêng hướng đến sự sống đời đời. Sự sống ấy Thiên Chúa tuôn tràn cho nhân loại thế nào, họ cũng phải tuôn tràn sự sống đó cho mọi người xung quanh như vậy. Sự sống của người kitô hữu trở nên chứng tá cho con người hôm nay thấy rằng không chỉ có một sức sống thể lý, nhưng còn phải có một sức sống linh hồn. Cả hai sức sống thể lý và linh hồn này đều xuất phát từ Thiên Chúa (x. St 2,7). Thiên Chúa ban cho Hội Thánh các bí tích để nhờ đó người tín hữu mỗi ngày được tăng sức sống nhờ bí tích Thánh Thể, được chữa lành và tái tạo đời sống mới nhờ Hòa Giải và Xức Dầu, được hiệp thông và phục vụ nhờ bí tích Truyền Chức và Hôn Phối.
Chúa Giêsu tiếp tục dùng hình ảnh cây nho để nhắc nhở người tín hữu gắn kết với sự sống của Thiên Chúa thì sinh hoa trái (x. Ga 15). “Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy” (Ga 15,4). Đời sống chứng tá cho công cuộc loan báo Tin Mừng chính là sự sống đang gắn liền với Chúa Kitô. Chúa Giêsu càng khẳng định cho cộng đoàn giáo xứ nếu muốn truyền giáo hiệu quả, thì ở lại trong Chúa Giêsu: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
- Được soi sáng nhờ Lời Chúa
Lời Thiên Chúa đi vào tận ngóc ngách của đời sống con người. Lời Chúa chiếu tỏa cho những ai lắng nghe và thực hành thì được phúc. Tin Mừng Chúa Giêsu mở mắt cho những ai có một đời sống tôn thờ Thiên Chúa một cách thờ ơ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (x. Is 29,13; Mc 7,6). Lời Chúa soi sáng cho con người thấy tình thương tha thứ của Thiên Chúa: đón nhận người con hoang đàn trở về (Lc 15,11-32), tha thứ cho người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (Ga 8,2-11), đồng bàn với những người tội lỗi [trường hợp Matthêu (Mt 9,9-13) và Giakêu (Lc 19,1-10)]. Lời Chúa soi sáng cho con người nhận biết thân phận của mình hầu thống hối ăn năn; chẳng hạn như câu chuyện của thánh Phêrô (Lc 5,8), chuyện người thu thuế vào đền thờ cầu nguyện (Lc 18,13). Đặc biệt với Thánh vịnh 50, thân phận yếu đuối của con người được phơi bày và Thiên Chúa tỏ lòng thương xót cho con người. Tin Mừng soi sáng cho con người cảm nhận niềm an ủi và hy vọng: “hãy về bình an và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11), “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (Lc 7,50). Lời Chúa soi sáng cho con người nhận ra tình yêu vô biên và nhưng không của Thiên Chúa (Ga 13,1.5.14; Lc 14,22-25). Đặc biệt, toàn bộ Tin Mừng soi sáng cho người tín hữu nhận ra ơn cứu độ của Thiên Chúa. Qua hai câu chuyện Matthêu và Giakêu, niềm vui ơn cứu độ được Chúa Giêsu đích thân soi chiếu.
Lời Thiên Chúa một khi đi vào đời sống con người sẽ là cho con người nhận thấy ánh sáng của sự sống, tình yêu, tha thứ, đón nhận, hiệp thông, niềm an ủi, niềm hy vọng và ơn cứu độ. Tất cả điều này là mong mỏi và khát vọng của con người. Trở nên chứng tá cho ánh sáng Tin Mừng giữa trần gian là sứ mạng được Chúa Giêsu ủy thác cho mỗi người tín hữu và cộng đoàn giáo xứ. “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,14-16). Chúa Giêsu ví người tín hữu và cộng đoàn như anh sáng không tài nào giấu được và nó chiếu tỏa tình yêu, tha thứ, cảm thông, hiệp nhất, phục vụ, niềm vui, niềm an ủi, niềm hy vọng cho mọi người xung quanh, vì chính người tín hữu và cộng đoàn giáo xứ đã mang trong trong mình ánh sáng Chúa Giêsu.
- Có sức biến đổi và làm chứng tá nhờ Chúa Thánh Thần
Trước khi bước vào cuộc Thương Khó, Chúa Giêsu hứa ban cho các tông đồ Đấng Bảo Trợ, Đấng hướng dẫn con người đến sự thật toàn vẹn, Đấng làm cho các tông đồ và những kẻ tin hiểu mọi lời Chúa Giêsu dạy (x. Ga 16,4-14).
Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa và biến đổi tâm hồn con người. Câu chuyện về ngày Hiện Xuống của Chúa Thánh Thần trên các thánh tông đồ cho chúng ta một hình ảnh tuyệt hảo về sự biến đổi mà Chúa Thánh Thần thực hiện trên các tông đồ. Trước ngày lãnh nhận Thánh Thần, các tông đồ họp nhau trong nhà đóng kín cửa vì sợ bị bách hại như Thầy mình. Sau khi nhận Thánh Thần, các ông tung cửa bước ra thế giới với lời chứng hùng hồn không chút nghi nan: “Đức Giê-su ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết” (Cvtđ 2,23-24). Chúa Thánh Thần biến đổi các ông trở nên trung kiên rao giảng: “Nghe lời các ông hơn là nghe lời Thiên Chúa, xin hỏi: trước mặt Thiên Chúa, điều ấy có phải lẽ không? Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra. (Cvtđ 4,19-20).
Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục hoạt động trong Hội Thánh, trong từng người tín hữu, trong từng cộng đoàn giáo xứ. Người mở lòng cho mọi người đón nhận Lời Chúa, mở trí cho hiểu các mầu nhiệm Thiên Chúa, mở con tim để yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, mở lòng bác ái để đến với mọi người trong từng hoàn cảnh đời sống, thôi thúc chia sẻ điều đã cảm nhận, đã sống, đã kinh nghiệm, thôi thúc gieo hạt giống Lời Chúa cho những tâm hồn thiện chí. Vì vậy, người tín hữu và giáo xứ được Chúa Thánh Thần hiện diện và linh hoạt bằng bí tích và đặc sủng hầu trở nên những người thiệt thành rao giảng Tin Mừng.
Chúa Thánh Thần là linh hồn của Hội Thánh, cũng đồng nghĩa là linh hồn của giáo xứ. Như linh hồn làm cho thân xác sống động và phối trí mọi sinh hoạt nơi con người, Chúa Thánh Thần cũng làm cho giáo xứ sống động và điều hành mọi sinh hoạt trong giáo xứ. Người làm cho giáo xứ hiệp nhất khi quy tụ trong thánh lễ, chung chia cùng một sự sống thần linh khi hiệp lễ, ra đi loan Tin Mừng cho thế giới khi được mời gọi ở lời giải tán. Chính vì thế, cộng đoàn giáo xứ càng để cho Chúa Thánh Thần hoạt động nơi mình qua các phượng tiện cứu rỗi của Chúa thì cộng đoàn giáo xứ trở nên lời rao giảng hùng hồn cho mọi người.
- Có sức gặp gỡ nhờ Chúa Giêsu nhập thể
Mầu nhiệp nhập thể được xem như là khuôn mẫu cho cuộc gặp gỡ mang lại ơn cứu độ. Thiên Chúa bỏ trời cao để cư ngụ giữa loài người. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”, “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa”, và “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,1-16). Quả thật, cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu là cuộc gặp gỡ đi đến sự sống đời đời. Các trang Tin Mừng cho chúng ta thấy, gặp gỡ Chúa Giêsu có người được chữa lành, có người được giải thoát khỏi tội lỗi, có người được củng cố lòng tin, có người được cảnh báo về tình trạng đức tin, có người được kêu gọi đi vào mối thâm tình với Chúa, có người được phục sinh, có người được bước ra khỏi tình trạng tuyệt vọng, có người dấn thân phục vụ và có người được hiệp thông với cộng đoàn. Đặc biệt hơn, “mọi Kitô hữu đều là người truyền giáo theo mức độ họ đã gặp gỡ tình thương của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô: chúng ta không còn nói mình là những ‘người môn đệ’ và ‘người truyền giáo’, nhưng đúng hơn, chúng ta luôn luôn là những ‘người môn đệ truyền giáo’. Nếu điều này chưa thuyết phục, chúng ta hãy nhìn vào những môn đệ đầu tiên, vừa khi bắt gặp cái nhìn của Đức Giêsu, các ông vui vẻ đi loan báo về Ngài: ‘Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia!’ (Ga 1,41). Người phụ nữ Samaria đã trở thành người truyền giáo ngay sau khi nói chuyện với Đức Giêsu và nhiều người Samaria đã tin Ngài ‘vì lời chứng của người phụ nữ’ (Ga 4,39). Thánh Phaolô cũng vậy, sau khi gặp Đức Giêsu, ‘lập tức đi rao giảng về Đức Giêsu’ (Cv 9,20; xem 22,6-21). Vậy chúng ta còn chờ gì nữa?”[25]
Cộng đoàn giáo xứ được mời gọi trở nên trung tâm gặp gỡ. Vì đây là “nơi chốn” đặc biệt cho sự gắn kết mọi người với nhau và nuôi dưỡng các mối tương quan cá nhân lâu bền, từ đó giúp người ta cảm nhận mình thuộc về và được yêu thương.[26] Một cuộc gặp gỡ gắn kết khi cộng đoàn giáo xứ diễn tả sự đón nhận không loại trừ, cảm thông thực tại đời sống, tình yêu vô vị lợi. Chúa Giêsu đã trao ban tất cả cho cuộc gặp gỡ; giáo xứ cũng thế, trao ban chính cộng đoàn liên đới, yêu thương, nâng đỡ và niềm vui. Bởi đó, cộng đoàn giáo xứ được mời gọi qua lời Đức Phanxicô: “Tin Mừng không ngừng dạy chúng ta mạo hiểm vào những cuộc gặp gỡ trực diện với người khác, với sự hiện diện thể chất của họ vốn thách thức chúng ta, với nỗi đau và các lời kêu xin của họ, với niềm vui của họ lan toả sáng chúng ta trong mối tương tác gần gũi và liên tục. Lòng tin đích thực vào Con Thiên Chúa nhập thể thì không thể tách rời khỏi sự tự hiến, tư cách thành viên của cộng đoàn, sự phục vụ, sự hoà giải với người khác. Bằng việc nhập thể, Con Thiên Chúa kêu gọi chúng ta tới cuộc cách mạng của sự dịu dàng.”[27]
- Nghệ thuật cảm thông
Huấn thị nhấn mạnh đến nghệ thuật cảm thông khi nhắc lại thông điệp từ Tông huấn Niềm Vui Của Tin Mừng: “Giáo xứ là một cộng đoàn của các cộng đoàn, một thánh điện để những người khát nước đến uống dọc đường, và một trung tâm thường xuyên vươn ra truyền giáo” (số 28). Từ đó, Đức Phanxicô mời gọi một Hội Thánh đi ra hoặc một Hội Thánh mở cửa. Một giáo xứ chẳng những mở cánh cửa vật lý là cánh cửa nhà thờ, mà còn mở cách cửa ân sủng qua các bí tích. Ngài cảnh báo những tình trạng tiêu cực hiện tại nơi các giáo xứ: “Chúng ta nhiều khi hành động như là người ban phát ân sủng thay vì là người tạo điều kiện cho ân sủng. Nhưng Hội Thánh không phải là một trạm thu phí; Hội Thánh là Nhà Cha, có chỗ cho mọi người, với tất cả các vấn đề của họ (số 47). Mong mỏi của Đức Phanxicô trong nghệ thuật cảm thông như là phương cách loan báo Tin Mừng: “Tôi thà có một Hội Thánh bị bầm dập, mang thương tích và lem luốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội Thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình. Tôi không muốn một Hội Thánh chỉ lo đặt mình vào trung tâm để rốt cuộc bị mắc kẹt trong một mạng lưới các nỗi ám ảnh và các thủ tục. Nếu có cái gì đáng phải khiến chúng ta trăn trở và áy náy lương tâm, thì đó chính là sự kiện nhiều anh chị em chúng ta đang sống mà không có sức mạnh, ánh sáng và niềm an ủi phát sinh từ tình bạn với Đức Giêsu Kitô, không có một cộng đoàn đức tin nâng đỡ họ, không tìm thấy ý nghĩa và mục tiêu trong đời.”[28] Hiến chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay (Gaudium et Spes) đã mở đầu bằng việc thể hiện sự cảm thông: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và của bất cứ ai đang đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà họ lại không cảm nhận trong đáy lòng họ. Thật vậy, đây là cộng đồng gồm những con người được quy tụ trong Chúa Kitô, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong cuộc lữ hành về Nước Cha và đã đón nhận Tin Mừng cứu rỗi được trao ban cho mọi người. Vì thế, cộng đồng này thực sự cảm nghiệm được mối dây liên kết mật thiết với con người và lịch sử nhân loại” (số 1). Cho nên, huấn thị khẳng định nếu bám rễ sâu vào Thiên Chúa đầy cảm thông, giáo xứ sẽ trở nên thực sự là một nơi giúp vượt qua sự cô đơn, vốn ảnh hưởng đến cuộc sống của nhiều người.[29]
KẾT
Giáo xứ là một trung tâm thừa sai thường xuyên phải đi Loan báo Tin Mừng.[30] Đây là một lời mời gọi hoán cải mục vụ theo một định hướng rõ rệt: Truyền giáo. Để trở nên một thừa sai đích thực, giáo xứ trở nên một Hội Thánh sống động có Chúa Giêsu hiện diện bằng chính sức sống của Người qua Lời Chúa và các bí tích. Để trở nên một thừa sai thường xuyên, giáo xứ để Chúa Thánh Thần linh hoạt trong mọi hoạt động mục vụ của mình. Để trở nên một thừa sai mang tinh thần năng động, giáo xứ phải là một “lãnh thổ hiện sinh” vì nó chứa đựng bối cảnh từng cuộc sống con người.
Truyền giáo trở thành kim chỉ nam cho cuộc hoán cải mục vụ chính là nhằm mục đích làm cho cộng đoàn giáo xứ trở nên một Hội Thánh sống động, đánh tan một Hội Thánh cố gắng sống còn cằn cỗi, không tác động gì đến con người cụ thể. Không ai có thể cho đi cái mình không có. Dường như đây là một chân lý. Giáo xứ không mang trong mình Chúa Giêsu nhập thể, chịu thương khó, chết và phục sinh, thì không thể gặp gỡ, cảm thông, chia sẻ, nâng đỡ và loan báo ơn cứu độ.
Hoán cải mục vụ giáo xứ theo định hướng loan báo Tin Mừng chính là một giáo xứ mở ra, mở cánh cửa đức tin, mở cánh cửa ân sủng, mở cánh cửa đời sống mới, mở cánh cửa sẵn sàng đối diện với mọi thách đố của đời sống con người. Để làm gia tăng hơn nữa tầm quan trọng trung tâm của sự hiện diện thừa sai của cộng đoàn Kitô hữu trong thế giới, điều quan trọng không phải chỉ là suy tư về một kinh nghiệm mới của giáo xứ, nhưng còn là suy tư về thừa tác vụ và sứ vụ của linh mục, là người cùng với giáo dân, có nhiệm vụ trở thành “muối và ánh sáng trần gian” (x. Mt 5,13-14), một “ngọn đèn đặt trên đế” (Mc 4,21), soi tỏ khuôn mặt của một cộng đoàn Loan báo Tin Mừng, có khả năng đọc được các dấu chỉ của thời đại và làm chứng bằng lối sống thuyết phục theo Tin Mừng.[31]
Nguồn: gpquinhon.net
_______________
[1] BỘ GIÁO SỸ, Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ Để Phục Vụ Sứ Vụ Loan Báo Tin Mừng Của Hội Thánh, số 5.
[2] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Ad Gentes, số 2.
[3] Đức Tổng Giám mục NGUYỄN NĂNG, Canh Tân Các Hoạt Động Mục Vụ Và Canh Tân Huấn Giáo Theo Viễn Tượng Truyền Giáo, trong Bản Tin Hiệp Thông số 89 (tháng 7&8 năm 2015) tr. 12.
[4] Ibidem, tr. 13.
[5] BỘ TRUYỀN THÔNG, Hướng Tới Sự Hiện Diện Tròn Đầy (29.5.2023), số 1.
[6] Ibidem, số 1.
[7] Ibidem, số 77.
[8] PHANXICÔ, Desiderio Desideravi, số 4.
[9] PHAOLÔ VI, Evangelii Nuntiandi, số 48.
[10] BỘ GIÁO SỸ, Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ Để Phục Vụ Sứ Vụ Loan Báo Tin Mừng Của Hội Thánh, số 19.
[11] VIỆN NGÔN NGỮ HỌC, Từ Điển Tiếng Việt, tr. 719.
[12] BỘ GIÁO SỸ, Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ Để Phục Vụ Sứ Vụ Loan Báo Tin Mừng Của Hội Thánh, số 17.
[13] TÊRÊSA LISIEUX, Nhật Ký Một Tâm Hồn, tr.257.
[14] BỘ GIÁO SỸ, Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ Để Phục Vụ Sứ Vụ Loan Báo Tin Mừng Của Hội Thánh, số 21.
[15] BỘ GIÁO SỸ, Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ Để Phục Vụ Sứ Vụ Loan Báo Tin Mừng Của Hội Thánh, số 24.
[16] PHANXICÔ, Niềm Vui Của Tin Mừng, số 39.
[17] Ibidem, số 45.
[18] VIỆN NGÔN NGỮ, Từ Điển Tiếng Việt, chữ “năng động”, Nxb Đà Nẵng 2000, tr.660.
[19] NGUYỄN LÂN, Từ điển từ và ngữ Việt Nam, chữ “năng động”, Nxb Tp. Hồ Chí Minh 2000, tr.1224.
[20] PHANXICÔ, Niềm Vui Của Tin Mừng, số 266.
[21] Ibidem, số 265.
[22] BỘ GIÁO SỸ, Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ Để Phục Vụ Sứ Vụ Loan Báo Tin Mừng Của Hội Thánh, số 17.
[23] PHANXICÔ, Niềm Vui Của Tin Mừng (Evangelii Gaudium), số 28.
[24] BỘ GIÁO SỸ, Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ Để Phục Vụ Sứ Vụ Loan Báo Tin Mừng Của Hội Thánh, số 19.
[25] PHANXICÔ, Niềm Vui Của Tin Mừng, số 120.
[26] BỘ GIÁO SỸ, Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ Để Phục Vụ Sứ Vụ Loan Báo Tin Mừng Của Hội Thánh, số 25.
[27] PHANXICÔ, Niềm Vui Của Tin Mừng, số 88.
[28] PHANXICÔ, Niềm Vui Của Tin Mừng, số 49.
[29] BỘ GIÁO SỸ, Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ Để Phục Vụ Sứ Vụ Loan Báo Tin Mừng Của Hội Thánh, số 26.
[30] Ibidem, số 26; và PHANXICÔ, Niềm Vui Của Tin Mừng, số 28.
[31] Ibidem, số 13.