WHĐ (18.8.2022) - Ngày 29 tháng 6 năm 2022, Đức Thánh cha Phanxicô đã ban hành Tông thư Desiderio Desideravi về đào tạo Phụng vụ gửi toàn thể Dân Chúa. Ủy ban Phụng tự - Hội đồng Giám mục Việt Nam trân trọng giới thiệu bản Việt ngữ của Tông thư này. Văn phòng Hội đồng Giám mục sẽ in ấn và phát hành Tông thư này.
TÔNG
THƯ
DESIDERIO DESIDERAVI
CỦA ĐỨC THÁNH CHA
PHANXICÔ
GỬI CÁC
GIÁM MỤC, LINH MỤC VÀ PHÓ TẾ,
NHỮNG
NGƯỜI SỐNG ĐỜI THÁNH HIẾN VÀ GIÁO DÂN
VỀ ĐÀO
TẠO PHỤNG VỤ CHO DÂN THIÊN CHÚA
Thầy rất mong ăn lễ Vượt Qua
này với các con trước khi Thầy chịu khổ hình (Lc
22,15)
1. Anh chị em rất
thân mến, tôi muốn gửi thư này đến tất cả anh chị em - sau khi công bố Tự sắc Traditionis Custodes mà tôi chỉ viết cho
các giám mục - nay tôi viết thư này để chia sẻ với anh chị em một số suy tư về
Phụng vụ, một chiều kích căn bản trong đời sống Hội Thánh. Chủ đề này rất rộng
lớn và đáng được xem xét cẩn thận về mọi lãnh vực: tuy nhiên, trong thư này,
tôi không có ý định trình bày vấn đề cách cặn kẽ. Đúng hơn, tôi muốn đưa ra một
vài hướng suy tư có thể giúp ích cho việc chiêm ngưỡng vẻ đẹp và chân lý trong
cử hành Kitô giáo.
Phụng vụ: “ngày hôm nay” trong lịch sử cứu độ
2. “Thầy rất mong ăn lễ Vượt Qua này với các
con trước khi Thầy chịu khổ hình” (Lc 22,15). Câu nói này của Chúa Giêsu đã
mở ra trình thuật về Bữa Tiệc Ly, và như một khe cửa hé mở cho phép chúng ta có
thể cảm thụ được chiều sâu của tình yêu Ba Ngôi Chí Thánh dành cho chúng ta.
3. Phêrô và Gioan
được sai đi chuẩn bị những gì cần thiết cho bữa tiệc Vượt Qua, nhưng khi nhìn kỹ
hơn, có thể thấy rằng tất cả thụ tạo, tất cả lịch sử - mà chung cuộc cũng là lịch
sử cứu độ - đều tham dự vào cuộc chuẩn bị quy mô cho bữa tiệc này. Phêrô và những
người khác hiện diện nơi bàn tiệc, không hiểu biết gì nhưng lại là những người
cần phải có mặt, vì bất kỳ món quà nào, để trở thành một món quà, phải có người
sẵn lòng đón nhận nó. Ở đây, khoảng cách bất cân xứng giữa sự to lớn của món
quà và sự nhỏ bé của người nhận là vô hạn và không thể không làm chúng ta ngỡ
ngàng. Tuy nhiên, bởi lòng Chúa thương xót, món quà được trao cho các Tông đồ để
các ngài mang đến cho tất cả mọi người, nam cũng như nữ.
4. Không ai tự kiếm
được một chỗ ngồi trong bữa tiệc này, nhưng ai cũng được mời, hay nói đúng hơn,
tất cả đều bị lôi cuốn bởi nỗi khao khát mãnh liệt của Chúa Giêsu muốn ăn Lễ Vượt
Qua với họ: Người biết mình là Con Chiên Vượt Qua, và là chính Lễ Vượt Qua.
Chính tính cách mới mẻ tuyệt đối của bữa ăn, điều mới mẻ thực sự duy nhất trong
lịch sử, đã làm cho bữa tiệc này trở nên độc đáo và mang tính tối hậu, một lần
duy nhất: “Bữa tối cuối cùng”. Tuy nhiên, khát vọng vô hạn của Người muốn tái lập
mối hiệp thông với chúng ta, đã và vẫn là dự định từ đầu của Người, sẽ không được
thoả mãn cho đến khi mọi người, thuộc mọi
chi họ, ngôn ngữ, dân tộc và quốc gia (Kh 5,9) được ăn Thịt và uống Máu của
Người: đó là lý do tại sao chính bữa tiệc này phải được hiện tại hóa trong việc
cử hành Thánh Thể, cho đến khi Người trở lại.
5. Thế gian chưa biết
điều đó, nhưng tất cả đều được mời dự tiệc
cưới của Chiên Con (x. Kh 19,9). Để được vào dự lễ, chỉ cần mặc áo cưới là
đức tin, có được nhờ đã nghe Lời Người (x. Rm 10,17): Hội Thánh may áo này vừa
vặn với mỗi người, bằng tấm vải trắng được
giặt trong Máu Chiên Con (x. Kh 7,14). Chúng ta không được cho phép mình
nghỉ ngơi dù chỉ một phút giây, bởi biết rằng không phải tất cả mọi người đã nhận
được lời mời tham dự bữa ăn này, hoặc có những người đã lãng quên hoặc lạc bước
trong những lối quanh co của cuộc đời. Đó là điều tôi đã từng nói tới: “Tôi ước
mơ một chọn lựa truyền giáo có thể làm thay đổi mọi sự, để các thói quen, phong
cách hành động, giờ giấc chương trình, ngôn ngữ và cơ cấu của Hội Thánh được
khai thông thích hợp cho việc loan báo Tin Mừng trong thế giới ngày nay, hơn là
cho sự bảo tồn của Hội Thánh” (Evangelii
gaudium, số 27): để tất cả mọi người có thể ngồi ăn bữa tiệc hy tế của
Chiên Con và được sống nhờ Người.
6. Trước khi chúng
ta đáp lại lời mời, thì từ rất lâu trước đó, Chúa đã khao khát muốn gặp chúng
ta. Có thể chúng ta không nhận thức đủ, nhưng lý do chính để chúng ta đi tham dự
Thánh lễ, là vì chúng ta bị thu hút bởi sự khao khát của Chúa dành cho chúng
ta. Về phần chúng ta, câu trả lời của chúng ta - cũng là điều đòi hỏi chúng ta
phải hy sinh nhiều nhất - đó là luôn để cho Người yêu thương chúng ta, để cho
Người thu hút chúng ta. Việc rước Mình Máu Chúa Kitô chắc chắn là điều Người đã
muốn trong Bữa Tiệc Ly.
7. Tấm bánh được bẻ
ra chính là thánh giá của Chúa Giêsu, là hy lễ vâng phục của Người vì tình yêu
đối với Chúa Cha. Nếu không có Bữa Tiệc Ly, nghĩa là nếu không có việc cử hành
hướng về cái chết của Người, chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được rằng việc Người
đón nhận án chết là một hành vi phụng tự hoàn hảo và đẹp lòng Chúa Cha, hành vi
phụng tự đích thực duy nhất. Chỉ vài giờ sau Bữa Tiệc Ly, các Tông đồ, nếu có đủ
sức chịu đựng, đã có thể nhìn thấy nơi thập giá của Chúa Giêsu, ý nghĩa của lời
Người nói: “mình bị nộp”, “máu đổ ra”. Đây là điều chúng ta tưởng niệm mỗi khi
cử hành Thánh Thể. Khi Đấng Phục Sinh trở lại từ cõi chết để bẻ bánh cho các
môn đệ ở Emmaus, và đối với các môn đệ trở lại biển Galilêa để lưới cá chứ
không muốn đi lưới người, thì cử chỉ bẻ bánh này sẽ làm mắt họ mở ra. Cử chỉ ấy
chữa lành đôi mắt mù lòa do nỗi kinh hoàng của cây thập giá, và giúp họ “thấy được” Đấng Phục sinh, có thể tin
vào sự Phục sinh.
8. Giả sử bằng cách
nào đó chúng ta đến Giêrusalem sau Lễ Ngũ Tuần và không chỉ muốn có những thông
tin về Đức Giêsu người Nazareth, mà còn khao khát gặp lại Người, chúng ta không
có cách nào khác hơn là tìm các môn đệ để nghe lời Người nói và thấy cử chỉ Người
làm, sống động hơn bao giờ hết. Chúng ta không còn khả năng nào khác để gặp gỡ
Người ngoài khả năng của cộng đoàn cử hành. Đó là lý do tại sao Hội Thánh luôn
gìn giữ lệnh truyền của Chúa như kho tàng quý giá nhất của mình, “Các con hãy
làm việc này mà nhớ đến Thầy”.
9. Ngay từ đầu, Hội
Thánh đã ý thức rằng đây không phải là sự thể hiện, dù là thiêng liêng, về Bữa
Tối của Chúa. Việc làm này sẽ chẳng có ý nghĩa gì, và không ai lại nghĩ đến việc
“trình diễn” - đặc biệt là trước mắt Đức Maria, Mẹ của Chúa - giây phút cao quý
nhất trong cuộc đời của Thầy. Ngay từ đầu, Hội Thánh được Chúa Thánh Thần soi
sáng, đã hiểu rằng những gì có thể nhìn thấy nơi Chúa Giêsu, những gì có thể
nhìn thấy bằng mắt và chạm đến bằng tay, các lời nói và cử chỉ của Người, tính
cụ thể của Ngôi Lời Nhập Thể, tất cả những gì thuộc về Người đã được chuyển thể
qua cách cử hành các bí tích.[1]
Phụng vụ: nơi gặp gỡ Đức Kitô
10. Đây là nơi chứa
đựng tất cả vẻ đẹp đầy năng lực của phụng vụ. Nếu sự Phục sinh đối với chúng ta
chỉ là một khái niệm, một ý tưởng, một suy nghĩ; nếu Đấng Phục sinh đối với
chúng ta chỉ là một sự tưởng nhớ qua ký ức của những người khác, ngay cả khi họ
là người có thẩm quyền, chẳng hạn như các Tông đồ; nếu chúng ta không thể thực
sự gặp gỡ Chúa, thì chẳng khác gì tuyên bố rằng việc Ngôi Lời làm người chẳng
đem lại điều gì mới mẻ. Trái lại, Nhập thể, không chỉ là sự kiện mới mẻ duy nhất
trong lịch sử, nhưng còn là cách thức được Thiên Chúa Ba Ngôi chọn để mở ra con
đường hiệp thông. Đức tin Kitô giáo là cuộc gặp gỡ Đức Kitô hằng sống, nếu
không, đó không phải là đức tin.
11. Phụng vụ bảo đảm
cho chúng ta có được cuộc gặp gỡ đó. Một ký ức trống rỗng về Bữa Tiệc Ly sẽ chẳng
ích gì cho chúng ta. Chúng ta cần hiện diện trong bữa ăn này, để có thể nghe Lời
Chúa, để ăn Mình và uống Máu Người. Chúng ta cần Người. Trong bí tích Thánh Thể
và trong tất cả các bí tích, chúng ta chắc chắn có thể gặp gỡ Chúa Giêsu và cảm
nhận được quyền năng của mầu nhiệm Vượt Qua. Quyền năng cứu độ của hy tế, của từng
lời nói, từng cử chỉ, từng dáng vẻ, từng tâm tình của Chúa Giêsu, đến với chúng
ta qua việc cử hành các bí tích. Tôi là Nicôđêmô, là người phụ nữ Samaria bên bờ
giếng, người bị quỷ ám ở Capharnaum, người bại liệt trong nhà Phêrô, người phụ
nữ tội lỗi được tha thứ, người đàn bà mắc bệnh băng huyết, con gái của Giairô
và người mù thành Giêricô, Zakêô và Lazarô, là tên trộm lành và là Phêrô đã được
tha thứ. Chúa Giêsu, Đấng chịu sát tế trên thập tự giá, Người không chết nữa,
và với các vết thương của cuộc khổ nạn, Người vẫn sống[2]
vẫn tiếp tục tha thứ cho chúng ta, chữa lành chúng ta, và cứu rỗi chúng ta bằng
quyền năng của các bí tích. Đây là thể thức Người yêu thương chúng ta cách thiết
thực, theo phương thức mầu nhiệm nhập thể. Đây là cách Người làm dịu cơn khát của
chính Người đối với chúng ta như Người đã kêu lên trên thập giá (x. Ga 19,28).
12. Cuộc gặp gỡ đầu
tiên của chúng ta với mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô là sự kiện ghi dấu ấn
trên cuộc đời của tất cả những ai tin vào Người, đó chính là bí tích Thánh Tẩy.
Đó không phải là việc gắn kết tâm trí chúng ta vào suy nghĩ của Người hay chấp
nhận các quy luật sống do Người truyền dạy. Đúng hơn, đó là việc dìm mình vào
cuộc khổ nạn, cái chết, sự sống lại và lên trời của Người. Đây không phải là một
cử chỉ ma thuật. Ma thuật đối lập với logic của các bí tích vì cho rằng nó có
quyền trên cả Thiên Chúa, và vì lý do đó, ma thuật là của ma quỷ, tên Cám dỗ.
Trong sự tiếp nối trọn vẹn với mầu nhiệm Nhập thể, chúng ta được ban cho khả
năng chết và sống lại trong Đức Kitô nhờ sự hiện diện và tác động của Chúa
Thánh Thần.
13. Cách thức điều
đó xảy ra thật cảm động biết bao! Lời nguyện làm phép nước rửa tội[3]
cho chúng ta thấy khi tạo dựng nước, Thiên Chúa đã nghĩ đến bí tích Thánh Tẩy.
Điều này có nghĩa là khi Thiên Chúa sáng tạo ra nước, Người đã nghĩ đến bí tích
Rửa Tội của mỗi người chúng ta, và Người luôn giữ ý nghĩ này qua các hành động
trong lịch sử cứu độ, mỗi khi Người dùng nước để làm một điều gì đó. Như thể,
sau khi tạo ra nước, Thiên Chúa muốn hoàn thiện nước để làm cho nước trở thành
chất thể trong bí tích Thánh Tẩy. Đây là cách Người ban cho nước được đầy năng
lực của Thần Khí Người bay lượn trên mặt nước (x. St 1,2) để nước có được năng
lực thánh hóa; Người dùng nước để tái tạo nhân loại trong trận Đại hồng thủy
(x. St 6,1–9,29); Người bắt nước phải rẽ ra để mở con đường giải thoát qua Biển
Đỏ (x. Xh 14); Người đã thánh hiến nước sông Giođan, để xác thể của Ngôi Lời được
dìm trong Thánh Thần (x. Mt 3,13-17; Mc 1,9-11; Lc 3,21-22). Cuối cùng, Người
đã để nước hòa trong máu Con của Người, làm nên món quà là Thần Khí không thể
tách rời với món quà là sự sống và sự chết của Con Chiên đã chịu sát tế vì
chúng ta, và từ cạnh sườn bị đâm thâu của Con Chiên, Người đổ máu và nước trên
chúng ta (Ga 19,34). Chúng ta đã được dìm vào nước này để nhờ đó chúng ta được
tháp nhập vào Thân Thể Đức Kitô và với Người, chúng ta được sống lại để được sống
muôn đời (x. Rm 6,1-11).
Hội Thánh: Bí tích của Nhiệm Thể Chúa Kitô
14. Như Công đồng Vatican II đã nhắc nhở chúng
ta (x. Sacrosanctum Concilium 5) khi
trích dẫn Kinh Thánh, cùng với các Giáo phụ và Phụng vụ, là những trụ cột của
Truyền thống đích thực: chính từ cạnh sườn
Chúa Kitô. đang ngủ giấc ngủ của cái chết trên cây thánh giá, mà bí tích kỳ diệu
của toàn thể Hội Thánh đã được khởi sinh[4].
Ađam cũ và Ađam mới có những điểm giống nhau thật đáng kinh ngạc: từ cạnh sườn
của Ađam đầu tiên, đang trong giấc ngủ sâu, Thiên Chúa đã làm nên Êva; từ cạnh
sườn Ađam mới, đang trong giấc ngủ của cái chết trên thập giá, Evà mới là Hội
Thánh đã được khai sinh. Chúng ta ngỡ ngàng khi hình dung Ađam mới lúc nhìn thấy
Hội Thánh cũng nói những lời này: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt
tôi” (St 2,23). Bởi đã tin Lời Chúa và bước xuống dòng nước Thánh Tẩy, chúng ta
trở nên xương bởi xương và thịt bởi thịt của Người.
15. Không có sự kết
hợp này, sẽ không có khả năng sống trọn vẹn việc phụng thờ Thiên Chúa. Thật vậy,
chỉ có một hành động thờ phượng hoàn hảo và đẹp lòng Chúa Cha, đó là sự vâng phục
của Chúa Con đến độ chết trên thập giá. Cách duy nhất để thông phần vào hiến lễ
của Người là trở thành “những người con trong Chúa Con”. Đây là món quà mà
chúng ta đã lãnh nhận. Chủ thể duy nhất hoạt động trong Phụng vụ luôn luôn là
Chúa Kitô-Hội Thánh, Nhiệm thể của Người.
Ý nghĩa thần học của Phụng vụ
16. Chúng ta mang
ơn Công đồng - và phong trào phụng vụ trước đó - trong việc tái khám phá ý
nghĩa thần học và tầm quan trọng của Phụng vụ trong đời sống Hội Thánh. Các
nguyên tắc chung được đặt ra trong Sacrosanctum
Concilium đã là nền tảng cho việc cải cách phụng vụ, các nguyên tắc ấy cũng
vẫn là nền tảng cho việc thăng tiến các cử hành Phụng vụ là “nguồn chính yếu và
không thể thiếu để người tín hữu có thể kín múc tinh thần Kitô giáo đích thực”
(Sacrosanctum Concilium 14), cách trọn
vẹn, có ý thức, tích cực và hiệu quả (x. Sacrosanctum
Concilium 11.14). Với lá thư này, tôi chỉ muốn mời gọi toàn thể Hội Thánh
khám phá lại, bảo toàn và sống những ý nghĩa xác thực cũng như sức mạnh của các
cử hành phụng vụ Kitô giáo. Tôi muốn vẻ đẹp và những hiệu năng cần thiết của việc
cử hành Kitô giáo trong đời sống của Hội Thánh không bị biến dạng bởi một sự hiểu
biết hời hợt và giản lược về giá trị, hoặc thậm chí tệ hơn, bởi việc biến Phụng
vụ thành công cụ phục vụ một quan điểm ý thức hệ, dù quan điểm ấy có như thế
nào đi nữa. Lời nguyện tư tế của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly “để tất cả nên một”
(Ga 17,21), đang phán xét những chia rẽ của chúng ta chung quanh tấm Bánh được
bẻ ra, bí tích của lòng đạo đức, bí tích
của sự hợp nhất, mối liên kết của tình bác ái[5].
Phụng vụ: phương thuốc chống lại nọc độc của tinh thần thế
tục
17. Tôi đã nhiều lần
cảnh báo về một cám dỗ nguy hiểm cho đời sống của Hội Thánh, “tinh thần thế tục”:
Tôi đã nói nhiều về vấn đề này trong Tông huấn Evangelii Gaudium 93-97), xác định thuyết Ngộ đạo và thuyết
Tân-Pêlagiô là hai cách thức liên kết với nhau để tiếp tay cho tinh thần thế tục
này.
Thuyết Ngộ đạo giản
lược đức tin Kitô giáo thành một thái độ chủ quan, “cuối cùng giam hãm con người
trong những suy tư và cảm xúc cá nhân” (Evangelii
gaudium 94).
Thuyết Tân-Pêlagiô
hủy bỏ giá trị của ân sủng và “thay vào đó quan điểm ưu tuyển tự mãn và chuyên
chế, chỉ muốn phân tích và xếp loại người khác thay vì loan báo Tin Mừng; và
dành hết năng lượng cho việc tra xét và kiểm chứng thay vì mở rộng tâm hồn đón
nhận ân sủng” (Evangelii gaudium 94).
Những dạng thức
Kitô giáo sai lệch này có thể gây ra những hệ quả tai hại cho đời sống Hội
Thánh.
18. Theo những điều
tôi vừa nhắc lại, rõ ràng Phụng vụ tự bản chất là liều thuốc giải độc hiệu quả
nhất đối với những chất độc này. Tôi đang nói về ý nghĩa thần học của Phụng vụ
và, như Đức Piô XII đã khẳng định, “Phụng
vụ chắc chắn không phải là một nghi lễ mang tính trang trí hoặc chỉ là một tổng
hợp các luật lệ và quy định trong việc phụng tự”.[6]
19. Nếu thuyết Ngộ
đạo làm chúng ta nhiễm chất độc của thái độ chủ quan, thì cử hành phụng vụ giải
thoát chúng ta khỏi ngục tù của thái độ tự quy chiếu được vun đắp bởi lý luận
và cảm tính riêng của bản thân. Việc cử hành phụng vụ không thuộc về cá nhân
nhưng thuộc về Đức Kitô-Hội Thánh, về toàn thể các tín hữu hợp nhất trong Đức
Kitô. Phụng vụ không nói “tôi” mà nói “chúng tôi” và những hạn chế đối với tính
cách “chúng tôi” này luôn luôn là do ma quỷ. Phụng vụ không để chúng ta đơn độc
trong việc tìm kiếm sự hiểu biết mang tính cá nhân về mầu nhiệm Thiên Chúa,
nhưng nắm lấy tay chúng ta, cùng với mọi người, trong cộng đoàn, để dẫn chúng
ta vào mầu nhiệm mà Lời Chúa và các dấu chỉ bí tích bày tỏ cho chúng ta. Phụng
vụ thực hiện việc này, phù hợp với cách hành động của Thiên Chúa, theo phương
thức nhập thể, nghĩa là thông qua ngôn ngữ biểu tượng của thân xác, mở rộng đến
các vật thể trong không gian và thời gian.
20. Nếu thuyết tân-Pêlagiô đầu độc chúng ta khi cho rằng ơn cứu rỗi là do chúng ta giành được bằng nỗ lực của chính mình, thì các cử hành phụng vụ thanh luyện chúng ta bằng cách loan báo về quà tặng vô điều kiện là ơn cứu rỗi nhận được trong đức tin. Tham dự vào hy tế Thánh Thể không phải là một thành tích cá nhân, như thể chúng ta có thể khoe khoang trước Thiên Chúa hoặc trước anh chị em mình. Phần mở đầu mỗi Thánh lễ nhắc tôi nhớ tôi là ai, khi kêu gọi tôi thú nhận tội lỗi và xin Đức Trinh Nữ Maria, các thiên thần, các thánh và tất cả anh chị em của tôi khẩn cầu cho tôi trước tòa Chúa. Chắc chắn chúng ta không xứng đáng vào nhà Người, chúng ta cần Người phán một lời để chúng ta được cứu rỗi (x. Mt 8,8). Chúng ta không tự hào về điều gì khác ngoài thập giá của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta (x. Gl 6,14). Phụng vụ không liên quan gì đến chủ nghĩa luân lý khổ hạnh. Đây là một tặng phẩm của mầu nhiệm Chúa Kitô Phục sinh, để khi ngoan ngoãn đón nhận, cuộc sống chúng ta sẽ được đổi mới. Chúng ta bước vào nhà Tiệc ly chỉ vì được thu hút bởi nỗi khao khát của Chúa muốn ăn Lễ Vượt Qua với chúng ta: Desiderio desideravi hoc Pascha manducare vobiscum, antequam patiar (Lc 22,15).
Khám phá lại mỗi ngày vẻ đẹp đích thực của việc cử hành
Kitô giáo
21. Nhưng chúng ta
phải cẩn thận: để liều thuốc giải độc của Phụng vụ có hiệu lực, mỗi ngày chúng
ta cần khám phá lại vẻ đẹp đích thực của các cử hành Kitô giáo. Một lần nữa tôi
quy chiếu về ý nghĩa thần học, như được mô tả cách tuyệt vời trong số 7 của Sacrosanctum Concilium: Phụng vụ là chức
năng tư tế của Đức Kitô, được mặc khải và trao ban trong Mầu nhiệm Vượt Qua của
Người, được hiện tại hóa và tác động qua những dấu chỉ hữu hình (nước, dầu,
bánh, rượu, cử chỉ, lời nói), để Thần Khí dìm sâu chúng ta vào mầu nhiệm Vượt
Qua, và biến đổi toàn bộ cuộc sống của chúng ta, làm cho chúng ta ngày càng nên
đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô.
22. Việc liên tục
tái khám phá vẻ đẹp của Phụng vụ không phải là việc phô diễn nghi lễ bằng cách
cẩn thận tuân thủ các nghi thức bên ngoài hoặc tỉ mỉ giữ đúng luật chữ đỏ. Tất
nhiên, nói như thế không có nghĩa là tôi tán thành thái độ ngược lại, thái độ nhầm
lẫn giữa nét đơn giản với sự tầm thường bất cẩn, giữa điều thiết yếu với sự hời
hợt thiếu hiểu biết, hoặc giữa tính cụ thể của nghi lễ với quan điểm duy chức
năng quá mức trong thực hành.
23. Chúng ta hãy
nói rõ luôn: phải quan tâm đến tất cả các khía cạnh của việc cử hành (không
gian, thời gian, cử chỉ, lời nói, đồ vật, lễ phục, ca hát, âm nhạc, v.v.) và phải
tôn trọng từng điểm trong luật chữ đỏ: một thái độ chú ý như thế sẽ đủ để không
cướp mất quyền của cộng đoàn được cử hành mầu nhiệm Vượt Qua theo nghi thức do
Hội Thánh thiết lập. Nhưng ngay cả khi nghi lễ được cử hành cách tốt đẹp và
đúng quy định, thì điều đó vẫn chưa đủ để chúng ta thông phần cách trọn vẹn.
Thái độ ngỡ ngàng thán phục trước mầu nhiệm Vượt Qua: một
yếu tố thiết yếu của phụng vụ
24. Nếu không ngỡ
ngàng thán phục trước mầu nhiệm Vượt Qua được hiện tại hóa cách cụ thể qua các
dấu chỉ bí tích, chúng ta sẽ thực sự có nguy cơ không được dìm vào đại dương ân
sủng ngập tràn nơi từng cử hành phụng vụ. Những nỗ lực dù đáng khen trong việc
cải thiện phẩm chất của việc cử hành vẫn chưa đủ, vẫn chưa là lời kêu gọi hướng
đến một thái độ nội tâm sâu sắc hơn. Ngay cả thái độ nội tâm này cũng có nguy
cơ bị giản lược thành một thái độ chủ quan trống rỗng nếu không đón nhận mặc khải
của mầu nhiệm Kitô giáo. Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa không phải là kết quả của một
cuộc tìm kiếm nội tâm cá nhân, nhưng là một tặng phẩm: chúng ta có thể gặp gỡ
Thiên Chúa qua một hành động mới của việc Nhập thể đạt đến mức tận cùng trong Bữa
Tiệc Ly là muốn được trở thành của ăn nuôi dưỡng chúng ta. Lẽ nào chúng ta lại
đánh mất niềm hạnh phúc khi để mình không còn bị lôi cuốn trước vẻ đẹp của tặng
phẩm này?
25. Khi nói đến sự
ngỡ ngàng thán phục trước mầu nhiệm Vượt Qua, tôi hoàn toàn không định nói về
điều mà đối với tôi đôi khi được diễn tả bằng một thuật ngữ mơ hồ: “cảm thức về
mầu nhiệm. Đôi khi đây được cho là một trong những cáo buộc chính chống lại việc
cải cách phụng vụ. Có người bảo rằng cảm thức về mầu nhiệm đã bị loại bỏ khỏi
các cử hành. Sự ngỡ ngàng thán phục mà tôi nói đến không phải là việc bị choáng
váng trước một thực tại không hiểu nổi hay một nghi thức bí ẩn, nhưng ngược lại,
là sự ngỡ ngàng thán phục trước một sự kiện, đó là chương trình cứu độ của
Thiên Chúa đã được mặc khải cho chúng ta trong mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa
Giêsu (x. Ep 1,3-14), và hiệu năng của sự kiện Vượt Qua này tiếp tục đến với
chúng ta trong việc cử hành “các mầu nhiệm”, các bí tích. Một thực tế khác, đó
là sự phong phú của mặc khải trọn vẹn luôn vượt trên khả năng hữu hạn của con người
và sẽ nên hoàn tất vào lúc cùng tận thời gian, khi Chúa Kitô quang lâm. Với sự
ngỡ ngàng thán phục đúng nghĩa, chúng ta sẽ tránh được nguy cơ không nhận ra
Thiên Chúa đang hiện diện theo một cách thức khác, ngay cả khi cách thức đó
cũng giống như việc Nhập thể. Nếu cuộc cải cách đã loại bỏ được sự mơ hồ của “cảm
thức về mầu nhiệm” này, thì đây là một công trạng hơn là một lý do để buộc tội.
Vẻ đẹp, giống như chân lý, luôn khơi dậy sự ngưỡng mộ và khi liên quan đến mầu
nhiệm Thiên Chúa, sẽ trở thành thái độ tôn thờ.
26. Ngỡ ngàng thán phục là thái độ thiết yếu của hành động phụng vụ, vì đó là thái độ của những người biết họ đang tham dự vào tính cách đặc thù của các hành vi mang tính biểu tượng; đây là thái độ ngỡ ngàng thán phục của những người đang trải nghiệm năng lực của biểu tượng, năng lực ấy không dẫn đến những khái niệm trừu tượng, nhưng đúng hơn, chứa đựng và diễn đạt điều được biểu thị qua tính chất cụ thể của biểu tượng.
Sự cần thiết phải đào tạo phụng vụ cách nghiêm túc và gắn
liền với cuộc sống
27. Do đó, vấn đề
cơ bản là làm thế nào để phục hồi khả năng sống trọn vẹn các cử hành phụng vụ?
Đây là mục tiêu cải cách của Công đồng. Thách thức là vô cùng khắc nghiệt, vì
con người hiện đại - đang sống trong những nền văn hóa không ngang tầm với nhau
- đã mất đi khả năng tham gia vào những hành vi mang tính biểu tượng, một đặc
điểm thiết yếu của hành vi phụng vụ.
28. Trong thời hậu
hiện đại, con người cảm thấy bản thân ngày càng lạc lõng hơn, không có điểm quy
chiếu nào, mất đi nhiều giá trị do thái độ thờ ơ vô tâm, hoàn toàn mồ côi cô độc,
sống trong một mảnh đời vô nghĩa, ngày càng bị đè nặng bởi di sản do thời đại
trước để lại, bao gồm chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa chủ quan (một lần nữa gợi
lên những vấn đề liên quan đến thuyết Pêlagiô và thuyết Ngộ đạo). Di sản đó
cũng bao gồm chủ nghĩa tâm linh trừu tượng mâu thuẫn với chính bản chất con người,
vì con người là một tinh thần nhập thể và do đó, có khả năng hành động và hiểu
biết mang tính biểu tượng.
29. Hội Thánh, được
quy tụ trong Công Đồng, đã muốn tiếp xúc với chính thực tại này của thế giới hiện
đại, đang khi vẫn tái khẳng định ý thức mình là bí tích của Chúa Kitô, là Ánh
sáng các dân tộc (Lumen gentium), đặt
mình vào việc sốt sắng lắng nghe Lời Chúa (Dei
Verbum), và nhận lấy niềm vui và hy vọng của con người thời đại như của
chính mình (Gaudium et spes). Công đồng
là biểu hiện cao nhất của tính hiệp hành trong Hội Thánh, và cùng với tất cả
anh chị em, tôi được kêu gọi trở thành người gìn giữ kho tàng phong phú của
Công đồng. Các Hiến chế quan trọng của Công đồng không thể tách rời nhau, và
không phải ngẫu nhiên mà nỗ lực suy tư đầy giá trị này của Công đồng Đại kết đã
bắt đầu với việc suy tư về Phụng vụ (Sacrosanctum
Concilium).
30. Bế mạc kỳ họp thứ hai của Công đồng
(ngày 4 tháng 12 năm 1963), Thánh Phaolô
VI đã phát biểu: “Những cuộc thảo luận khó khăn và phức tạp đã có kết quả dồi
dào phong phú, đã đúc kết được một chủ đề, đó là Phụng vụ thánh. Chủ đề đã được
đề cập ngay từ đầu, theo một nghĩa nào đó, đây là vấn đề ưu tiên hơn tất cả các
vấn đề khác, xét về giá trị nội tại và tầm quan trọng trong đời sống Hội Thánh
và hôm nay tôi long trọng ban hành văn kiện về Phụng vụ. Tâm trí tôi phấn khởi
trong niềm vui thực sự, vì theo cách thức mọi việc đã diễn ra, tôi ghi nhận bậc
thang chính xác về giá trị và bổn phận đã được tôn trọng. Thiên Chúa phải ở vị
trí thứ nhất; cầu nguyện là bổn phận đầu tiên của chúng ta. Phụng vụ là nguồn mạch
đầu tiên của sự hiệp thông thần linh, trong đó Thiên Chúa chia sẻ sự sống của
chính Người cho chúng ta. Phụng vụ cũng là trường học đầu tiên của đời sống
thiêng liêng. Phụng vụ là món quà đầu tiên mà chúng ta phải trao cho các Kitô hữu
hợp nhất với chúng ta trong đức tin và lòng nhiệt thành cầu nguyện. Đây cũng là
lời mời đầu tiên gửi đến toàn thể nhân loại, để giờ đây mọi người có thể cất
cao giọng nói thầm lặng của mình trong một lời cầu nguyện thánh thiện và chân
thành, nhờ đó họ tìm thấy được sức mạnh khôn tả và có năng lực tái sinh, khi
cùng với chúng ta loan truyền lời ngợi khen Thiên Chúa cũng như niềm hy vọng của
trái tim con người qua Chúa Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần”.[7]
31. Trong thư này,
tôi không thể nói với anh chị em về sự phong phú của các cách diễn đạt khác
nhau trong diễn từ này, tôi khuyên anh chị em hãy suy niệm riêng về văn kiện ấy.
Nếu Phụng vụ là “tột đỉnh quy hướng mọi hoạt động của Hội Thánh, đồng
thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Hội Thánh” (Sacrosanctum Concilium, 10), thì chúng
ta có thể hiểu được những nguy cơ trong Phụng vụ. Có những căng thẳng, không may
xuất hiện chung quanh việc cử hành phụng vụ, nhưng thật tầm thường nếu cho đó
chỉ là sự khác biệt đơn giản do cảm nhận khác nhau về một dạng thức nghi lễ cá
biệt nào đó. Vấn đề chủ yếu là Giáo hội học. Tôi không hiểu sao một người vừa
công nhận tính hợp lệ của Công đồng - mặc dù tôi rất ngạc nhiên khi một người
công giáo lại có thể không công nhận điều đó - lại vừa không chấp nhận cuộc cải
cách phụng vụ khởi sinh từ Sacrosanctum
Concilium, một văn kiện diễn tả thực tại của phụng vụ trong mối liên hệ mật
thiết với tầm nhìn về Hội Thánh được mô tả cách tuyệt vời trong Lumen Gentium. Vì lý do này, như tôi đã
giải thích trong thư gửi cho tất cả các giám mục, tôi thấy mình có bổn phận phải
khẳng định rằng “các sách phụng vụ do Thánh Phaolô
VI và Thánh Gioan Phaolô II ban
hành, phù hợp với các sắc lệnh của Công đồng
Vatican II, là cách diễn đạt duy nhất của lex orandi (luật cầu nguyện) trong Nghi lễ Rôma” (Tự sắc Traditionis custodes, 1). Việc không chấp
nhận cũng như hiểu biết hời hợt về việc cải cách phụng vụ, làm chúng ta sao
lãng nhiệm vụ tìm lời giải đáp cho câu hỏi tôi muốn lặp lại ở đây: làm thế nào
để chúng ta tăng thêm khả năng sống trọn vẹn các hành động phụng vụ? Làm thế
nào để chúng ta có thể tiếp tục ngỡ ngàng thán phục trước những gì đang diễn ra
trước mắt chúng ta trong các cử hành phụng vụ? Chúng ta cần thực hiện việc đào
tạo phụng vụ cách nghiêm túc và gắn liền với cuộc sống.
32. Chúng ta hãy trở
lại Phòng Tiệc Ly ở Giêrusalem. Vào sáng ngày Lễ Ngũ Tuần, Hội Thánh được khai
sinh, tế bào đầu tiên của một nhân loại mới. Chỉ có cộng đoàn gồm những người,
nam cũng như nữ, đã được hòa giải nhờ ơn tha thứ, được sống vì Đức Kitô đang sống,
chân thật vì có Thần Khí sự thật ở cùng, mới có thể mở rộng không gian chật hẹp
của chủ nghĩa cá nhân trong đời sống thiêng liêng.
33. Chỉ có cộng
đoàn của ngày lễ Ngũ Tuần mới có thể cử hành lễ bẻ Bánh với niềm xác tín rằng
Chúa đang sống, Đấng đã sống lại từ cõi chết, đang hiện diện bằng lời của Người,
bằng cử chỉ của Người, bằng việc dâng Mình và Máu Người. Kể từ đó, cử hành phụng
vụ trở thành một nơi đặc biệt - mặc dù không phải là nơi duy nhất - của cuộc gặp
gỡ với Chúa. Chúng ta biết rằng chỉ qua ân sủng của cuộc gặp gỡ này, con người
mới trở thành con người trọn vẹn. Chỉ có Hội Thánh của lễ Ngũ tuần mới có thể
quan niệm con người là một nhân vị, mở rộng lòng đón nhận mối tương quan trọn vẹn
với Thiên Chúa, với muôn loài thụ tạo và với anh chị em của mình.
34. Chính trong cộng
đoàn đó, vấn đề mang tính quyết định về việc đào tạo phụng vụ được đặt ra.
Romano Guardini nói: “Đây là nhiệm vụ thực tế đầu tiên phải hoàn thành: cùng với
sự biến đổi nội tâm của thời đại chúng ta, chúng ta phải học lại cách sống mối
tương quan tôn giáo trong tư cách là những con người trọn vẹn”.[8]
Đây là điều có thể thực hiện được nhờ Phụng vụ. Và để làm được như thế, chúng
ta phải được đào tạo. Guardini không ngần ngại khẳng định rằng nếu không có đào
tạo phụng vụ, thì “việc cải cách các nghi thức và bản văn sẽ không giúp ích được
gì nhiều”.[9]
Ở đây tôi không có ý định giải quyết thấu đáo chủ đề rất phong phú của việc đào
tạo phụng vụ. Tôi chỉ muốn đưa ra một vài khởi điểm để suy tư. Tôi nghĩ chúng
ta có thể phân biệt hai khía cạnh: đào tạo cho phụng vụ và đào tạo qua phụng vụ.
Công việc thứ hai là thiết yếu và công việc thứ nhất phụ thuộc vào đó.
35. Cần phải tìm ra
những đường dẫn cho việc đào tạo trong nghiên cứu Phụng vụ. Ngay từ đầu, phong
trào phụng vụ đã thực hiện nhiều việc trong lĩnh vực này, với sự đóng góp quý
báu của các học giả và các học viện. Tuy nhiên, điều quan trọng bây giờ là phải
phổ biến kiến thức này ra ngoài môi trường học viện, có thể tiếp cận dễ dàng, để
mỗi tín hữu có thể gia tăng kiến thức về ý nghĩa thần học của Phụng vụ. Đây là
vấn đề mang tính quyết định, là nền tảng cho sự hiểu biết và thực hành phụng vụ.
Nó cũng hình thành nên chính việc cử hành, giúp mọi người có có khả năng hiểu
được các bản văn kinh nguyện, tính cách năng động và ý nghĩa nhân học của các
nghi lễ.
36. Tôi nghĩ đến nhịp
điệu đều đặn của các cộng đoàn được quy tụ để cử hành Thánh Thể vào ngày của
Chúa, Chúa Nhật này rồi Chúa Nhật sau, lễ Phục sinh này đến lễ Phục sinh năm tới,
vào những thời điểm cụ thể trong cuộc đời của từng cá nhân và cộng đoàn, ở tất
cả các độ tuổi khác nhau của cuộc sống. Các thừa tác viên đã lãnh chức thánh sẽ
thực thi tác vụ mục vụ có tầm quan trọng hàng đầu, khi các ngài cầm tay các tín
hữu đã được rửa tội để đưa họ vào những trải nghiệm thường xuyên của mầu nhiệm
Vượt Qua. Chúng ta hãy luôn nhớ rằng chính Hội Thánh, Nhiệm Thể Chúa Kitô, là
chủ thể cử hành chứ không chỉ là linh mục. Kiến thức có được từ việc học hỏi chỉ
là bước đầu tiên để có thể đi vào mầu nhiệm đang được cử hành. Thật quá rõ, để
có thể dẫn dắt anh chị em của mình, các thừa tác viên chủ sự cộng đoàn phải biết
đường đi, bằng cách vừa nắm rõ lộ trình trên bản đồ nghiên cứu thần học, vừa phải
siêng năng cử hành phụng vụ để có những trải nghiệm về một đức tin sống động,
được nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện, và chắc chắn không chỉ đơn thuần là thi
hành một bổn phận bó buộc. Trong lễ truyền chức, mỗi linh mục nghe giám mục
nói: “Hãy ý thức việc con làm, noi theo điều con cử hành, và rập mẫu đời sống
con theo mầu nhiệm Thánh giá Chúa”.[10]
37. Chương trình học về Phụng vụ trong các chủng viện cũng phải lưu ý đến năng lực phi thường của chính việc cử hành là cung cấp một tầm nhìn mang tính hệ thống và thống nhất về tất cả các kiến thức thần học. Mỗi môn thần học, trong từng lĩnh vực riêng biệt, phải thể hiện mối liên hệ mật thiết với Phụng vụ, để trong ánh sáng của Phụng vụ, chương trình thần học biểu lộ rõ nét và thực hiện tính cách thống nhất của việc đào tạo linh mục (x. Sacrosanctum Concilium 16). Một hệ thống liên kết phụng vụ và kiến thức trong chương trình đào tạo thần học tại các chủng viện chắc chắn sẽ có những tác động tích cực trong hoạt động mục vụ. Không chỉ là kết quả của những chương trình được soạn thảo kỹ lưỡng, việc thực hành mục vụ mang tính tổng hợp, có hệ thống và toàn diện, là kết quả của việc đặt Thánh Lễ Chúa Nhật, nền tảng của sự hiệp thông, làm trung tâm của đời sống cộng đoàn. Kiến thức thần học về Phụng vụ không cho phép hiểu những điều vừa nói có nghĩa là giản lược tất cả vào khía cạnh phụng tự. Một cử hành phụng vụ mà không rao giảng Tin mừng là một cử hành không xác thực, và cũng là không xác thực, nếu lời rao giảng không dẫn đến gặp gỡ với Chúa Phục sinh trong cử hành phụng vụ. Và cả hai việc này, nếu không có chứng từ của lòng bác ái, sẽ giống như tiếng cồng chiêng ồn ào hay tiếng chũm chọe vang rền (x. 1Cr 13,1).
38. Đối với các thừa
tác viên cũng như đối với tất cả những người đã được rửa tội, việc đào tạo phụng
vụ theo nghĩa chính yếu này, không phải là điều có thể đạt được một lần cho tất
cả. Vì ân huệ của mầu nhiệm được cử hành vượt quá khả năng hiểu biết của chúng
ta, nên cùng với nỗ lực này, mọi người phải thực hiện chương trình thường huấn,
đào tạo trường kỳ, với thái độ khiêm nhường của những kẻ bé mọn, một thái độ sẽ
mở ra thành ngưỡng mộ thán phục.
39. Một nhận xét cuối
về các chủng viện: ngoài chương trình học, chủng viện cũng phải cung cấp những
trải nghiệm về việc cử hành phụng vụ, không chỉ mẫu mực về phương diện nghi thức,
mà còn phải xác thực và sống động, để có thể sống hiệp thông thực sự với Thiên
Chúa, cũng là sự hiệp thông mà kiến thức thần học phải hướng tới. Chỉ có tác động
của Thánh Thần mới có thể giúp chúng ta hoàn thiện kiến thức về mầu nhiệm Thiên
Chúa, vì mầu nhiệm này không phải là vấn đề thuộc dạng hiểu được bằng trí tuệ,
mà là về mối tương quan ảnh hưởng đến tất cả cuộc sống. Đây là một trải nghiệm
nền tảng để khi được truyền chức, các chủng sinh có thể đồng hành với các cộng
đoàn trong cùng một hành trình nhận biết mầu nhiệm Thiên Chúa, mầu nhiệm tình
yêu.
40. Nhận định này mời
gọi chúng ta suy tư về ý nghĩa thứ hai của thuật ngữ “đào tạo phụng vụ”. Tôi muốn
đề cập đến việc chúng ta, mỗi người trong ơn gọi của mình, được đào tạo nhờ việc
tham gia cử hành phụng vụ. Ngay cả kiến thức có được nhờ nghiên cứu học hỏi như
tôi vừa mới nói, nếu không muốn trở thành duy lý, phải phục vụ cho chức năng
đào tạo của Phụng vụ được thực thi nơi mỗi tín hữu trong Chúa Kitô.
41. Qua tất cả những
gì chúng ta đã nói về bản chất của Phụng vụ, có thể thấy rõ là sự hiểu biết về
mầu nhiệm Chúa Kitô, một vấn đề mang tính quyết định cho cuộc đời chúng ta,
không là việc tâm trí thấu triệt một ý tưởng nào đó, nhưng là sự gắn bó hiện
sinh thực sự với con người của Người. Theo nghĩa này, Phụng vụ không thuộc lĩnh
vực “tri thức”, và chức năng chủ yếu không phải là sư phạm, mặc dù có giá trị
sư phạm rất lớn (x. Sacrosanctum Concilium 33). Đúng hơn, Phụng vụ là lời ngợi
khen, lời tạ ơn về mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Con, mầu nhiệm đang tác động đến
đời sống chúng ta. Việc cử hành liên quan đến thực trạng của con người chúng ta
trong việc ngoan ngoãn sống theo tác động của Thánh Thần, Đấng luôn hoạt động
cho đến khi Chúa Kitô được hình thành trong chúng ta (x. Gl 4,19). Mức độ trọn
vẹn của việc đào tạo là chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô. Tôi xin
nhắc lại, đó không phải là một tiến trình trừu tượng trong tâm trí, mà là việc
trở nên chính Chúa Kitô. Chính vì mục đích này mà Thánh Linh được trao ban, và
tác động của Người bao giờ cũng chỉ nhằm xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô. Nhiệm thể
được xây dựng với bánh Thánh Thể, và với việc mỗi người tín hữu được kêu gọi
ngày càng trở nên điều đã nhận được như một hồng ân trong bí tích Rửa Tội, đó
là trở thành chi thể của Nhiệm thể Chúa Kitô. Thánh Lêô Cả viết: “Việc thông dự
vào Mình và Máu Chúa Kitô không hướng đến điều nào khác hơn là làm cho chúng ta
trở thành Đấng chúng ta ăn”.[11]
42. Việc thông phần
hiện sinh này - tiếp nối và liên hệ mật thiết với phương thức Nhập thể - mang
chiều kích bí tích. Phụng vụ được cử hành với những chất thể hữu hình ngược với
những điều trừu tượng thiêng liêng: bánh, rượu, dầu, nước, hương, lửa, tro, đá,
vải, màu sắc, cơ thể, lời nói, âm thanh, thinh lặng, cử chỉ, không gian, chuyển
động, hành động, nghi thức, thời gian, ánh sáng. Toàn thể thụ tạo là biểu hiện
của tình yêu Thiên Chúa, và từ khi tình yêu này thể hiện trọn vẹn nơi thập giá
Chúa Giêsu, tất cả muôn loài thụ tạo đều hướng về tình yêu ấy. Có thể nói toàn
thể thụ tạo đều phục vụ cho cuộc gặp gỡ với Ngôi Lời: nhập thể, chịu đóng đinh,
chết, sống lại, lên trời về với Chúa Cha, như lời nguyện đọc trên nước nơi Giếng
Rửa Tội, lời nguyện trên dầu thánh và lời nguyện dâng tiến bánh rượu: tất cả
hoa màu ruộng đất và lao công của con người.
43. Phụng vụ tôn
vinh Thiên Chúa không phải vì chúng ta có thể thêm một điều gì đó vào vẻ đẹp của
ánh sáng không thể đạt đến trong đó Thiên Chúa luôn ngự trị (x. 1Tm 6,16).
Chúng ta cũng không thể thêm gì vào sự hoàn hảo của bài ca thiên thần vang lên
đời đời trên các tầng trời. Phụng vụ tôn vinh Thiên Chúa vì cho phép chúng ta
đang ở đây, trên trái đất, được nhìn thấy Thiên Chúa trong việc cử hành các mầu
nhiệm, và khi nhìn thấy Người, chúng ta lại được sống nhờ lễ Vượt Qua của Người.
Chúng ta, những người đã chết trong tội lỗi và được sống lại với Chúa Kitô,
chúng ta là vinh quang của Thiên Chúa. Chính nhờ ân sủng mà chúng ta được cứu rỗi
(x. Ep 2, 5). Thánh Irênê, vị tiến sĩ của sự hợp nhất, nhắc nhở chúng ta: “Vinh
quang của Thiên Chúa là con người đang sống, và sự sống của con người hệ tại ở
việc nhìn thấy Thiên Chúa: nếu sự mặc khải của Thiên Chúa qua công trình tạo dựng
đã đem đến sự sống cho tất cả các sinh vật trên trái đất, thì còn hơn thế, sự tỏ
mình của Chúa Cha qua Ngôi Lời là nguồn mạch sự sống cho những ai nhìn thấy
Thiên Chúa”.[12]
44. Guardini viết:
“Đây là nhiệm vụ đầu tiên của việc đào tạo phụng vụ: con người phải một lần nữa
tìm lại được khả năng hiểu được biểu tượng”.[13]
Đó là trách nhiệm của tất cả mọi người, của các thừa tác viên đã lãnh chức
thánh cũng như của các tín hữu. Đây không phải là một nhiệm vụ dễ dàng, vì con
người hiện đại đã trở nên thất học, không còn biết đọc các biểu tượng; dường
như cũng chẳng nghĩ đến việc có biểu tượng hay không nữa. Điều này cũng xảy ra
với tính cách biểu tượng của thân xác. Thân xác chúng ta là một biểu tượng, vì
là sự kết hợp mật thiết giữa hồn và xác; linh hồn thiêng liêng được nhìn thấy
qua thân xác vật chất; và trong đó chứa đựng duy nhất tính, một đặc tính của
con người không thể có ở bất kỳ loại sinh vật nào khác. Khả năng hướng đến siêu
việt, hướng đến Thiên Chúa, là yếu tố cấu thành chúng ta. Nếu không nhận ra điều
đó, chắc chắn chúng ta không chỉ không biết về Thiên Chúa mà còn không biết về
chính mình. Để nhận ra điều đó, chỉ cần nhìn vào những cách đối xử ngược đời với
thân xác: lúc thì chăm sóc quá đáng vì tin vào huyền thoại về tuổi trẻ vĩnh cửu,
lúc khác lại hạ thân xác xuống thành một thứ vật chất không còn phẩm giá gì cả.
Thực tế là người ta không thể thấy thân xác có giá trị nếu như chỉ nhìn vào
chính thân xác. Biểu tượng nào cũng vừa mạnh mẽ vừa mong manh. Nếu không được
tôn trọng, nếu không được hiểu chính xác, nó sẽ đổ vỡ, mất đi sức mạnh và trở
nên vô nghĩa.
Chúng ta không còn
có cái nhìn của Thánh Phanxicô, ngài nhìn vào mặt trời - mà ngài gọi là “ông
anh” vì ngài cảm thấy như vậy - ngài thấy nó quá đẹp và rạng ngời rực rỡ, và
ngài hát lên với cả tâm tình ngưỡng mộ: lạy Đấng Tối cao, mặt trời giống Ngài
quá.[14]
Việc mất khả năng nắm bắt giá trị biểu tượng của thân xác và của các vật thụ tạo
làm cho ngôn ngữ biểu tượng của Phụng vụ hầu như không thể tiếp cận được với
não trạng hiện đại. Tuy nhiên, vấn đề không phải là từ bỏ ngôn ngữ này. Chúng
ta không được từ bỏ ngôn ngữ biểu tượng vì đây là cách Chúa Ba Ngôi đã chọn để
đến với chúng ta qua máu thịt của Ngôi Lời. Đúng hơn, vấn đề là khôi phục khả
năng sử dụng và hiểu các biểu tượng phụng vụ. Chúng ta vẫn hy vọng, vì như tôi
vừa nói, đây là chiều kích cấu thành trong chúng ta, và bất chấp những sai lầm
của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy linh - cả hai đều phủ nhận sự thống nhất
của linh hồn và thể xác - chiều kích đó luôn sẵn sàng xuất hiện trở lại, sự thật
nào cũng thế.
45. Vì vậy, câu hỏi
tôi muốn đặt ra là làm thế nào để chúng ta có lại khả năng biểu tượng? Làm thế
nào để chúng ta lại biết cách đọc và sống các biểu tượng? Chúng ta biết rõ rằng,
bởi ân sủng của Thiên Chúa, việc cử hành các bí tích có hiệu năng ex opere operato (hiệu năng do sự),
nhưng điều này không bảo đảm rằng mọi người sẽ tham dự trọn vẹn nếu họ không hiểu
được ngôn ngữ của cử hành một cách thích đáng. Khả năng “đọc” biểu tượng không
phải là kiến thức của trí tuệ, cũng không phải là hiểu biết các khái niệm, mà
là một kinh nghiệm sống.
46. Trước tiên
chúng ta phải lấy lại niềm tin vào các thụ tạo. Ý tôi muốn nói là các thụ tạo đều
do Thiên Chúa tạo dựng, và các bí tích “được làm” bằng các vật ấy. Chúng quy hướng
về Người, và chính Người đã sử dụng chúng, cách cụ thể trong công trình Nhập thể,
để chúng trở thành khí cụ cứu rỗi, phương tiện của Thánh Thần, máng chuyển ân sủng.
Quan điểm này rõ ràng khác xa quan điểm duy vật hoặc duy linh. Nếu các thụ tạo
là một phần cơ bản, thiết yếu của các bí tích mang lại ơn cứu rỗi như thế, thì
chúng ta phải sẵn sàng gặp gỡ chúng với một cái nhìn mới, sâu sắc, với sự tôn
trọng và biết ơn. Ngay từ khởi nguyên, các thụ tạo đã chứa đựng mầm mống của ơn
thánh hóa nơi các bí tích.
47. Vẫn trong ý tưởng liên quan đến cách thức Phụng vụ đào tạo chúng ta, một vấn đề mang tính quyết định khác là cần có sự dạy dỗ hướng đến một thái độ nội tâm cho phép chúng ta sử dụng và hiểu các biểu tượng phụng vụ. Tôi xin trình bày cách đơn giản. Tôi đang nghĩ đến cha mẹ, hoặc là ông bà, kể cả các linh mục và giáo lý viên của chúng ta. Nhiều người trong chúng ta đã học được nơi họ về năng lực của các cử chỉ phụng vụ, như dấu thánh giá, quỳ gối, các điều chúng ta phải tin. Có lẽ bây giờ chúng ta không còn nhớ đã học như thế nào, nhưng chúng ta có thể dễ dàng hình dung ra cử chỉ của một bàn tay lớn nắm lấy bàn tay nhỏ bé của một đứa trẻ và chậm rãi vẽ trên người đứa bé dấu hiệu của ơn cứu rỗi lần đầu tiên. Những lời đi kèm với động tác cũng được đọc lên cách chậm rãi, như muốn nắm giữ từng khoảnh khắc của cử chỉ, như muốn chiếm hữu toàn thể thân xác: “Nhân danh Cha… và Con… và Thánh Thần. … Amen”. Và sau đó buông tay đứa trẻ, nhìn nó một mình lặp lại động tác ấy, sẵn sàng giúp đỡ nó nếu cần. Động tác này giờ đây lại được thực hiện, như chiếc áo cùng lớn lên với đứa bé, mặc cho nó một ý nghĩa mà chỉ có Chúa Thánh Thần mới biết. Từ lúc đó, cử chỉ này và năng lực biểu tượng của nó, đã là của chúng ta, đã thuộc về chúng ta, hay nói đúng hơn, chúng ta thuộc về nó. Cử chỉ ấy hình thành chúng ta. Chúng ta được đào tạo bởi động tác đó. Ở đây không cần phải nói nhiều. Không nhất thiết phải hiểu mọi thứ trong cử chỉ này. Điều cần thiết là phải đơn sơ bé nhỏ, cả bên truyền đạt cũng như bên tiếp nhận. Phần còn lại là công việc của Thánh Thần. Đây là cách chúng ta làm quen với ngôn ngữ biểu tượng. Chúng ta không muốn để mình bị tước mất một gia sản to tát như thế. Khi lớn lên, chúng ta sẽ có thêm nhiều cách khác để hiểu biết, nhưng luôn với điều kiện là chúng ta vẫn còn là những người bé mọn.
“Ars celebrandi” - Nghệ thuật cử hành Phụng vụ
48. Một trong những
cách chăm sóc và tăng triển trong sự hiểu biết cần thiết về các biểu tượng
trong Phụng vụ, đó là “ars celebrandi” - nghệ thuật cử hành. Có những giải
thích khác nhau về biểu thức “ars celebrandi”. Ý nghĩa của nó trở nên rõ ràng nếu
chúng ta tham khảo ý nghĩa thần học của Phụng vụ được mô tả trong số 7 của
Sacrosanctum Concilium, mà tôi đã nhiều lần đề cập đến. Không được giản lược
ars celebrandi vào thái độ tuân giữ cách máy móc các luật chữ đỏ, càng không được
coi đó là sáng tạo - có khi là bừa bãi -, không có quy tắc. Bản thân nghi thức
là một quy định, và quy định không phải là mục đích tự thân, nhưng nó phục vụ
cho một thực thể cao hơn mà nó muốn bảo vệ.
49. Như bất kỳ nghệ
thuật nào, ars celebrandi đòi hỏi nhiều
loại kiến thức khác nhau. Trước tiên, nghệ thuật này đòi hỏi phải hiểu biết về
tính năng động trong Phụng vụ. Cử hành phụng vụ là lúc tưởng niệm mầu nhiệm Vượt
Qua được hiện tại hóa, để các tín hữu, khi tham dự, có thể cảm nghiệm mầu nhiệm
ấy trong cuộc sống. Nếu không có sự hiểu biết này, việc cử hành có thể chỉ bận
tâm đến hình thức bên ngoài (hơn kém về mức độ tinh tế) hoặc quan tâm đến luật
chữ đỏ (hơn kém về tính cứng nhắc). Sau đó, cần phải biết về cách thức Chúa
Thánh Thần tác động trong mỗi cử hành. Nghệ thuật cử hành phải hòa hợp với hành
động của Thánh Thần. Chỉ như vậy, nghệ thuật cử hành mới thoát khỏi tính cách
chủ quan, chiều theo thị hiếu cá nhân. Chỉ bằng cách này, nghệ thuật cử hành mới
thoát khỏi sự xâm nhập của các yếu tố văn hóa chưa được phân định và không liên
quan gì đến việc hội nhập văn hóa đúng nghĩa.
Cuối cùng, cần phải
hiểu về tính năng động, về bản chất đặc thù và những hiệu năng của ngôn ngữ biểu
tượng.
50. Qua những chỉ dẫn
ngắn gọn này, rõ ràng là nghệ thuật cử hành không thể tùy tiện, ngẫu hứng. Như
bất kỳ nghệ thuật nào, nghệ thuật cử hành đòi hỏi sự ứng dụng nhất quán. Đối với
một người thợ, kỹ thuật là đủ. Nhưng đối với một nghệ sĩ, ngoài kiến thức kỹ
thuật, cần phải có cảm hứng, đây là một dạng thức tích cực của vấn đề sở hữu.
Người nghệ sĩ chân chính không sở hữu một nghệ thuật, nhưng đúng hơn người ấy
được nghệ thuật chiếm hữu. Không thể học nghệ thuật cử hành bằng cách dự một
khóa học về kỹ năng nói trước công chúng hoặc kỹ năng thuyết phục trong giao tiếp.
(Tôi không đánh giá về ý hướng, tôi chỉ quan sát các hiệu quả). Công cụ nào
cũng có thể hữu ích, nhưng nó phải phục vụ bản chất của Phụng vụ và hoạt động của
Chúa Thánh Thần. Phải luôn dành trọn tâm ý cho việc cử hành, để chính việc cử
hành truyền tải nghệ thuật cho chúng ta. Guardini viết: “Chúng ta phải hiểu rằng
chúng ta đã lún sâu như thế nào vào chủ nghĩa cá nhân và thái độ chủ quan,
chúng ta đã trở nên xa lạ như thế nào với những đòi hỏi của những điều “cao cả”
và các chiều kích trong đời sống đạo của chúng ta nhỏ bé đến mức nào. Chúng ta
phải ý thức lại cung cách cao cả của việc cầu nguyện cũng như ý hướng hiện sinh
trong lời cầu nguyện. Tuy nhiên, để đạt được điều này, phải tuân giữ kỷ luật, từ
bỏ tình cảm ủy mị; phải làm việc nghiêm túc, tuân phục Hội Thánh, trong con người
và các hành động thờ phượng của chúng ta”.[15]
Đó chính là cách học nghệ thuật cử hành.
51. Chúng ta có xu
hướng nghĩ là chủ đề này chỉ liên quan đến các thừa tác viên đã lãnh chức thánh
đang thực hiện nhiệm vụ của vị chủ sự. Nhưng trên thực tế, đó là một thái độ mà
tất cả những người đã được rửa tội đều được mời gọi để sống. Tôi nghĩ đến tất cả
các cử chỉ và lời nói thuộc về cộng đoàn: quy tụ, nghiêm trang đi trong đoàn rước,
ngồi, đứng, quỳ, hát, im lặng, tung hô, nhìn, nghe. Có nhiều cách để cộng đoàn,
tất cả như một (Nhm 8,1), thông phần
vào việc cử hành. Tất cả cùng làm một cử chỉ như nhau, tất cả cùng chung một giọng
nói - điều này truyền tải cho mỗi cá nhân năng lượng của toàn thể cộng đoàn. Đó
là sự đồng nhất không làm chết đi mà trái lại, dạy cho từng cá nhân tín hữu
khám phá ra tính duy nhất đích thực của nhân vị, không phải trong thái độ cá
nhân chủ nghĩa nhưng trong nhận thức về việc tất cả là một thân thể. Vấn đề
không phải là làm theo một quyển sách về nghi thức phụng vụ. Đúng hơn, theo
cách nói của Guardini, đó là “kỷ luật” sẽ đào tạo chúng ta, nếu được chúng ta
tuân giữ cách xác đáng. Đây là những cử chỉ và lời nói làm lắng đọng thế giới nội
tâm trong chúng ta, giúp chúng ta sống những cảm xúc, thái độ, hành vi nào đó.
Những cử chỉ và lời nói đó không phải là lời giải thích về một lý tưởng mà
chúng ta đang kiếm tìm để gợi lên cho chúng ta những tâm tình cảm nghĩ, nhưng
thay vào đó, là một hành động của thân xác trong trạng thái toàn vẹn, nghĩa là
trong con người toàn diện với cả thân xác và linh hồn.
52. Trong số các động
tác nghi lễ dành cho toàn thể cộng đoàn, thinh lặng chiếm một vị trí quan trọng
tuyệt đối. Động tác này được quy định rõ trong luật chữ đỏ. Toàn bộ việc cử
hành Thánh Thể chìm đắm trong thinh lặng trước khi bắt đầu và đánh dấu mọi khoảnh
khắc của nghi lễ đang diễn ra. Thật vậy, mọi người thinh lặng trong nghi thức
sám hối, sau lời mời gọi “Chúng ta hãy cầu nguyện”, trong Phụng vụ Lời Chúa
(trước các bài đọc, giữa các bài đọc và sau bài giảng), trong Kinh nguyện Thánh
Thể, sau khi hiệp lễ.[16]
Thinh lặng không phải là nơi ẩn náu để thu mình trong một kiểu cô lập nội tâm
nào đó, như thể muốn rời khỏi những nghi thức làm phân tâm chia trí. Kiểu thinh
lặng đó mâu thuẫn với bản chất của cử hành phụng vụ. Thinh lặng trong Phụng vụ
là một điều gì đó cao siêu hơn nhiều: đây là biểu tượng của sự hiện diện và
hành động của Chúa Thánh Thần, Đấng làm sinh động toàn bộ việc cử hành. Vì thế,
thinh lặng là cao điểm của một trình tự phụng vụ. Chính vì là biểu tượng của
Thánh Thần, nên thinh lặng có sức mạnh thể hiện hành động đa dạng của Thánh Thần.
Theo cách này, trong những khoảnh khắc tôi vừa đề cập, thinh lặng đưa đến tâm
tình đau buồn vì tội lỗi và ước muốn được hoán cải, đánh thức tâm trí sẵn sàng
lắng nghe Lời Chúa và cầu nguyện. Chúng ta thinh lặng để tôn thờ Mình và Máu
Chúa Kitô. Nơi mỗi người, khi kết hiệp mật thiết với Chúa, thinh lặng gợi lên
điều Thánh Thần muốn tác động trong cuộc sống để làm cho chúng ta trở nên tấm
Bánh được bẻ ra. Vì tất cả những lý do đó, chúng ta được kêu gọi thực hiện thật
sốt sắng phút thinh lặng như một động tác mang tính biểu tượng, để qua đó chúng
ta được Chúa Thánh Thần uốn nắn.
53. Mỗi cử chỉ và lời
nói đều chứa đựng một tác động chính xác luôn mới mẻ, vì được đặt trong một thời
điểm cũng luôn mới mẻ trong cuộc sống chúng ta. Tôi xin giải thích điều này bằng
một ví dụ đơn giản. Chúng ta quỳ gối để cầu xin ơn tha thứ, để bẻ gập tính kiêu
ngạo, để dâng lên Chúa những giọt nước mắt, để xin Người phù trợ, để cảm ơn Người
về một ân huệ đã nhận được. Đó luôn là một cử chỉ tự nó đã cho thấy con người
chúng ta thật nhỏ bé trước mặt Chúa. Tuy nhiên, được thực hiện trong những thời
điểm khác nhau của cuộc sống, động tác này tạo nên chiều sâu nội tâm để rồi thể
hiện ra bên ngoài trong mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa và với anh
chị em chúng ta. Hãy thực hiện động tác quỳ gối cách nghệ thuật, nghĩa là với
nhận thức đầy đủ về ý nghĩa biểu tượng và sự cần thiết của cử chỉ này để thể hiện
cách chúng ta hiện diện trước mặt Chúa. Và nếu tất cả những điều vừa nói áp dụng
đúng cho cử chỉ đơn giản này, thì việc cử hành Lời Chúa sẽ còn hơn như thế nào
nữa? À, vậy thì chúng ta được mời gọi phải học nghệ thuật nào cho việc công bố
Lời, lắng nghe Lời, để Lời Chúa khơi nguồn cho lời cầu nguyện của chúng ta, để
Lời Chúa trở thành chính cuộc sống của chúng ta? Tất cả những điều này đáng được
quan tâm tối đa - không phải về hình thức hay chỉ đơn thuần bên ngoài, nhưng là
liên quan đến cuộc sống và đời nội tâm - để từng cử chỉ và lời nói của cử hành
phụng vụ, khi được thể hiện cách “nghệ thuật,” sẽ hình thành nhân cách Kitô hữu
của mỗi cá nhân và của cả cộng đoàn.
54. Nếu toàn thể cộng đoàn phụng vụ cần đến ars celebrandi, thì các thừa tác viên đã lãnh chức thánh càng phải quan tâm đặc biệt hơn. Khi đến thăm các cộng đoàn Kitô hữu, tôi nhận thấy cách họ sống các cử hành phụng vụ - dù tốt hơn hay đáng tiếc là tệ hơn - đều tùy vào cung cách chủ sự của linh mục trong cộng đoàn. Có thể nói là có nhiều “mô hình” chủ sự khác nhau. Dưới đây là danh sách những phương pháp dễ nhận ra, mặc dù trái ngược nhau, nhưng tiêu biểu cho cách chủ sự chắc chắn là không phù hợp: khắc khổ cứng nhắc hoặc sáng tạo quá đáng, thần bí hóa hoặc duy chức năng, nhanh chóng vội vàng hoặc chậm chạp quá mức, bất cẩn cẩu thả hoặc tỉ mỉ cực đoan, thân thiện quá mức hoặc vô cảm lạnh lùng. Mặc dù nhiều ví dụ như thế, tôi nghĩ rằng sự bất cập của các mô hình chủ sự này có gốc rễ chung: thái độ đề cao bản thân trong phong cách cử hành, đôi khi thể hiện cách lộ liễu thói tật muốn trở thành trung tâm của sự chú ý. Điều này thường được thấy rõ hơn trong các cử hành được phát thanh, truyền hình hay trực tuyến trên mạng internet, có điều gì đó không phải lúc nào cũng tốt đẹp và vì thế cần phải nghiên cứu thêm. Xin anh chị em hiểu rõ điều tôi nói: những cách cử hành này không phải là phổ biến nhất, nhưng cho đến bây giờ, nhiều cộng đoàn vẫn còn phải khốn khổ vì những lạm dụng như thế.
55. Có lẽ còn nhiều
điều phải nói về tầm quan trọng và những yêu cầu của việc chủ sự. Tôi đã nhiều
lần nói đến nhiệm vụ phải giảng lễ.[17]
Ở đây, tôi chỉ nói về một số nhận định tổng quát khác, trong ý muốn cùng anh chị
em suy nghĩ về cách chúng ta được đào tạo nhờ Phụng vụ. Tôi nghĩ về việc cử
hành đều đặn Thánh lễ Chúa nhật tại các cộng đoàn, và khi nói với các linh mục,
cũng ngầm hiểu là với tất cả các thừa tác viên đã lãnh chức thánh.
56. Linh mục thông
phần cách đặc biệt vào việc cử hành phụng vụ nhờ ân sủng của bí tích Truyền Chức
Thánh, và điều này thể hiện rõ trong vai trò chủ sự. Như tất cả các phận vụ
khác, đây không phải là một bổn phận do cộng đoàn giao cho linh mục, nhưng là hệ
quả của việc tuôn đổ Thánh Thần trên linh mục trong lễ truyền chức, để trao tác
vụ này cho ngài. Linh mục cũng được đào tạo nhờ việc chủ sự trong cộng đoàn phụng
vụ.
57. Để việc phục vụ
này được thực hiện tốt - dĩ nhiên là với nghệ thuật - điều quan trọng cơ bản là
linh mục, nhờ lòng Thiên Chúa xót thương, phải ý thức sâu sắc về sự hiện diện đặc
biệt của Chúa Kitô Phục sinh. Chính bản thân thừa tác viên đã lãnh chức thánh
là một trong những cách thức hiện diện của Chúa, điều này làm cho cộng đoàn
Kitô hữu trở nên độc đáo, khác với bất kỳ cộng đoàn nào khác. (x. Sacrosanctum Concilium 7) Sự kiện này
mang lại chiều sâu “bí tích” (theo nghĩa rộng) cho tất cả các cử chỉ và lời nói
của vị chủ sự. Phải liệu thế nào để qua những cử chỉ và lời nói của chủ sự, cộng
đoàn có thể cảm nhận được điều Chúa khát mong, hôm nay cũng như trong Bữa Tiệc
Ly, là được ăn lễ Vượt Qua với chúng ta. Như thế, Chúa Phục sinh là nhân vật
chính, chứ không phải bản thân non nớt của chúng ta đang đảm nhận những phận vụ
và hành động rõ ràng là vượt quá khả năng của con người. Linh mục nên để mình
được đong đầy nỗi khao khát hiệp thông mà Chúa dành cho mỗi người. Hãy làm như
mình đang đứng giữa trái tim Chúa Giêsu đang bừng cháy lửa yêu thương và trái
tim của mỗi tín hữu, đối tượng của tình yêu Chúa. Chủ sự bí tích Thánh Thể là đặt
mình vào lò lửa tình yêu của Thiên Chúa. Khi đã hiểu thực tại này, hoặc thậm
chí chỉ trực giác về một điểm nào đó, chắc chắn chúng ta sẽ không cần đến một Bản
chỉ dẫn nào nữa để có được hành vi thích hợp. Nếu chúng ta còn cần đến Bản chỉ
dẫn, đó là vì trái tim chúng ta còn cứng
cỏi. Tiêu chuẩn cao nhất, và cũng là đòi hỏi khắt khe nhất, chính là thực tại
của việc cử hành Thánh Thể, thực tại đó sẽ chọn lọc những lời nói, cử chỉ, cảm
xúc làm cho chúng ta hiểu được việc chúng ta sử dụng những yếu tố đó có ngang tầm
với thực tại mà chúng phục vụ hay không. Rõ ràng đây là việc không thể làm tùy
hứng được. Đó là một nghệ thuật. Nó đòi hỏi linh mục phải chú tâm, phải chuyên
cần nỗ lực để ngọn lửa tình yêu Chúa đã mang đến được bùng cháy trên trái đất.
(x. Lc 12,49)
58. Khi bẻ bánh
theo như Chúa truyền dạy, cộng đoàn tiên khởi đã làm dưới ánh mắt của Đức
Maria, người đã đồng hành với Hội Thánh trong những bước đi đầu tiên: “Mọi người
đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện, cùng với một số phụ nữ, với Đức Maria, thân mẫu
Chúa Giêsu và các anh em Người” (Cv 1,14). Mẹ “dõi theo” những cử chỉ mà Con Mẹ
đã trao cho các Tông đồ. Cũng như Mẹ đã bảo toàn Ngôi Lời mặc lấy xác phàm
trong lòng Mẹ sau khi nhận lời của sứ thần Gabriel, giờ đây một lần nữa Mẹ lại
bảo toàn trong lòng Hội Thánh những cử chỉ hình thành nên Nhiệm thể Con của Mẹ.
Linh mục, người lặp lại những cử chỉ đó do ân sủng đã lãnh nhận trong bí tích
Truyền Chức Thánh, chính ngài được bảo vệ trong cung lòng Đức Trinh Nữ. Chúng
ta có thực sự cần một quy tắc nào ở đây để bảo cho chúng ta biết phải làm như
thế nào không?
59. Khi đã trở
thành khí cụ để làm bùng cháy ngọn lửa tình yêu của Chúa trên trái đất, được
che chở trong cung lòng của Đức Maria, người Trinh Nữ đã làm nên Hội Thánh (như
Thánh Phanxicô đã hát về Mẹ), các linh mục phải để cho mình được Chúa Thánh Thần
tác động, để Người hoàn tất việc Người đã khởi sự nơi họ trong ngày họ được
truyền chức. Tác động của Thánh Thần giúp cho các linh mục có thể thi hành phận
vụ chủ sự cộng đoàn Thánh Thể với tâm tình kính sợ như Phêrô, ý thức mình là
người tội lỗi (Lc 5,1-11), với lòng khiêm nhường thẳm sâu của người tôi tớ đau
khổ (x. Is 42tt), và vớimong muốn “được ăn” bởi những người được giao
phó cho mình khi thi hành tác vụ hằng ngày.
60. Chính việc cử
hành đào tạo linh mục hướng đến trình độ và phẩm chất này của người chủ sự. Tôi
nhắc lại, đây không phải là thái độ ưng thuận của tâm trí, cho dù toàn bộ tâm
trí cũng như tất cả cảm xúc của chúng ta phải tham gia vào đó. Như thế, linh mục
được đào tạo qua việc chủ sự với những lời nói và cử chỉ mà Phụng vụ đặt trên
môi và trên tay ngài. Linh mục không ngồi trên một ngai tòa[18]
vì Chúa là Đấng cai trị với sự khiêm nhường của một người phục vụ. Linh mục
không được cướp mất sự chú ý phải dành cho tính cách trung tâm của bàn thờ, một
dấu chỉ của Chúa Kitô, Đấng mà từ cạnh sườn
bị đâm thâu, máu và nước chảy ra để nên nguồn mạch phát sinh các bí tích của Hội
Thánh và là tâm điểm của việc ca ngợi và tạ ơn Chúa.[19]
Khi dâng của lễ nơi
bàn thờ, linh mục được dạy về đức khiêm nhường và thống hối qua lời cầu nguyện:
“Lạy Chúa, xin thương nhận chúng con đang thành tâm khiêm nhường thống hối, và
xin cho hy lễ chúng con dâng trước tôn nhan Chúa hôm nay được đẹp lòng Chúa”.[20]
Linh mục không được cậy dựa vào bản thân về tác vụ đã được trao phó, vì Phụng vụ
mời gọi linh mục cầu nguyện để được thanh tẩy qua dấu chỉ nước: “Lạy Chúa, xin
rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con đã phạm, xin Ngài thanh tẩy”.[21]
Những lời mà Phụng
vụ đặt trên môi miệng linh mục có những nội dung khác nhau, đòi hỏi những âm giọng
đặc biệt. Tầm quan trọng của những lời này đòi hỏi một nghệ thuật đọc nói chuẩn
xác. Những lời này định hình cho những cảm xúc nội tâm, lúc thì khẩn cầu Chúa
Cha nhân danh cộng đoàn, lúc thì ngỏ lời huấn dụ với cộng đoàn, lúc khác thì
chung lời tung hô với toàn thể cộng đoàn.
Trong Kinh Nguyện
Thánh Thể - đang khi tất cả những người đã được rửa tội cũng được tham dự bằng
cách lắng nghe với thái độ tôn kính và
thinh lặng, đan xen với những lời tung hô[22],
thì chỉ một mình chủ tế mới có quyền nhân
danh toàn thể dân thánh để xin Chúa Cha nhớ đến hiến lễ của Chúa Con trong
Bữa Tiệc ly, để món quà cao cả đó lại được hiện tại hóa trên bàn thờ. Linh mục
thông phần vào hiến lễ đó bằng cách dâng hiến chính mình. Linh mục không thể
thuật lại Bữa Tiệc Ly cho Chúa Cha mà không làm cho mình trở thành một người
thông phần vào đó. Linh mục không thể nói: “Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn,
vì này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con”, mà không sống theo ước nguyện muốn
dâng chính bản thân và sự sống cho những người đã được giao phó cho mình. Đây
chính là những điều đang xảy ra khi linh mục thi hành tác vụ.
Qua tất cả những điều
đó và nhiều điều khác nữa, linh mục liên tục được đào tạo bởi các cử hành phụng
vụ.
61. Trong thư này,
tôi chỉ muốn chia sẻ một số suy tư chắc chắn không sao tận dụng được hết kho
tàng bao la của việc cử hành các mầu nhiệm thánh. Tôi xin tất cả các giám mục,
linh mục và phó tế, những nhà đào tạo trong các chủng viện, những người hướng dẫn
trong các phân khoa thần học và học viện thần học, và tất cả các giáo lý viên,
hãy giúp dân Chúa kín múc từ Phụng vụ là dòng suối đầu tiên của linh đạo Kitô
giáo. Chúng ta luôn được mời gọi khám phá lại ý nghĩa phong phú của các nguyên
tắc chung được trình bày trong các số đầu tiên của Sacrosanctum Concilium, nắm bắt mối tương quan mật thiết giữa Hiến
chế đầu tiên của Công đồng với tất cả các văn kiện khác. Đây là lý do tại sao
chúng ta không thể quay trở lại dạng thức nghi lễ mà các nghị phụ Công đồng, cum Petro et sub Petro, cảm thấy cần phải
được cải cách, qua việc phê duyệt những nguyên tắc cho công cuộc cải cách ấy dưới
sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và theo lương tâm của những người mục tử. Các
thánh Giáo hoàng Phaolô VI và Gioan
Phaolô II, đã phê chuẩn các sách phụng vụ được cải cách theo sắc lệnh của Thánh Công đồng Đại kết
Vatican II, vẫn bảo đảm trung thành với việc cải cách theo Công đồng. Vì lý
do này, tôi đã viết Traditionis custodes,
để Hội Thánh, bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, dâng lên cùng một lời cầu nguyện
duy nhất thể hiện sự hợp nhất.[23]
Như tôi đã viết,
tôi mong rằng sự thống nhất này sẽ được tái thiết lập trong toàn thể Hội Thánh
theo Nghi thức Rôma.
62. Tôi muốn thư
này giúp chúng ta khơi dậy sự ngỡ ngàng thán phục trước vẻ đẹp của chân lý
trong cử hành phụng vụ Kitô giáo, để nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết của việc
đào tạo đích thực về phụng vụ, và nhận ra tầm quan trọng của nghệ thuật cử hành
để phục vụ cho chân lý của mầu nhiệm Vượt Qua và sự thông phần mầu nhiệm ấy nơi
tất cả những người đã được rửa tội, mỗi người tùy theo ơn gọi của mình.
Tất cả sự phong phú
này không ở xa chúng ta, nhưng ở ngay trong các nhà thờ, trong các ngày lễ Kitô
giáo, trong tâm điểm của ngày Chúa nhật, trong các bí tích chúng ta cử hành. Đời
sống Kitô hữu là một hành trình tăng trưởng liên tục. Chúng ta được mời gọi để
được đào tạo trong niềm vui và tình hiệp thông.
63. Vì thế, tôi muốn
gửi cho anh chị em một chỉ dẫn nữa để đi tiếp lối đường của chúng ta. Tôi mời
anh chị em khám phá lại ý nghĩa của năm phụng vụ và Ngày của Chúa. Cả hai điều này đều do Công đồng để lại cho chúng ta
(x. Sacrosanctum Concilium 102-111).
64. Dưới ánh sáng của
tất cả những gì đã nói ở trên, chúng ta thấy rằng năm phụng vụ dành cho chúng
ta khả năng tăng trưởng trong sự hiểu biết về mầu nhiệm Chúa Kitô, bằng cách
dìm mình vào mầu nhiệm sự Chết và Phục sinh của Người, trong khi chờ đợi Người
trở lại trong vinh quang. Đây là cuộc đào tạo trường kỳ thực sự. Cuộc sống
chúng ta không phải là một chuỗi sự kiện hỗn tạp ngẫu nhiên nối tiếp nhau. Đúng
hơn, đó là một lộ trình rõ rệt, từ việc cử hành sự Chết và sự Phục sinh của
Chúa hết năm này đến năm khác, làm cho chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Người,
đang khi chúng ta sống trong niềm hy vọng
hồng phúc và mong đợi ngày Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ chúng ta ngự đến.[24]
65. Theo dòng thời
gian đã trở nên tươi mới nhờ mầu nhiệm sự Chết và Phục sinh của Chúa, cứ mỗi
tám ngày, Hội Thánh lại cử hành mầu nhiệm cứu độ trong ngày của Chúa. Ngày Chúa
Nhật, trước khi là một lệnh truyền phải giữ, đã là món quà Thiên Chúa ban cho
đoàn dân của Người; và chính vì thế, Hội Thánh muốn bảo toàn ân huệ này bằng một
điều luật. Việc cử hành ngày Chúa nhật giúp cho cộng đoàn Kitô hữu được đào tạo
bởi bí tích Thánh Thể. Hằng tuần, lời của Chúa Phục Sinh soi sáng sự hiện hữu của
chúng ta, để hoàn tất nơi chúng ta điều Chúa muốn khi gửi lời của Người cho
chúng ta (x. Is 55,10-11). Hằng tuần, việc rước Mình và Máu Chúa Kitô cũng muốn
làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên của lễ đẹp lòng Chúa Cha, trong tình hiệp
thông huynh đệ chia sẻ, hiếu khách, phục vụ. Hằng tuần, năng lượng của tấm Bánh
được bẻ ra nâng đỡ chúng ta trong việc loan báo Tin Mừng, trong đó thể hiện
tính xác thực của việc cử hành phụng vụ.
Chúng ta hãy từ bỏ
những cuộc tranh luận để cùng nhau lắng nghe điều Thánh Thần đang nói với Hội
Thánh. Chúng ta hãy bảo toàn sự hiệp thông. Hãy tiếp tục ngỡ ngàng trước vẻ đẹp
của Phụng vụ. Mầu nhiệm Vượt Qua đã được ban cho chúng ta. Chúng ta hãy đặt
mình vào trong nỗi khao khát của Chúa muốn tiếp tục ăn Lễ Vượt Qua với chúng
ta. Xin đặt tất cả dưới ánh mắt của Đức Maria, Mẹ Hội Thánh.
Ban hành tại Rôma, nơi Đền Thờ Gioan Latran, ngày 29
tháng 6, Lễ Trọng kính hai Thánh Phêrô và Phaolô, Tông đồ, năm 2022, năm thứ mười
trong triều đại Giáo hoàng của tôi.
PHANXICÔ
Chớ gì mọi người
hãy kính sợ,
toàn thế giới hãy
run rẩy
và các tầng trời
hãy reo vui
khi Đức Kitô Con
Thiên Chúa hằng sống
ngự trên bàn thờ
trong tay linh mục!
Ôi điều cao cả kỳ
diệu và sự hạ cố lạ lùng!
Ôi lòng khiêm hạ thẳm
sâu!
Một điều trọng đại
mà thật khiêm tốn!
Chúa tể càn khôn,
Thiên Chúa và là
Con Thiên Chúa hạ mình xuống
đến trong hình bánh
nhỏ mọn để cứu độ chúng ta.
Hỡi anh em, hãy
nhìn ngắm sự khiêm hạ của Thiên Chúa
và trước mặt Người
hãy tuôn đổ cõi lòng.
Anh em hãy hạ mình
xuống để Người nâng anh em lên.
Vậy anh em đừng giữ
lại cho mình bất cứ điều gì,
để Chúa là Đấng đã
hiến trọn thân mình cho anh em,
cũng sẽ nhận lấy
toàn thân anh em
Thánh Phanxicô Assisi
Thư gửi toàn Dòng II, 26-29
[1] X. Lêô Cả, Sermo LXXIV: De
ascensione Domini II, 1: “việc nhìn thấy Đấng Cứu thế đã chuyển sang các bí
tích”.
[2]Tiền tụng Phục sinh III : “Người đã bị sát tế nhưng không còn chết nữa, dù đã bị giết nhưng vẫn sống luôn mãi”.
[3] x. Sách
Lễ Rôma, Lễ Đêm Phục sinh.
[4] x. Augustinô, Enarrationes in psalmos. Ps. 138,2; Lời nguyện sau bài đọc VII giờ Canh thức Phục sinh; lời nguyện tiến lễ, lễ cầu cho Hội Thánh mẫu B.
[5] x. Augustinô, In Ioannis Evangelium tractatus XXVI, 13.
[6] x. Thông điệp Mediator Dei (20.11.1947), AAS 39 (1947) 532.
[7]AAS 56
(1964) 34.
[8] R. Guardini Liturgische Bildung (1923) in Liturgie und liturgische Bildung (Mainz 1992) trg 43.
[9] R. Guardini Der Kultakt und die gegenwärtige Aufgabe der Liturgischen Bildung (1964)
in Liturgie und liturgische Bildung (Mainz
1992) trg 14.
[10]Nghi thức
Truyền chức 1990.
[11] Lêô Cả, Sermo
LXIII: De Passione Domini III, 7.
[12] Irenæus Lugdunensis, Adversus hæreses IV,20,7.
[13] R. Guardini Liturgische Bildung (1923) trong Liturgie und liturgische Bildung (Mainz 1992) trg 36.
[14]Cantico delle Creature, Fonti Francescane, trg 263.
[15] R. Guardini Liturgische Bildung (1923) trong Liturgie und liturgische Bildung (Mainz 1992) trg 99.
[16] x. Quy
chế tổng quát Sách lễ Rôma số 45; 51; 54-56; 66; 71; 84; 88; 271.
[17] x. Tông huấn Evangelii
gaudium, (24.11.2013) số 135-144.
[18] x. Quy
chế tổng quát Sách lễ Rôma số 310.
[19] Lời nguyện cung hiến nhà thờ và bàn thờ.
[20]Sách lễ
Rôma, Nghi thức Thánh lễ.
[21]Sách lễ
Rôma, Nghi thức Thánh lễ.
[22] x. Quy
chế tổng quát Sách lễ Rôma số 78-79.
[23] x. Phaolô VI, Tông hiến Missale
Romanum (3.4.1969)
AAS 61 (1969) 222.
[24]Sách lễ
Rôma, Nghi thức Thánh lễ.