TINH THẦN TRUYỀN GIÁO CỦA ĐỨC CHA
FRANÇOIS PALLU
Nt. Têrêsa Phạm Thị Hải Đường,
dòng Mến Thánh giá Hà Nội
WHĐ (05.3.2023) - Trong thời gian qua, các trang mạng của các
giáo phận thuộc Giáo tỉnh Hà Nội và của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã đăng tải
những hình ảnh thật đẹp về kỳ thường huấn của các linh mục trong giáo tỉnh Hà Nội.
Dịp thường huấn này được tổ chức tại Giáo phận Thanh Hóa với sự tham dự của quý
Đức cha và gần 1.600 linh mục, đến từ 11 giáo phận của giáo tỉnh Hà Nội. Với
nhiều khuôn mặt trẻ, các ngài đang thể hiện một sức sống mãnh liệt cũng như một
tương lai tươi sáng của Giáo hội Việt Nam nói chung và cách riêng là của giáo tỉnh
Hà Nội. Tuy nhiên, để đạt được điều đó, Giáo hội Việt Nam không thể nào quên
công ơn của các vị tiền bối, đặc biệt những người đã dày công thiết lập hàng
giáo sĩ và xây dựng Giáo hội Việt Nam, cách riêng là Địa phận Đàng Ngoài, nay
là giáo tỉnh Hà Nội.
Rất nhiều vị thừa sai
đã có công trong việc hình thành và phát triển Giáo hội Việt Nam. Trong giới hạn
của bài viết này, người viết tập trung vào vị Giám mục Đại diện Tông tòa tiên
khởi Đàng Ngoài, Đức cha François Pallu (1626-1684). Những đóng góp lớn lao của
Đức cha cũng như của các thừa sai Pháp cho Giáo hội Việt Nam trong giai đoạn đầu,
được miêu tả rõ nét qua ngòi bút của cha Louis Baudiment. Ngài viết: “Đổi với chúng tôi, sổ các linh mục bản xứ
có vẻ đặc biệt gây xúc động, vì Đức cha Pallu và các bạn đồng nghiệp của ngài
đã hoàn tất sự hy sinh anh hùng của họ chỉ để thành lập một hàng tư tế địa
phương.”[1]
Nhưng liệu có bao nhiêu linh mục, tu sĩ và giáo dân Việt Nam đương thời hiểu biết
về ngài, cũng như những đóng góp lớn lao của ngài? “Người Cha bị lãng quên của công cuộc truyền giáo” là biệt danh mà
tác giả Françoise Fauconnet- Buzelin đã đặt cho Đức cha Pierre Lambert de la
Motte (1624-1679), vị Giám mục Đại diện Tông tòa tiên khởi Đàng Trong, người bạn
và người đồng hành của Đức cha Pallu. Biệt danh này dường như cũng hợp với vị Đại
diện Tông tòa tiên khởi Đàng Ngoài. Với tinh thần “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả
nhớ kẻ trồng cây”, chúng ta cần tìm hiểu về cội nguồn của mình để biết, để hiểu,
để yêu mến, để trân quý và để tiếp nối những di sản của các bậc tiền nhân. Một
cách cụ thể, bài viết này nhằm làm nổi bật tinh thần truyền giáo của Đức cha
François Pallu.
1. Tinh thần
can đảm dấn thân cho sứ vụ truyền giáo
Tinh thần can đảm của
Đức cha François Pallu thể hiện qua việc ngài sẵn sàng dấn thân vào chương
trình truyền giáo ở Viễn Đông, trước những thách đố và những khó khăn không thể
tránh khỏi. Trước hết, sẽ hữu ích cho người đọc để tìm hiểu sơ lược về bối cảnh
của Giáo hội Việt Nam lúc đó.
Sau những năm tháng
truyền giáo thành công dưới những hoàn cảnh chính trị và tôn giáo rất khắc nghiệt
của miền Đàng Ngoài và Đàng Trong Việt Nam, cha Đắc Lộ (1593-1660) bị trục xuất
vĩnh viễn khỏi miền này vào năm 1645. Tuy nhiên, nhiệt huyết và lòng tận tụy đối
Giáo hội Việt Nam của ngài đã không dừng lại. Trở về châu Âu, cha vận động Tòa
Thánh gửi các giám mục sang Việt Nam và Trung Hoa, để các ngài có thể truyền chức
linh mục cho người dân bản địa. Ngài không muốn Giáo hội Việt Nam rơi vào tình
thế như Giáo hội Nhật Bản trước đó. Khi bách hại đạo xảy ra, tất cả các thừa
sai bị trục xuất, chỉ có các linh mục bản xứ được ở lại. Tuy nhiên, không có
người Kitô hữu Nhật Bản nào đã được truyền chức linh mục vào thời điểm đó. Từ một
Giáo hội đang rất phát triển, Giáo hội Nhật Bản trở nên kiệt quệ khi bị bách hại,
vì vắng bóng các mục tử.
Giáo hội Việt Nam ngay
từ những ngày đầu và cho tới thời điểm cha Đắc Lộ bị trục xuất vĩnh viễn, luôn
bị cấm cách và bị bách hại. Đối với ngài, việc gửi các giám mục sang Viễn Đông
nói chung và Việt Nam nói riêng, để đào tạo và truyền chức linh mục cho người bản
địa, là điều cấp bách và khẩn thiết. Ngài đã trình bày và vận động Tòa Thánh
cho chương trình này.
Tuy nhiên, đối với bối
cảnh tôn giáo và chính trị lúc đó, đây là một dự án táo bạo. Tòa Thánh đã trao
đặc quyền truyền giáo và độc quyền thương mại cho hai quốc gia hàng hải Công
giáo là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha từ năm 1494. Họ có toàn quyền quyết định về vấn
đề truyền giáo cũng như về thương mại trên những lãnh thổ mà họ khám phá. Cả
hai quốc gia này đã gầy dựng được những thành tựu đáng kể trên lãnh vực truyền
giáo. Thế nhưng, dần dần, họ đặt nặng thế quyền trên thần quyền, tập trung vào
thương mại hơn là truyền giáo. Hơn thế nữa, họ còn lấn quyền của Đức giáo hoàng
cũng như của Tòa Thánh trong công cuộc truyền bá Tin Mừng. Tòa Thánh thấy được
vấn đề và lập ra Thánh Bộ Truyền Giáo vào năm 1622, nhằm lấy lại quyền hành
trong việc điều khiển công cuộc truyền giáo ở những vùng đất mới. Tuy nhiên, vấn
đề vẫn chưa được giải quyết.
Do đó, việc đề cử các
giám mục ngoài chế độ bảo trợ sang châu Á để lo cho việc truyền giáo, là một dự
án táo bạo. Chương trình này đã bị hai quốc gia trên, cũng như phần lớn các thừa
sai thuộc chế độ bảo trợ kịch liệt phản đối. Vì nếu Rôma ưng thuận kế hoạch
này, hai cường quốc trên sẽ mất những quyền lợi và những đặc ân đã được hưởng bấy
lâu nay. Hơn nữa, điều đó cũng có nghĩa là Tòa Thánh không còn tin tưởng vào chế
độ bảo trợ cũng như các thừa sai dưới chế độ này. Như vậy, những ai ủng hộ và
thực hiện chương trình của cha Đắc Lộ, chắc chắn cũng sẽ phải đối diện với những
khó khăn, cản trở, thậm chí bị đe dọa tới cả tính mạng.
Mặc dù đã tích cực vận
động, cha Đắc Lộ đã không thể tiếp tục chương trình của ngài. Cha được chuyển tới
Ba Tư vào năm 1655 và qua đời ở đó năm 1660. Chương trình này tưởng chừng không
thể thực hiện được và dường như đã bị lãng quên. Nhưng không! Nó đã được nhóm
linh mục trẻ người Pháp thuộc hiệp hội Các
Bạn Hiền bàn thảo lại, cũng như tích cực vận động với Rôma. Các thành viên
của nhóm, trong đó có cha Pallu, đã gặp cha Đắc Lộ khi ngài tới Paris vận động
cho chương trình truyền giáo ở Viễn Đông vào năm 1653. Năm 1656, Cha Pallu tạm
ngưng công việc Kinh Sĩ đền thờ, đích thân sang Rôma thỉnh cầu Tòa Thánh cho
chương trình này. Để công việc được tiến triển, ngài đã tình nguyện ở lại Rôma
hơn một năm để tìm sự trợ giúp[2]. Cuối cùng, với sự kiên trì
và khả năng ngoại giao của Đức cha, cũng như sự ủng hộ nhiệt tình từ nhiều người,
chương trình truyền giáo được Tòa Thánh ưng thuận.
Ngày 29/07/1658, Đức
giáo hoàng Alexander VII (1599-1667) ký đoản sắc phong cha Pallu làm giám mục
hiệu tòa Héliopolis và cha Pierre Lambert de la Motte (1624-1679) làm giám mục
hiệu tòa Beryte[3]. Ngày 09/09/1659, Đức giáo
hoàng ban đoản sắc Super Cathedram đặt
Đức cha Pallu làm Đại diện Tông tòa xứ Đàng Ngoài và Đức cha Lambert, xứ Đàng
Trong[4]. Chắc chắn, Đức cha Pallu biết
được điều gì có thể xảy đến với ngài trong cương vị Giám mục Đại diện Tông tòa,
cùng với việc thi hành những mệnh lệnh mà Thánh Bộ Truyền Giáo trao cho ngài
cũng như các bạn của ngài. Đó là những nhiệm vụ cao cả, nhưng khó khăn với nhiều
thách đố. Điều này được phần nào phản ánh qua nhận xét của cha Đào Quang Toản: “Triều đình Bồ Đào Nha và dòng Tên lúc đó hẳn
nhiên là những đổi thủ đáng sợ cho cả Đức cha Pallu lẫn cho chính Thánh Bộ.”[5]
Tuy nhiên, không gì có thể ngăn cản nhiệt huyết truyền giáo của ngài.
Đức cha đã can đảm đón
nhận sứ vụ một cách hăng say và nhiệt thành. Tinh thần này tiếp tục được thể hiện
qua sự hiến thân và phục vụ quên mình trong hai mươi sáu năm tiếp theo của Đức
cha Pallu.
2. Tinh thần
hiến thân và phục vụ quên mình
Tác giả Baudiment đã
khẳng định: “Đức cha Pallu: một người đã thể hiện nơi mình, với mức độ
anh hùng, những nhân đức của các thừa sai: quên mình và hiến thân cho việc mở
mang Giáo hội.”[6]
Trước hết, sự hiến thân quên mình của Đức cha được thể hiện qua việc ngài dứt
khoát từ bỏ chức vụ hiện tại, gia đình, bạn bè, cùng với cuộc sống ổn định để tới
vùng truyền giáo xa xôi với nhiều nghịch cảnh. Đức cha đã không muốn cho cha mẹ
của ngài biết về dự định tham gia vào việc truyền giáo ở Viễn Đông của ngài, để
tránh sự cản trở của họ. Ngài ghi lại trong tập hồi ký rằng khi có quyết định
sai đi của Tòa Thánh, ngài muốn được âm thầm chuẩn bị và lên đường cách kín đáo[7].
Đức cha có một tinh thần
hiến thân triệt để. Trước khi tới Viễn Đông, ngài đã long trọng thề hứa với
Thiên Chúa là hiến dâng mạng sống của ngài cho Người, để cứu các linh hồn và
hoán cải lương dân[8]. Đức cha viết: “Tôi tự đưa ra các chân lý sau đây làm nền tảng:
Một Kitô hữu chân chính và hoàn hảo phải chết với mọi sự, người ấy không còn biết
ai theo xác thịt.”[9])
Ngoài ra, trên hành trình tới châu Á lần đầu tiên, Đức cha đã ghi lại cảm nghĩ
của ngài về sự hiến thân, từ bỏ vì Tin Mừng: “Thiên Chúa đã ban cho chúng ta ơn từ bỏ mọi sự vì lòng yêu mến Người,
đồng thời dứt bỏ được những mối liên hệ thánh thiện và chặt chẽ nhất vì lợi ích
của Tin Mừng.”[10]
Những lời lẽ này cho thấy ý chí mạnh mẽ của Đức cha trong việc từ bỏ những
mối liên hệ thân thương nhất vì sứ vụ truyền giáo.
Hơn thế nữa, tinh thần
quên mình và hiến thân của Đức cha Pallu còn được thể hiện rõ nét qua những
chuyến đi và những công việc ngài phải đảm nhiệm trong vai trò Giám mục Đại diện
Tông tòa. Từ năm 1662 tới năm 1679, Đức cha đã thực hiện năm cuộc hành trình đường
bộ và đường biển từ châu Âu tới châu Á và ngược lại. Mỗi cuộc hành trình kéo
dài ít nhất hai năm với những hoàn cảnh rất khắc nghiệt, thậm chí nguy hiểm tới
tính mạng. Trong cuộc hành trình đầu tiên tới Xiêm La, hai cha thừa sai và một
giáo dân trong đoàn của Đức cha đã bỏ mạng trên chuyến đi. Phải mất hơn hai
năm, ngài và phái đoàn mới tới được Xiêm La. Tuy nhiên, chưa đầy một năm sau,
vì nhu cầu cấp bách của miền truyền giáo, Đức cha Pallu đã tình nguyện trở về
châu Âu[11].
a. Sự hy sinh
quên mình trong cuộc hành trình trở về châu Âu lần đầu
Theo tính tự nhiên,
ngài muốn được ở lại và đi tới vùng truyền giáo của ngài càng sớm càng tốt.
Ngài cảm thấy gắn bó với những mảnh đất truyền giáo và với trách nhiệm của ngài
nơi đây. Ngài không muốn rời xa họ. Bên cạnh đó, những gian nan của cuộc hành
trình trước, vẫn còn đọng lại trong tâm trí của ngài. Ngoài ra, Đức cha cũng thấy
được những khó khăn và thách đố mà ngài sẽ phải đối diện ở châu Âu trong chuyến
đi này. Ngài viết:
vẫn còn đọng lại trong tâm trí tôi chuỗi các
khó khăn và mệt mỏi lạ thường mà tôi đã chịu đựng trong hành trình vừa qua. Lẽ
ra tôi được nghỉ ngơi, nhưng tôi lại đưa thân vào chúng lần nữa. Tôi đã thấy
trước các phán đoán khác nhau về tôi sẽ được đưa ra khi trở về Pháp. Cuối cùng
tôi hình dung ra mọi nơi chỉ có trở ngại cho quyết định của tôi[12].
Ý thức được gánh nặng
của chuyến đi, nhưng vì nhận thấy sức khoẻ của Đức cha Lambert rất yếu, không
thể chịu nổi cuộc hành trình này, nên ngài đã sẵn sàng trở về[13]. Đây là một quyết định mang
đậm nét hy sinh và quên mình vì sứ vụ. Ngài có đủ lý do để khước từ trở về châu
Âu. Song khi thấy các nhu cầu cấp bách của vùng truyền giáo, ngài không thể giữ
thái độ “an phận thủ thường”. Ngoài ra, quyết định của ngài còn cho thấy một
tinh thần cảm thông sâu sắc với người anh em của mình.
Tinh thần hiến thân và
phục vụ quên mình vì công cuộc truyền giáo của Đức cha Pallu tiếp tục được thể
hiện qua cuộc hành trình này của ngài ở châu Âu. Đức cha đã lưu lại ở Rôma ba
năm. Theo cha Đào Quang Toản, đây là “thời gian giao dịch” của ngài. Đức cha
“phải vận dụng hết khả năng để trình bày và xin Tòa Thánh chuẩn nhận những điều
cần thiết cho công cuộc rao giảng Tin Mừng ở Đông Nam Á”[14].
Với biệt tài ngoại giao và với ơn Chúa, chuyến đi này của Đức cha Pallu đã gặt
hái được những thành công đáng kể. Đức giáo hoàng Clêmentê IX (1600-1669) đã lập
ra một uỷ ban gồm bốn vị hồng y để giải quyết những vấn đề Đức cha Pallu đệ
trình. Ngoài ra, Đức giáo hoàng gửi một đoản sắc cho vua Louis XIV của nước
Pháp với mục đích gửi gắm Đức cha Pallu cũng như sứ vụ truyền giáo của ngài cho
nhà vua[15]. Hơn thế nữa, nhờ sự trình
bày của Đức cha tại Rôma, Tòa Thánh đã trao cho các giám mục Pháp cai quản Xiêm
La. Trước đó, vùng đất này không thuộc về các thừa sai Pháp. Đây chỉ là nơi các
ngài tạm dừng chân để chuẩn bị tới các vùng truyền giáo đã được chỉ định. Chính
nơi đây các ngài đã tiếp nhận và đào tạo các linh mục đầu tiên của Việt Nam[16].
Trên tất cả là sắc lệnh
Speculatores, được ban hành ngày
13/09/1669. Đây là sắc lệnh quan trọng. Nó đã làm thay đổi lịch sử truyền giáo.
Từ nay, tất cả các thừa sai khi tới làm việc tại các nơi mà Tòa Thánh đã trao
quyền điều hành cho các vị Đại diện Tông tòa, phải tuyên thệ vâng phục các
ngài. Thừa sai nào không thi hành sẽ bị vạ tuyệt thông[17].
Chắc chắn nhờ có sự trình bày của Đức cha Pallu về thực trạng của các miền truyền
giáo, nên Tòa Thánh đã đi tới quyết định trên. Sau ba năm ở Rôma và ba năm lênh
đênh trên biển cả với những gian nan của cuộc hành trình, Đức cha trở về Xiêm
cùng với sáu linh mục và bốn giáo dân vào ngày 27/05/1673[18].
b. Sự dấn
thân trong dự định tới Đàng Ngoài và trong hành trình trở về châu Âu lần thứ
hai
Đức cha Pallu là người
không biết nghỉ ngơi. Ngài luôn dấn thân quên mình vì sứ vụ. Sau cuộc hành
trình đầy gian truân vất vả ở châu Âu và trở về bằng đường biển với biết bao mỏi
mệt, ngài lại lên kế hoạch tới Đàng Ngoài, ngay khi trở về Xiêm La. Bất chấp những
dấu hiệu thời tiết không thuận lợi, lòng mong mỏi khát khao đến với vùng truyền
giáo đã thôi thúc ngài lên đường. Ngày 21/08/1674, ngài rời Xiêm La để tới Đàng
Ngoài. Tuy nhiên, con tàu của ngài đã bị bão đánh và trôi dạt vào cảng Cavite tại
Phi Luật Tân. Thay vì giấc mơ tới Đàng Ngoài, Đức cha đã bị bắt giữ và bị buộc
tội đi truyền giáo không có phép của triều đình Tây Ban Nha[19].
Chính quyền Tây Ban Nha quyết định đem vụ việc này về xử tại kinh đô Madrid.
Thay vì tới Đàng
Ngoài, ngài đã phải đi vòng quanh thế giới. Mặc dù trắng án, nhưng chính quyền
Tây Ban Nha đã không bồi thường cho ngài. Sự việc này đã làm hao tổn biết bao
tiền của và sức lực của Đức cha. Những kẻ chống đối các giám mục Đại diện Tông
tòa đã tìm đủ mọi cách ngăn cản ngài. Tuy nhiên, Chúa Quan Phòng đã biến đổi sự
dữ ra sự lành. Chính sự việc này đã tạo dịp đưa Đức cha trở về Rôma lần nữa.
Ngài đã không bỏ qua bất kỳ cơ hội nào để có thể làm cho công cuộc truyền giáo ở
Viễn Đông nói chung và cho Giáo hội Việt Nam nói riêng được xây dựng và phát
triển. Đức cha đã lưu lại tại Rôma ba năm và hoạt động tích cực cho công cuộc
truyền giáo[20].
Ngài phải làm việc rất
vất vả trong những thời gian này tại Rôma. Điều đó được cha Baudiment miêu tả
cách cụ thể và sống động:
Các cuộc thăm viếng, triều yết, chuẩn bị các buổi
họp của uỷ ban đặc biệt, soạn những bản tường trình giúp soi dẫn uỷ ban, trả lời
những báo cáo của các cha Dòng Tên hay của sứ thần Bồ Đào Nha. Ngài cổ gắng
không bỏ qua bất cứ điều gì có thể làm để bảo vệ quyền lợi chính đáng của công
cuộc truyền giáo. Với ngài, không hề có chuyện nghỉ ngơi hay buông lơi công việc[21].
Năm 1680, Đức cha trở
lại Paris sau khi đã thu xếp ổn định các công việc của ngài ở Rôma. Theo nhận định
của tác giả tài liệu Tấm gương sáng ngời
trong việc truyền giáo, “Đức cha Pallu đã như một cụ già, mặc dù mới bước sang
tuổi 50”[22].
Chính sự hy sinh dấn thân quên mình đã làm ngài lao lực. Và, thật đáng trân
quý, những nỗ lực của ngài đã sinh hoa kết trái. Điều này được thể hiện qua nhận
xét của cha Đào Quang Toản: “Sự hiện diện
và hoạt động của Đức cha Pallu tại Rôma đã khiến Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin trở
nên cương nghị và hiệu quả hơn bao giờ hết, kể từ khi Thánh Bộ được thành lập
năm 1622.”[23]
Tác giả Baudiment cũng ghi nhận rằng, trong ba năm hoạt động ở Rôma, Đức cha
Pallu “đã thỉnh nguyện được 22 sắc lệnh, mà nhiều sắc lệnh bình thường cần nhiều
năm nghiên cứu, tranh luận, hiệu chỉnh.”[24]
Điều này cho thấy Đức cha đã cố gắng làm tất cả những gì có thể cho vùng truyền
giáo của ngài.
c. Hành trình tới Phúc Kiến
Ngày 25/03/1681, sau
khi thu xếp xong công việc ở Rôma và ở Pháp, Đức cha Pallu đã lên đường trở về
Xiêm La. Ngài được từ chức Đại diện Tông tòa Đàng Ngoài ngày 15/04/1680 và được
bổ nhiệm làm Đại diện Tông tòa xứ Phúc Kiến ở Trung Quốc. Với khao khát được đến
với nhiệm sở mới của mình, Đức cha Pallu đã rời Xiêm La đi Phúc Kiến, vào ngày
02/07/1683. Tàu của ngài đã bị những tên cướp biển bắt giữ sáu tháng tại Đài
Loan. Cuối cùng, Đức cha đã thực hiện được giấc mơ là được “đặt chân lên mảnh đất
truyền giáo” của ngài. Ngài tới Phúc Kiến vào ngày 27/01/1684. Tuy nhiên, với sức
khỏe giảm sút sau những năm dấn thân và phục vụ không biết mệt mỏi, Đức cha đã
nghỉ yên trong Chúa vào ngày 29/10/1684, chỉ chín tháng sau khi ngài tới Phúc
Kiến[25].
Tới đây, người viết
như nghẹn lòng khi nhớ lại một lời nhận xét về hành trình này của Đức cha
Pallu: Ngài tới Phúc Kiến dường như “chỉ để chết”. Thật nhói lòng và xót xa khi
biết rằng cả cuộc đời truyền giáo của ngài, Đức cha luôn khát khao mong mỏi và
tìm mọi cách đến được vùng truyền giáo Đàng Ngoài, nhưng vì lý do chính trị,
tôn giáo, cũng như nhu cầu giải quyết các công việc liên quan tới công cuộc
truyền giáo, ngài đã không thực hiện được giấc mơ của mình. Cuối cùng, Đức cha
đã đặt chân tới Phúc Kiến, miền truyền giáo mới của ngài, nhưng chỉ trong thời
gian rất ngắn ngủi. Dầu vậy, trước mặt Chúa, chắc hẳn Đức cha đã lãnh nhận vòng
hoa chiến thắng mà Thiên Chúa đã trao ban cho người mục tử đã hiến thân và phục
vụ quên mình tới hơi thở cuối cùng để phục vụ cho công cuộc truyền giáo. Do đâu
mà Đức cha có được tinh thần can đảm, hiến thân triệt để và phục vụ quên mình
cho vùng truyền giáo như vậy?
3. Đời sống
thánh thiện và tinh thần cầu nguyện sâu sắc
Cả cuộc đời truyền
giáo của Đức cha như đã miêu tả ở trên, là những cuộc hành trình xuyên lục địa,
trong vai trò như một nhà ngoại giao. Ngài luôn bận rộn với các kế hoạch, các
cuộc gặp gỡ và giải trình. Với những công việc này, ngài dường như là con người
của hoạt động và thiên về hướng ngoại. Nhưng sự thật không phải vậy. Đức cha
Pallu là người có đời sống nội tâm rất sâu sắc. Chính đời sống nội tâm này đã
nuôi dưỡng và hướng dẫn đời sống hoạt động của ngài. Lòng can đảm, sự hiến thân
và phục vụ quên mình của Đức cha Pallu bắt nguồn từ đời sống thánh thiện và đời
sống cầu nguyện của ngài.
Trước hết nói về đời sống
thánh thiện của Đức cha. Ngài xuất thân từ một gia đình đạo đức. Ngay từ nhỏ,
ngài đã được mệnh danh là “người nhà
Chúa”[26].
Tới thời niên thiếu, đời sống đạo đức thánh thiện của ngài càng được thể hiện
rõ nét hơn[27]. Là người con của Giáo hội
Pháp ở thế kỷ thứ 17, “thế kỷ của các thánh”, đời sống thiêng liêng của ngài được
ảnh hưởng nhiều từ môi trường này. Đức cha là thành viên của Hiệp hội Các Bạn Hiền và Hiệp hội Thánh Thể. Đây là những hiệp hội nổi tiếng
đạo đức thời đó[28]. Sau khi thụ phong linh mục,
ngài chỉ muốn được thuộc trọn về Chúa để phụng sự Người và phục vụ Giáo hội[29].
Khát vọng nên thánh
luôn thôi thúc tâm hồn Đức cha. Ngài đã có nhiều suy tư về sự trọn lành của
thiên chức linh mục và giám mục của ngài. Đối với ngài, đó là những bậc sống trọn
lành và hoàn hảo. Ngài đã đặt ra câu hỏi cho chính mình là “Làm sao để có thể sống và làm trổ sinh hoa trái tốt lành với những ân
sủng của Thánh chức linh mục?” Đức cha cũng có những suy tư đượm nét thánh
thiện về thiên chức giám mục của mình. Ngài tỏ bày, “Bậc giám mục mà tôi thấy mình sắp được nâng lên, là một bậc hoàn thiện,
và không tự bằng lòng với những hành động thông thường... Bậc đó không đơn giản
xét xem điều gì buộc phải làm..., mà chỉ chuyên tâm đến điều gì là hoàn hảo nhất.”
Quả thực, 26 năm phục
vụ trong vai trò giám mục Đại diện Tông tòa của ngài đã chứng minh cho những nhận
định trên. Đức cha đã tận tâm, tận lực với sứ vụ truyền giáo. Ngài nhắm tới điều
hoàn hảo nhất đó là đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho ngài. Cha
Baudiment đã ghi lại tư tưởng này của Đức cha Pallu: “Cuối cùng, Thiên Chúa... đã làm quá nhiều vì tình yêu dành cho chúng
ta. Tôi mắc nợ tình yêu đó và từ nay tôi không muốn có những suy nghĩ nào khác
trong mọi hành động của tôi, ngoài các lợi ích của vinh quang Người.”[30]
Đời sống thánh thiện của ngài còn được thể hiện qua tiêu chuẩn mà ngài đặt ra
cho một nhà thừa sai. Đức cha viết: “Nếu
bạn muốn đào tạo ra các nhà truyền giáo, cần phải đào tạo ra các thánh nhân”[31].
Bên cạnh đời sống
thánh thiện đạo đức, Đức cha Pallu còn là “con người của cầu nguyện”. Chính nhờ
sự liên kết mật thiết với Chúa qua cầu nguyện, Đức cha đã kiên vững trong mọi
gian nan thử thách và gặt hái được những thành công trong sứ vụ của ngài.
Ngài tỏ bày với Đức
cha Lambert rằng: “Tôi đã chẳng luống
công khi dành ra hai giờ mỗi sáng trước mặt Chúa mà không nghĩ gì khác ngoài
chính Ngài.”[32]
Khi Đức cha lấy Chúa làm trọng tâm của đời mình, điều đó đồng nghĩa với việc
ngài để Chúa Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn các công việc của ngài. Từ đó, Đức
cha có được một tâm hồn bình an và sáng suốt trước những khó khăn và sóng gió.
Cách cụ thể, cầu nguyện
đã tạo nên sức mạnh cho Đức cha trước những gian nan thử thách trong cuộc hành
trình đầu tiên từ châu Âu tới châu Á. Hai thừa sai và một giáo dân trong đoàn của
ngài đã chết trên đường tới Xiêm La[33].
Cũng trong chuyến đi này, ngài nhận được tin Đức cha Ignace Cotolendi
(1630-1662) đã an nghỉ trong Chúa trong hành trình của ngài tới châu Á. Đức cha
đã vô cùng đau đớn trước sự ra đi của các thừa sai. Những mệt mỏi về cả thể xác
và tinh thần đã làm cho Đức cha cảm thấy đôi lúc như mất đi sự can đảm và nhiệt
huyết ban đầu[34]. Tuy nhiên, ngài khẳng định
rằng chính nhờ cầu nguyện và kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa mà ngài tìm lại
được sự bình an và nguồn sức mạnh để tiếp tục cuộc hành trình.
Đức cha thường dành thời
gian để cầu nguyện, tìm thánh ý Chúa trước các công việc và trước các quyết định.
Khi đặt chân tới Xiêm La lần đầu, ngài và các thừa sai trong đoàn quyết định giữ
thinh lặng trong ba ngày đầu để tạ ơn Thiên Chúa, cũng như tìm thánh ý Người
trong công việc tương lai[35]. Sau đó, trước khi trở về
Rôma lần đầu từ Xiêm, Đức cha đã thực hiện cuộc cấm phòng mười ngày[36]. Trong suốt chuyến trở về
châu Âu, ngài luôn giữ tâm tình cầu nguyện, bên cạnh những công việc bận rộn
ngài phải giải quyết, cũng như những mệt mỏi của cuộc hành trình.
Đức cha dành phần lớn
thời gian để cầu nguyện: ngoài việc cử hành Thánh Lễ, đọc kinh Nhật tụng và các
thực hành đạo đức thường ngày của một linh mục. Ngài dành ít nhất mỗi sáng hai
giờ để nguyện gẫm[37]. Vào thời điểm này, Đức cha
là thành viên của Hội dòng Tông Đồ, vì vậy, ngài có thể đã dành thêm một giờ cầu
nguyện nữa cho đủ ba giờ nguyện gẫm mỗi ngày, theo quy định của Hội[38]. Cha Baudiment nhận
định rằng, điều làm Đức cha Pallu cảm thấy vui trong suốt cuộc hành trình, là
ngài có thể dâng Thánh Lễ vào mỗi buổi sáng sớm, trước cuộc hành trình mỗi ngày[39].
Ngoài ra, trong vai
trò Giám mục Đại diện Tông tòa, nhiều lần ngài đã nhắc nhở các bạn đồng hành của
mình trong các buổi huấn đức, về sự ưu tiên cần thiết của đời sống nội tâm so với
thừa tác vụ bên ngoài[40]. Tinh thần cầu nguyện của Đức
cha còn được thể hiện qua Bản Chỉ Dẫn
cho các nhà thừa sai mà ngài cùng với Đức cha Lambert và các thừa sai Pháp đã
soạn thảo trong Công nghị Ayuthaya. Theo các ngài, các nhà truyền giáo phải là
những con người cầu nguyện. Chỉ khi được thánh hóa bằng lời cầu nguyện, họ mới
có thể hết lòng với bổn phận. Các ngài đã khiêm tốn chỉ ra rằng, vị thừa sai chỉ
là một dụng cụ bình thường của Thiên Chúa. Do đó, ngài chỉ có thể sinh lợi ích
khi nhờ vào lời cầu nguyện để hợp nhất với Đấng đã hối thúc và trợ lực ngài lên
đường[41].
Sự cần thiết của việc
cầu nguyện đối với nhà truyền giáo được các ngài nêu lên cách đầy đủ qua những
dòng viết rất sâu sắc và thâm thuý dưới đây:
Thật vậy, làm sao ngài có thể hiểu được danh hiệu
“được sai đi”, nếu vị thừa sai không lắng nghe tiếng của Đấng phái ngài đi? Làm
sao ngài có thể thực hiện ý Chúa nếu ngài không đủ khả năng tìm ra trong cầu
nguyện? Làm sao ngài có thể làm nhiệm vụ người trung gian giữa Thiên Chúa và
loài người, nếu ngài không biết cách giao hòa các thụ tạo với Đấng Tạo Hoá bằng
lời cầu nguyện? Làm sao ngài có thể sửa dạy các con chiên nếu ngài không lĩnh hội
sự khôn ngoan của Thiên Chúa từ nguồn mạch chiêm niệm? Cuối cùng, nếu không có
cầu nguyện, làm sao ngài vượt qua được mọi khó khăn, ngoài sức con người, bản
chất tự nhiên con người này phải ăn nhịp với tác động của Chúa Thánh Thần, bằng
đời sống khổ hạnh?[42]
Những lời lẽ này bao hàm
tất cả tầm quan trọng của việc cầu nguyện đối với sứ vụ của một nhà truyền giáo
nói chung và với người tông đồ nói riêng. Những tư tưởng trên được đúc kết từ
chính kinh nghiệm của chính Đức cha Pallu, Đức cha Lambert, và các thừa sai.
Hai mươi sáu năm trong vai trò Giám mục Đại diện Tông tòa, nếu không có đời sống
gắn bó mật thiết với Thiên Chúa, làm sao Đức cha Pallu có thể đứng vững trước
biết bao gian truân khổ cực của sáu cuộc hành trình xuyên lục địa, trước những
chống đối quyết liệt của chế độ bảo trợ Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, trước những
cuộc thương lượng, giải trình đầy thách đố ở Rôma và Paris. Chính nhờ đời sống
cầu nguyện, Đức cha đã có được sự can đảm để hiến thân và phục vụ quên mình cho
việc xây dựng và phát triển Giáo hội Việt Nam.
4. Kết luận
Cả cuộc đời truyền
giáo của Đức cha François Pallu là một sự dấn thân và quên mình liên lỉ. Như
bao nhà truyền giáo khác, Đức cha mong muốn được hiện diện trực tiếp với đoàn
chiên, nhất là trong bối cảnh bất ổn cả về chính trị lẫn tôn giáo như ở Việt Nam
lúc đó. Khi còn sống, nhiều lần ngài đã cố gắng đến Đàng Ngoài. Vì điều này,
ngài từng phải đối diện với biết bao nguy hiểm, có những khi là cái chết tưởng
chừng như cận kề. Nhưng rốt cuộc ngài đã không thể nào thực hiện được ước muốn
cháy bỏng đó[43]. Dù không trực tiếp hiện diện,
nhưng trái tim, tâm hồn và nhất là lời cầu nguyện của Đức cha François Pallu
luôn luôn hướng về Đàng Ngoài. Tuy không bao giờ đặt chân được tới giáo phận của
mình, Đức cha Pallu lại là người đã gầy dựng và đã đặt những viên đá vững chắc
cho sự phát triển lâu dài của toàn thể Giáo hội Việt Nam[44].
Theo cha Đào Quang Toản,
trong lịch sử truyền giáo Việt Nam, chưa có vị giám mục nào đã hoạt động tại
Rôma cho Giáo hội Việt Nam nhiều như Đức cha Pallu. Cha cho rằng, xây dựng Giáo
hội Việt Nam vào thời điểm đó không chỉ là chuyện truyền giáo mục vụ địa
phương, nhưng còn phải xử lý những vấn đề có tính cách quốc tế, cũng như các vấn
đề do giáo triều Rôma quyết định[45]. Trong Giáo hội Công giáo,
có những chuyện chỉ có Tòa Thánh mới có quyền quyết định. Và để cho Tòa Thánh
thông hiểu vấn đề, thì cần có người đích thân đến báo cáo, trình bày, cắt
nghĩa, giải thích và thúc giục. Chính Đức cha Pallu đã đảm đương công tác này.
Ngài đã dành hai mươi
sáu năm trong trong vai trò Giám mục Đại diện Tông tòa để xây dựng và đặt nền
móng vững chắc cho sự hình thành và phát triển của Giáo hội Việt Nam. Để làm được
điều đó, ngài đã kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện, đã
can đảm dấn thân, hy sinh, phục vụ quên mình cho miền truyền giáo. Theo con số
thống kê vào năm 2021, Giáo hội Việt Nam có 3 giáo tỉnh với 27 giáo phận, trên
120 giám mục, hơn 4.000 linh mục, 2.803 chủng sinh, gần 35.000 tu sĩ và hơn 7
triệu giáo dân[46]. Đây là một bằng chứng về sự
phát triển của hạt giống mà Đức cha Pallu đã góp công vun trồng. Tuy nhiên,
chúng ta không nên dừng ở đó. Là con cái thiêng liêng của ngài, mỗi người hãy tự
đặt câu hỏi: Tôi phải làm gì trong vai trò của mình để tiếp tục tinh thần truyền
giáo của Đức cha François Pallu.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 132 (Tháng 11 & 12 năm 2022)
[1] Louis Baudiment, Franẹois Pallu, Đấng sáng lập chính Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris
(1626-1684), dịch giả Cao Kỳ Hương (Nhà xuất bản Tôn giáo, 2006), tr. 598.
[4] Adrien Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine: Documents Historiques I
(1658-1823) (Paris: Téqui,1923), tr. 9-10; Jean De Bourges, Ký Sự Cuộc Hành Trình Của Đức Giám Mục Hiệu
Tòa Bérythe, trans. Đào Quang Toản, 1996, tr. 33.
[12] Mgr Pallu, Relation abrégée des missions et des voyages des évêques franẹais,
envoyés aux royaumes de la Chine, Cochinchine, Tonquin, & Siam, Paris,
Deneys Bechet, 1668, tr. 49.
[27] Hội đồng Giám mục Việt Nam, Tiểu sử Đức cha François Pallu và Đức cha
Pierre Lambert de la Motte (Nhà xuất bản Tôn giáo, 2020), tr. 12.
[41] Franẹois Pallu & Pierre Lambert de la
Motte, Monita Ad Missionarios - Nhắn
nhủ các thừa sai, Công đồng Yuthia 1664, Thánh
Bộ Truyền Bá Đức Tin, bản dịch của Địa phận Kontum, chương 2, tiết 2.
[46] Giám mục Giuse Đỗ Mạnh Hùng, “Công cuộc truyền giáo của hai Giám mục tiên
khởi tại Giáo hội Việt Nam”, đăng ngày 22/10/2021 tại https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/cong-cuoc-truyen-giao-cua-hai-giam-muc-tien-
khoi-tai-giao-hoi-viet-nam-42925