WHĐ (22.10.2023) – “Tham gia, trách
nhiệm, và quyền bính: Đâu là những tiến trình, cấu trúc
và cơ chế nào trong một Giáo hội hiệp hành mang tính sứ mạng?” là chủ đề của bài
suy tư thần học do linh
mục Dario Vitali, Điều phối viên của các
chuyên gia thần học và cũng là Giáo sư Khoa Thần học tại Đại học Giáo
hoàng Gregorian trình bày trong
phiên họp khoáng đại thứ XII giới
thiệu phần B3 của Tài liệu Làm việc
vào hôm thứ Tư ngày 18.10 vừa qua.
SUY TƯ THẦN HỌC CỦA
CHA DARIO VITALI
TẠI PHIÊN HỌP KHOÁNG ĐẠI THỨ XII
THAM GIA, TRÁCH NHIỆM, VÀ QUYỀN BÍNH: ĐÂU LÀ NHỮNG TIẾN TRÌNH, CẤU TRÚC VÀ CƠ CHẾ
NÀO TRONG MỘT GIÁO HỘI HIỆP HÀNH MANG TÍNH SỨ MẠNG?
1. “Trong Đức Kitô, Giáo Hội như là bí tích, nghĩa
là dấu chỉ và khí cụ của
sự hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất giữa loài người” (LG 1).
Tôi lấy trích dẫn này làm khuôn khổ để kết cấu suy tư thần học
về điểm B.3, vốn tập trung vào “Tham gia, trách nhiệm, và quyền bính”. Sự tham gia trước hết được Công đồng Vatican II nhấn mạnh thực
ra không phải là sự tham gia của các cá nhân, mà là của toàn thể Giáo hội, được
hiểu Dân Chúa trên hành trình hướng tới việc hiện thực hóa Nước Chúa. Chưa bao giờ như hiện nay - tôi muốn ám chỉ những ngày bi thảm này khi hòa bình dường
như bị treo lơ lửng - nhân loại lại cần đến chứng từ mạnh mẽ và thuyết phục của
một Giáo hội vốn là dấu chỉ và khí cụ hòa bình giữa các quốc gia. Như lời của Đức Thánh Cha Phanxicô, “một Giáo hội hiệp hành giống như một biểu ngữ được giương cao giữa
các dân nước (x. Is
11,12)... Là một Giáo hội ‘sánh bước’ cùng con người, tham gia vào những khó khăn của lịch sử, ấp ủ giấc mơ rằng việc
tái khám phá phẩm giá bất khả xâm phạm của con người và chức năng phục vụ của quyền bính cũng có thể giúp xã hội dân sự
tự xây dựng trong công lý và
tình huynh đệ, tạo ra một thế giới tươi đẹp hơn và xứng đáng hơn cho các thế hệ
mai sau”.
Một Giáo hội hướng ra bên ngoài, một “bí tích cứu độ phổ
quát” cho thế giới (LG 48), luôn được mời gọi trở thành và nghĩ về chính
mình trong nội tâm như “bí tích của sự hiệp nhất cứu độ phổ quát này”
(LG 9). Nhưng liệu phạm trù này, vốn giải thích chắc chắn chiều kích mầu nhiệm
của Giáo hội, có thể được áp dụng cho các chủ đề như “sự tham gia, trách nhiệm,
quyền bính” chăng?
Chương I của Hiến chế Lumen
Gentium đã mở ra những
chân trời quan trọng theo hướng này. Số 7 có nói rằng “trong
việc xây dựng nhiệm thể Đức
Kitô có sự đa dạng về các
thành viên và chức năng”.
2. Nhưng chính trong Chương II của Hiến chế, các chủ đề về tham gia có một diện mạo cụ thể, khởi đi từ việc mô tả Giáo hội như là Dân Chúa, “giống nòi được tuyển
chọn, hàng tư tế vương giả, dân tộc thánh, những người xưa chưa phải
là một dân, nay đã là dân của Thiên Chúa” (LG 9).
Tất cả chúng ta đều biết rằng chương về Dân Chúa tiêu biểu
cho “cuộc cách mạng Copernic” trong giáo hội học công đồng. Việc xen kẽ
chương về Dân Chúa trước chương về Phẩm trật đã phá vỡ kim tự tháp giáo hội được
xây dựng qua nhiều thế kỷ: đi trước
các chức năng là phẩm giá của người đã lãnh phép Rửa; đi trước những khác biệt vốn thiết lập các phẩm trật, là sự bình đẳng của con cái Thiên
Chúa. Danh hiệu lớn nhất của Giáo hội không phải là giáo hoàng, giám mục, linh
mục, hay người được thánh hiến,
mà là con cái Thiên Chúa. Tất cả mọi
người đều là những người con trong
Chúa Con, được hiệp nhất bởi mối dây huyết thống đến từ Chúa Thánh Thần. Khẳng định phẩm giá bình đẳng của
mọi người không có nghĩa là phủ nhận những khác biệt: Giáo hội là nhiệm thể của
Đức Kitô, sống động và xinh đẹp vì có nhiều hồng ân, đặc sủng, thừa tác vụ và
ơn gọi khác nhau.
Nguyên tắc quy định
sự phong phú của các ân sủng, đặc sủng, và thừa tác vụ trong thân mình giáo
hội được Công đồng thể hiện trong mối tương quan giữa “chức tư
tế cộng đồng và chức tư tế thừa tác hoặc phẩm trật” là những hình thức tham gia riêng
biệt vào chức tư tế của Đức Kitô (LG
10). Điểm mới lạ của đoạn văn này mang tính đột phá vì sự lựa chọn đảo ngược
hai chủ thể đang diễn ra: đặt chức tư tế cộng đồng trước chức tư tế thừa tác có nghĩa là phá vỡ mối tương quan bất đối xứng về quyền bính-vâng phục đã cấu
trúc nên Giáo hội kim tự tháp. Sau đó, việc khẳng định hai hình thức tham gia
vào chức tư tế của Đức Kitô được quy
hướng về nhau có nghĩa là nhìn nhận sự đa dạng bổ sung cho nhau của chức tư tế cộng đồng và chức tư tế thừa tác, chứ cả hai không thể giản lược vào nhau.
Trong mối tương quan này,
một không gian rất rộng mở ra, mà các thừa tác viên chức thánh không thể và không nên chiếm giữ. Nhưng
các thừa tác viên chức thánh thì phục vụ dân thánh của Thiên Chúa, những người sau cùng thì cũng trở thành
chủ thể tích cực của đời sống giáo hội.
3. Nhưng nói Giáo hội là Dân Chúa không giải quyết được toàn
bộ vấn đề, cũng không bảo đảm một cuộc cải cách Giáo hội mà không đau đớn. Điều này được chứng minh bằng
cuộc tranh luận sôi nổi diễn ra trong giai đoạn ngay sau Công đồng về giáo hội
học của Vatican II, vốn đối đầu đặc sủng
và thể chế, “Giáo hội từ bên dưới và Giáo hội từ bên trên”, Dân Chúa và hàng giáo phẩm.
Giáo hội xét như Dân Chúa một đàng giải thích sự nhấn mạnh nền
giáo hội học hiệp thông, chủ yếu tập trung vào khía cạnh hiệp thông mang tính phẩm trật, điều mà theo thời
gian đã tạo ra một “sự tập quyền” thực sự của Giáo hội; đàng khác, Giáo
hội xét như Dân Chúa dấy lên
lo sợ rằng tính hiệp hành, được hiểu là “cuộc hành trình cùng nhau” của
Dân Chúa, sẽ tạo thành một sự thay thế
cho nguyên tắc hiệp thông. Thực ra, tính hiệp hành không gì khác hơn là sự hiệp thông của Giáo hội với tư cách là Dân
Thánh của Thiên Chúa. Tính hiệp hành và
hiệp thông có thể được xác định, với điều kiện là chúng ta hiểu Giáo hội là Dân
Chúa đang trên hành trình.
Chính trong Giáo
hội hiệp hành mà tất cả các chiều
kích hiệp thông đều tìm thấy
tư cách công dân: hiệp thông Ba Ngôi, hiệp thông các tín hữu, hiệp
thông các Giáo hội, hiệp thông các thánh. Các Mục tử phục vụ Giáo hội này trong một sự hiệp
thông có tính phẩm trật được điều hành bởi sự phục vụ hiệp nhất của Giám mục
Rôma, người mà - theo lời của
Đức Thánh Cha Phanxicô - "tự thân, không đứng trên Giáo hội, mà ở bên trong Giáo hội như một người đã lãnh phép Rửa giữa những
người đã lãnh phép Rửa và ở bên trong giám mục đoàn như một giám mục giữa các
giám mục, đồng thời với tư cách đấng kế vị thánh Phêrô, ngài được gọi để hướng
dẫn Giáo hội tại Roma vốn chủ
trì tất cả các Giáo hội trong
tình yêu thương" (Diễn từ Kỷ
niệm 50 năm Thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục).
4. Với các chủ đề của mình, Module B.3 chỉ ra cách thức để khởi động việc đổi mới các tiến trình, cơ cấu, và thể chế trong một Giáo hội hiệp hành mang
tính sứ mạng, với sự tiếp nhận ngày càng sâu rộng khuôn khổ giáo hội học do
Công đồng Vatican II thiết kế. Chính trên mối tương quan chặt chẽ tồn
tại giữa Dân Chúa, Giám mục đoàn,
và Giám mục Rôma mà mỗi người, với chức năng của mình, thiết lập
Giáo hội hiệp hành như là “Giáo
hội lắng nghe”: “Các tín hữu, Giám mục đoàn, Giám mục Rôma: người này lắng nghe người kia;
và tất cả đều lắng nghe Chúa Thánh Thần, ‘Thần Khí sự thật’
(Ga 14, 17), để biết
Ngài ‘nói gì với các
Giáo Hội’ (Kh 2, 7)”.
Ước muốn bảo đảm
các chức năng tương ứng của các chủ thể này đã dẫn đến việc biến Thượng Hội đồng
từ một sự kiện thành một tiến trình. Sự lựa chọn này không từ chối, nhưng hội nhập vào một cơ quan hiệp
nhất cao hơn do Đức Phaolô VI thiết lập, mà trong đó Đức Thánh Cha có ý trao
cho các giám mục “khả năng tham gia một cách rõ ràng hơn và hiệu quả hơn vào
chức vụ chăn dắt của Ta đối với Giáo hội hoàn vũ” (Tự sắc AS). Phù hợp với tất cả nền giáo hội học của
Công đồng, thì bước tiếp theo
cần thực hiện như đã được Đức
Thánh Cha Phanxicô tuyên bố đó là:
Làm thế nào “Thượng Hội đồng Giám mục, đại diện của hàng giám mục Công giáo, trở nên sự diễn tả
tính hiệp đoàn giám mục bên trong một Giáo hội hiệp hành hoàn toàn?” (Diễn từ Kỷ niệm 50 năm Thiết lập Thượng Hội đồng
Giám mục). Điều này chỉ có thể khả
thi khi nhìn
nhận tất cả các chủ thể trong đó thân mình giáo hội được kết nối. Trong tiến
trình hiệp hành, Dân Chúa,
Giám mục đoàn và Giám mục Rôma thực thi các chức năng mang tính giáo hội cụ thể
của mình, tạo nên tính hiệp hành, tính hiệp đoàn, và tính tối thượng trong
sự hiệp nhất năng động.
5. Tiến trình Thượng
Hội đồng này diễn ra thông qua một động lực kép, bổ sung cho nhau trong
chuyển động: kêu gọi và triệu tập.
Kêu gọi:
Tiến trình Thượng Hội đồng có thể diễn
ra trong Giáo hội bởi vì Giám mục của Rôma gọi tiến trình này tương đương với hoạt
động hiệp hành. Hoạt động ban đầu này phù hợp với đặc quyền của Giám mục Rôma,
“nguyên tắc hữu hình và nền tảng của sự hiệp nhất” của tất cả những người
đã lãnh phép Rửa, của tất cả các giám mục, và của tất cả các giáo hội. Chính vị Giám mục Rôma “bảo toàn quyền tối thượng của ngai tòa
Phêrô đứng đầu toàn thể cộng đoàn đức ái, bảo toàn các dị biệt
hợp pháp, đồng thời lưu tâm giữ gìn sao cho các dị biệt ấy không làm
phương hại, trái lại còn phục vụ cho sự hiệp nhất” (LG 13). Để phục
vụ sự hiệp nhất của Giáo hội, ngài triệu tập, chủ trì và xác nhận Thượng hội đồng,
tương tự như cách ngài triệu tập, chủ trì và xác nhận công đồng đại kết (x. LG
22). Giám mục Rôma là người thiết lập
chủ đề của Thượng hội đồng, khởi xướng
tiến trình của Thượng hội đồng, đồng
hành với tiến trình thông qua Ban Thư ký Thượng hội đồng, và kết thúc tiến trình Thượng hội đồng.
Theo lời kêu gọi này, tiến trình triệu tập bắt đầu, với sự tham gia của toàn thể Giáo hội và mọi người trong Giáo hội, khởi đi từ các giáo hội địa phương. Điều này dựa trên nguyên tắc
giáo hội học được Công đồng Vatican II tuyên bố, trong đó khẳng định rằng Giáo hội là “thân thể của các giáo hội”, chính nhờ và
trong các giáo hội ấy mà có một Giáo Hội công giáo, duy nhất (LG
23).
Theo nguyên tắc này,
mỗi Giám mục, với tư cách là nguyên lý và
nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất trên phần Dân Chúa (portio
Populi Dei)
được trao phó cho mình (x. LG 23), chịu trách nhiệm khai mở tiến trình hiệp hành trong Giáo hội của mình. Chính vì được
Giám mục triệu tập, nên việc thỉnh ý trong các giáo hội địa phương là một cuộc thỉnh ý thực sự đối với
Dân Chúa, chủ thể của cảm thức đức tin. Đây là lý do tại sao trong giai đoạn đầu
của tiến trình Thượng Hội đồng, việc
lắng nghe từng phần Dân Chúa
xảy ra đồng thời với việc lắng
nghe toàn thể Dân Chúa đang sống và bước đi trong các giáo hội.
Sẽ không có sự thỉnh ý Dân Chúa trong các giáo hội địa phương nếu vị Mục tử không khởi xướng việc đó, vì thế, các giám mục thực sự tham gia ngay từ đầu và đóng một vai trò cần thiết và không thể thay thế trong tiến trình
hiệp hành. Do đó, điều hiển nhiên là không có mâu thuẫn giữa chiều kích hiệp
hành và chiều kích phẩm trật của Giáo
hội: cái này bảo đảm cho cái kia và ngược lại, với Giáo hội là một “‘bí tích hiệp nhất’, một dân tộc được quy tụ và cai quản dưới sự hướng dẫn của các giám mục” (SC 26).
6. Do đó, tiến trình Thượng Hội đồng là một dịp đặc biệt để thực
hành cả tính hiệp hành lẫn tính hiệp
đoàn, vì nó đảm bảo việc thực hành hiệu quả cảm thức đức tin của Dân Chúa cũng
như khả năng phân định của các Mục tử. Do hoạt động hiệp hành mà Giám mục
Rôma đã triệu tập toàn thể Giáo hội, các giám mục trên toàn thế giới cùng nhau
thực hiện chức năng phân định của mình ở các giai đoạn trung gian của tính hiệp
hành và hiệp đoàn. Sự phân định của
các Hội đồng Giám mục và các hội đồng công nghị, khi được áp dụng vào việc thể
hiện cảm thức đức tin của Dân Chúa, không phải là một hoạt động mục vụ thuần tuý mà còn là “một biểu hiện của tính hiệp đoàn giám mục trong một
Giáo hội hiệp hành” (Diễn từ Kỷ niệm 50 năm Thiết lập Thượng Hội đồng
Giám mục), trong phạm vi các
giám mục thực sự thể hiện qua những hành động này “sự hiệp thông với nhau và với Đấng kế vị thánh Phêrô”
trong việc thi hành chức năng
phân định (LG 25).
7. Do đó, chúng ta có thể kết luận bằng việc tái khẳng định
rằng Thượng Hội đồng là “địa điểm” và “không gian” đặc quyền để thực thi tính hiệp
hành, vốn không nhấn mạnh vai trò đơn phương của Dân Chúa hoặc của các Mục tử, mà đến vai trò của mọi chủ thể - Dân Chúa,
Giám mục đoàn, Giám mục Rôma - thể hiện tính hiệp hành, tính hiệp đoàn, và tính tối thượng trong sự hiệp nhất năng động. Với
những đặc điểm độc đáo này, tiến trình Thượng Hội đồng có thể được hiểu như là
cách thực thi tính hiệp hành cách tinh
tế nhất trong Giáo hội Công giáo.
Đây là điểm khởi đầu cho việc xem xét lại các thể chế giáo hội.
Một công việc như đã được giải thích trong Tông hiến Praedicate Evangelium, là cân nhắc lại việc phục vụ Giáo hội của Giáo triều Rôma dựa trên giải pháp hiệp hành. Sự cân nhắc này đặt nền trên mô tả của Công đồng về Giáo hội
như là “thân thể của các giáo hội”, “chính
nhờ và trong các giáo hội ấy mà có một Giáo hội công giáo, duy
nhất” (EP 6); đây cũng là nguyên
tắc chi phối toàn bộ tiến trình hiệp hành, đó là thay vì đưa ra những cải cách riêng lẻ cần nêu ra các tiêu chí cải cách.
Trước hết, trên phương
diện thần học: cần suy nghĩ lại về
Giáo hội theo giải pháp hiệp
hành, để toàn bộ Giáo hội và mọi thứ trong Giáo hội – đời sống, các tiến trình,
các thể chế - được cân nhắc lại theo chiều kích hiệp hành.
Thứ đến, trên phương
diện thể chế: cần bảo đảm cho Giáo hội
“không gian” để thực hành tính hiệp hành. Theo ý kiến của diễn giả, điều
này tương đương với việc bảo vệ Thượng hội đồng như một cơ quan phục vụ một
Giáo hội hiệp hành theo thể chế. Nếu
không có Thượng Hội đồng thì việc
thực thi tính hiệp hành cuối cùng sẽ
tan rã thành hàng ngàn dòng
suối và tạo ra một vũng lầy
thực sự, làm chậm lại, nếu không muốn nói là ngăn cản việc Dân Chúa “cùng
nhau bước đi”. Người ta có thể suy tư về hình thức thể chế của Thượng Hội đồng,
nhưng đừng nghi ngờ gì rằng thể chế này đảm bảo cho Giáo hội thực
thi tính hiệp hành một cách chân thực,
như tiến trình Thượng Hội đồng hiện tại
đã chứng minh rõ ràng.
Việc thực thi tính hiệp hành một cách chân thực sẽ cho
phép chúng ta có được những cân nhắc thấu đáo - với sự kiên nhẫn
và thận trọng - về những cải cách thể chế cần thiết, về các tiến trình đưa ra quyết định có sự tham
gia của mọi người, và về việc thực
thi quyền bính thực sự phù hợp với “sự lớn mạnh” của một Dân
Chúa trưởng thành và có sự tham
gia.
Trong viễn ảnh
này, tôi lặp lại lời của vị Giám mục đã phong chức cho tôi nhiều năm trước, và từ kinh nghiệm của ngài mà
tôi học biết về tính hiệp hành.
Trong sứ điệp gửi Giáo hội của mình
vào năm 1990, nhân dịp khai mạc công nghị giáo phận, ngài đã viết những lời có tính ngôn sứ:
“Dân Chúa, một dấu chỉ hữu hình về sự hiện diện vô hình của
Nước Trời, lắng nghe,
đối thoại, phục vụ Chúa của mình, trung tâm của vũ trụ và lịch sử. Một Dân chấp nhận lời mời bước đi bên
cạnh Thiên Chúa, nhân loại, thụ tạo.
[... ] Công nghị là một
lời tuyên bố về tình yêu đối với mảnh
đất, mảnh đất được chúc lành mà
chúng ta đang bước đi, đối với khoảng
thời gian được chúc phúc vừa
hấp dẫn vừa kịch tính này. Công nghị thậm chí còn là một tuyên ngôn mạnh mẽ hơn về tình yêu
thương đối với con người, đối với tất cả mọi người. Tình yêu ưu tiên đối với những người nghèo
nhất về mọi phương diện và
mức độ. […] Chỉ có tình yêu mới
có thể thuyết phục. Chỉ có tình yêu mới làm cho lớn lên, mới tạo ra sự mới lạ. Chúng ta hãy tin chắc rằng:
Công nghị là thời gian của tình yêu. Từ Thiên Chúa đến với chúng ta, từ
chúng ta đến với Ngài, và từ mọi
người giữa chúng ta".
(+
Dante Bernini).
Xin cảm
ơn.
Nt. Anna Ngọc Diệp,
OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: vaticannews.va (18.10.2023)