THƯỢNG HỘI ĐỒNG: BÀI SUY NIỆM CỦA CHA TIMOTHY RADCLIFFE, OP TẠI PHIÊN HỌP KHOÁNG ĐẠI THỨ IV
NGƯỜI PHỤ NỮ
SAMARI BÊN BỜ GIẾNG (Ga 4, 7 – 30)
WHĐ (11.10.2023) – Sáng ngày thứ Hai mồng 09. 10, Đại hội Thượng Hội đồng bước vào phiên họp khoáng đại thứ IV, bắt đầu thảo luận Phần B1 của Tài
liệu Làm việc. Cha
Timothy Radcliffe, OP, chia sẻ
bài suy niệm về: Người
phụ nữ Samari bên bờ giếng (Ga 4, 7 – 30).
Thưa anh chị em,
Hôm nay chúng ta bắt đầu suy tư về phần B.1 của Tài liệu Làm việc,
“Một sự hiệp thông tỏa sáng”. Chủ đề nổi lên rõ nét trong các phiên họp của chúng ta tuần
trước là đào tạo. Vậy làm sao để chúng
ta có thể được đào tạo hầu sự hiệp thông thẩm thấu vào sứ mạng của
chúng ta?
Trong Tin mừng Gioan
chương 4, chúng ta nghe kể về cuộc gặp
gỡ giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ bên bờ giếng.
Ở đầu câu chuyện, người phụ nữ đến đó một mình, một hình ảnh đơn
độc. Ở cuối câu chuyện, chị biến thành nhà giảng thuyết đầu tiên của Phúc âm, trong khi nhà giảng thuyết đầu tiên về sự phục sinh lại là một phụ nữ khác, Mary Magdalene, Tông đồ
của các tông đồ: hai người phụ nữ khởi đầu việc rao giảng Tin mừng rằng Thiên
Chúa đã đến với chúng ta, và sau đó là sự sống lại.
Chúa Giêsu đã vượt
thắng sự cô lập của người phụ nữ như thế nào? Cuộc gặp gỡ bắt đầu bằng một vài từ ngắn gọn, chỉ có ba từ
bằng tiếng Hy Lạp: “Chị
cho tôi xin chút nước uống!” Chúa Giêsu khát, một cái khát sâu xa hơn là khát nước. Toàn bộ Tin mừng Gioan được cấu trúc xoay quanh cơn khát
của Chúa Giêsu. Dấu chỉ đầu tiên của Người là cung cấp rượu cho những vị khách đang khát tại
tiệc cưới Cana. Có thể nói rằng, những
lời cuối cùng của Chúa Giêsu trên thập
giá là “Tôi khát!”. Sau
đó, Người nói, “Thế là đã hoàn tất!” rồi gục đầu xuống và trao Thần Khí.
Thiên Chúa xuất hiện giữa chúng ta như là Đấng bị khát, trên hết là Người khát
mỗi người chúng ta. Cha giáo của
tôi, Geoffrey Preston OP, viết rằng: “Ơn cứu độ là về Thiên Chúa khát chúng ta và Ngài bị hành hạ bởi cơn khát chúng ta; Thiên
Chúa khao khát chúng
ta nhiều hơn những gì chúng ta có thể khao khát Ngài”[1].
Julian Norwich, nhà thần
bí người Anh thế kỷ XIV, có nói: “Nỗi
khát khao và cơn khát linh hồn của Đức Kitô kéo dài và sẽ kéo dài cho đến ngày tận thế”[2].
Thiên Chúa khao khát người phụ nữ sa ngã này đến nỗi Người đã trở thành phàm nhân. Người chia sẻ với chị điều quý giá nhất, đó là
Danh Thánh: “Ðấng ấy
CHÍNH LÀ TÔI, người đang nói với chị đây”. Như thể việc Nhập Thể xảy ra chỉ dành cho một mình chị. Người phụ nữ cũng học để biết khao khát. Trước hết là khao khát có nước hằng sống,
để chị không phải đến giếng mỗi ngày.
Tiếp đến, chị khám phá ra một cơn khát sâu xa hơn. Cho đến nay, chị đã trải qua nhiều đời chồng. Giờ đây, chị nhận ra Ðấng mà chị luôn khát mong mà không hề hay biết. Như Romano Melodist đã nói: "Đời sống tình dục
thất thường của con người thường là sự dò tìm theo đuổi nỗi khát khao sâu xa nhất của họ, đó là Thiên Chúa"[3]. Tội lỗi của chúng ta, những thất
bại của chúng ta, thường là những nỗ lực sai lầm trong việc tìm kiếm điều
chúng ta mong muốn nhất. Nhưng Chúa kiên nhẫn chờ đợi chúng ta bên giếng nước của
chúng ta, mời gọi chúng ta khát nhiều hơn nữa.
Do
đó, việc đào tạo “một sự hiệp thông tỏa sáng” là việc học để khát và đói ngày
càng sâu xa hơn. Chúng ta hãy bắt đầu với những ước muốn bình thường
của mình. Khi bị ung thư phải nhập viện, tôi không được phép uống bất cứ thứ gì
trong khoảng 3 tuần lễ. Tôi cảm thấy khát dữ dội. Chưa
có gì ngon bằng ly nước đầu tiên tôi được uống sau đó, thậm chí nó còn
ngon hơn ly rượu whisky! Nhưng dần dần tôi khám phá ra rằng còn có
một cơn khát sâu xa hơn: “Lạy Thiên
Chúa, Ngài là Thiên Chúa con thờ. Linh hồn con khát khao Ngài, tấm
thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước”
(Tv 62).
Chúng ta tự cô lập
mình vì chúng ta vẫn bị mắc kẹt trong những ham muốn nhỏ nhặt,
những thỏa mãn nhỏ nhen, chẳng hạn như đánh bại đối thủ,
hoặc có địa vị, đội một chiếc mũ đặc biệt! Theo truyền khẩu, khi người em
gái Theodora hỏi làm thế nào để trở thành một vị thánh, Tôma Aquino đã trả lời
bằng một từ: "Velle! Muốn nó!"[4] Chúa Giêsu thường xuyên hỏi những người đến
với Người: “Anh/chị có muốn không?”; “Tôi có thể làm gì cho anh/chị?” Chúa muốn trao tặng cho chúng ta tình yêu
trọn vẹn. Chúng ta có muốn tình yêu ấy không?
Vì vậy, việc đào tạo
về tính hiệp hành có nghĩa là học để trở
thành những người đầy nhiệt huyết, tràn đầy ước muốn sâu sa. Pedro Arrupe, Bề
trên tổng quyền tuyệt vời của Dòng Tên, đã viết: “Không có
gì thực tế hơn việc tìm thấy Thiên Chúa, nghĩa là yêu một cách tuyệt đối, dứt
khoát. Những gì bạn yêu thích, những gì thu hút trí tưởng tượng của bạn sẽ ảnh
hưởng đến mọi thứ. Nó sẽ quyết định điều gì sẽ khiến bạn rời khỏi giường vào buổi
sáng, bạn làm gì vào buổi tối, bạn trải qua những ngày cuối tuần như thế nào, những
gì bạn đọc, những người bạn biết, điều gì làm tan nát trái tim bạn, và điều gì khiến bạn ngạc nhiên với niềm vui và lòng biết ơn. Hãy
yêu, hãy ở lại trong tình yêu, và tình yêu sẽ
quyết định mọi thứ”[5]. Thánh Augustinô, một người đầy nhiệt huyết, đã thốt lên: “Con đã nếm thử và giờ đây con đói khát Ngài; Chúa đã chạm vào con,
và con đã bừng cháy sự bình an của Ngài”[6].
Nhưng làm sao để
chúng ta trở thành những con người đầy nhiệt huyết –mê say
Tin mừng, tràn đầy tình yêu thương đối với nhau – mà không trở
thành thảm họa? Đây là câu hỏi nền tảng đối với việc
đào tạo, nhất là đối với các chủng sinh. Tình yêu
của Chúa Giêsu dành cho người phụ nữ vô danh này đã giải thoát chị. Chị trở thành nhà giảng thuyết đầu tiên nhưng chúng ta chẳng bao giờ nghe nói về chị nữa. Một Giáo hội hiệp hành sẽ là một Giáo hội trong đó chúng ta được
đào luyện cho một tình yêu
không chiếm hữu: một tình yêu không chạy trốn cũng không chiếm hữu người khác; một
tình yêu không cưỡng ép cũng
không lạnh nhạt.
Trước hết,
đó là cuộc gặp gỡ mang tính cá
vị sâu sắc giữa hai người. Chúa Giêsu gặp người phụ nữ Samari như chính chị là. “Chị nói: 'Tôi không có chồng' là phải, vì chị đã năm đời
chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói
đúng". Người phụ nữ cảm thấy nóng mặt và đáp lại một cách có vẻ hơi mỉa mai: “À, thế ra ông cũng là một ngôn sứ...”.
Chúng ta phải được đào tạo để có những cuộc gặp gỡ riêng tư sâu sắc với nhau, trong đó
chúng ta vượt qua những nhãn hiệu dễ dãi. Tình yêu thì riêng tư cụ thể và hận
thù thì trừu tượng. Tôi xin trích lại
từ cuốn tiểu thuyết The Power and the Glory (Sức mạnh và Vinh quang)
của Graham Greene: “Sự
căm thù chỉ là sự thất bại của
trí tưởng tượng”. Sự bất
đồng rất riêng tư của Phaolô
với Phêrô tuy gay go nhưng là một cuộc gặp gỡ thực sự. Tòa Thánh được thành lập
dựa trên cuộc gặp gỡ đầy nhiệt huyết,
giận dữ nhưng thực tế này. Những người
mà Phaolô không thể chấp nhận là những gián điệp
ngầm, buôn chuyện và hành động bí
mật, thì thầm ngoài hành lang, che giấu thân phận bằng nụ cười giả dối. Sự bất
đồng công khai không phải là vấn đề.
Trong Giáo hội, rất
nhiều người cảm thấy bị loại trừ hoặc bị gạt ra bên lề bởi vì chúng ta đã gán
cho họ những nhãn hiệu trừu tượng: ly dị và tái hôn, người đồng tính, người đa
thê, người tị nạn, người châu Phi, tu sĩ Dòng Tên! Một ngày nọ, một người bạn
nói với tôi: “Tôi ghét
nhãn mác. Tôi ghét việc mọi
người bị phân loại.
Tôi không thể chịu đựng những
người bảo thủ”. Nhưng nếu
bạn thực sự gặp gỡ ai đó, bạn có thể
trở nên tức giận, nhưng sự hận thù không thể được duy trì trong một cuộc gặp gỡ
cá nhân thực thụ. Nếu bạn nhìn thoáng
qua nhân tính của họ, bạn sẽ thấy Đấng
đã dựng nên họ và giữ gìn họ tồn tại, Đấng ấy có tên là TA LÀ.
Nền tảng của cuộc gặp gỡ yêu thương nhưng không chiếm hữu của
chúng ta chắc chắn là cuộc gặp gỡ của chúng ta với Chúa, mỗi người tại giếng nước của mình, với những thất bại, yếu đuối, và ước muốn riêng. Người biết chúng ta như chúng ta là, và cho chúng ta tự do để gặp gỡ nhau bằng một tình yêu giải thoát
chứ không kiểm soát. Trong sự thinh lặng cầu nguyện, chúng ta được giải thoát.
Người phụ nữ
gặp Đấng mà Đấng ấy biết chị một cách hoàn toàn. Điều này thúc đẩy chị thực hiện sứ mạng của mình. “Ðến mà xem: có một người đã nói với tôi
tất cả những gì tôi đã làm”.
Cho đến bấy giờ, chị vẫn sống
trong tủi nhục và giấu giếm,
lo sợ sự phán xét của người khác. Chị đến giếng lấy nước vào giữa trưa nắng nóng khi không có ai khác ở đó.
Nhưng ngay lúc ấy, Chúa đã
chiếu sáng tất cả những gì chị là, và
yêu thương chị. Sau khi sa ngã, Adam và Eva xấu hổ trốn tránh ánh
nhìn của Thiên Chúa. Giờ đây, người phụ nữ bước vào ánh sáng.
Việc đào tạo về hiệp hành lột bỏ lớp vỏ ngụy trang và mặt nạ của
chúng ta, để chúng ta bước
vào ánh sáng. Mong sao điều
này xảy ra trong các nhóm nhỏ (circuli minori) của chúng ta!
Khi đó chúng ta sẽ có thể làm trung gian cho niềm vui không
chiếm hữu của Thiên Chúa nơi mỗi chúng ta, trong đó chẳng có gì phải xấu hổ. Tôi sẽ không bao giờ
quên được phòng khám AIDS có tên Mashambanzou
ở rìa Harare, Zimbabwe. Từ này có nghĩa đen là “thời điểm voi tắm rửa”,
tức là lúc bình minh. Lúc đó, mọi người
đi xuống sông để té nước, phun nước lên người mình và vào nhau. Đây là thời gian vui vẻ và thoải mái đùa giỡn. Hầu
hết bệnh nhân là thanh thiếu niên không còn sống được bao lâu nhưng đó là nơi của
niềm vui. Tôi đặc biệt nhớ đến một thiếu niên tên là Courage, người luôn làm cho nơi này
tràn ngập tiếng cười.
Ở Phnom Penh, Campuchia, tôi đến thăm một nhà tế bần khác về
bệnh AIDS do một linh mục tên là Jim điều hành. Cha và cộng sự viên đi thu gom những người sắp chết
vì AIDS trên đường phố và đưa họ về túp
lều gỗ đơn sơ này. Một thanh niên vừa được đưa đến, nhìn anh hốc hác và có vẻ như chẳng còn sống được bao lâu nữa. Họ tắm rửa và hớt tóc cho anh. Vẻ mặt anh tươi tỉnh hẳn lên. Đây thực là
con Thiên Chúa, người mà Chúa
Cha sủng ái!
Các môn đệ trở về mang theo thức ăn. Họ bị sốc khi thấy Chúa Giêsu nói chuyện với người phụ
nữ sa ngã này. Giếng nước là nơi gặp gỡ lãng mạn trong Kinh thánh! Cũng giống như
người phụ nữ, cuộc trò chuyện của các môn đệ với Chúa Giêsu có một khởi đầu chậm
rãi, vỏn vẹn với
hai từ: “Rabbi, eat” (Mời Thầy dùng bữa). Nhưng người phụ nữ đã trở thành
một nhà giảng thuyết thậm chí trước các ông. Vai trò của chúng ta với tư cách là
linh mục thường là hỗ trợ những người, mà họ đã bắt đầu đạt được
thành quả ngay cả trước
khi chúng ta nhận ra.
Nt. Anna Ngọc Diệp,
OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: vaticannews.va (09. 10. 2023)
[1] Hallowing
the Time: Meditations on the Cycle of the Christian Liturgy, Darton, Longman
and Todd, London, 1980, p.83.
[3] Cant. 10, quoted
by Simon Tugwell OP, Reflections on the Beatitudes, Darton, Longman and Todd,
London, 1980, p.101
[6] Breviary
Reading for the Feast: Confessions, Bk 10, xxvii (38)