THÁNH CA VIỆT NAM, TỪ MỘT GÓC NHÌN KHÁC
Tác giả: P. Kim
I. LỜI MỞ ĐẦU
Hơn ba phần tư thế kỷ trôi qua, kể từ giai đoạn hình thành
những bài thánh ca tiếng Việt (thập niên 1940), nền Thánh nhạc Việt Nam đã và
đang phát triển không ngừng. Những bài thánh ca Việt Nam, ngoài việc góp phần
nuôi dưỡng đức tin của Dân Chúa[1], còn góp phần thăng tiến các
giá trị khác trong đời sống văn hoá của xã hội. Nhiều thế hệ nhạc sĩ, ca trưởng,
nhạc đoàn, ca đoàn.. .đã và đang nối tiếp nhau đóng góp cho Thánh nhạc Việt Nam
ngày càng thêm đa dạng và phong phú.
Tuy nhiên, trong bất cứ sự phát triển nào cũng có mặt tích cực
cần được phát huy, và mặt tiêu cực cần phải khắc phục, như nhận định của Uỷ ban
Thánh Nhạc (UBTN) trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (HĐGMVN) “còn nhiều vấn đề cần phải được gạn đục khơi
trong ở cả hai lĩnh vực: sáng tác và sử dụng, sao cho đúng tinh thần phụng vụ của
Giáo hội”[2].
Bài viết này không đề cập nhiều về những thành tựu của Thánh
nhạc Việt Nam trong thời gian đã qua, nhưng tập trung khảo sát những khiếm khuyết
cần khắc phục để có thể phát triển toàn diện hơn trong tương lai.
Những khiếm khuyết ấy phát xuất (2) từ bối cảnh lịch sử hình
thành và phát triển với chỉ một hình thể âm nhạc độc tôn và một danh xưng
“thánh ca” duy nhất, đã (3) dẫn đến một số ngộ nhận nơi các nhạc sĩ và người sử
dụng tác phẩm. Mà để hạn chế và giảm thiểu những ngộ nhận ấy, cần phải tìm hiểu
xem giáo hội đã (4) phân loại thánh nhạc như thế nào, để dựa trên những hướng dẫn
đó, chúng ta có thể (5) phân loại và định danh các bài thánh ca tiếng Việt. Việc
nhận ra những khiếm khuyết trong quá khứ chắc chắn sẽ giúp mở ra một tầm nhìn
cho sự phát triển (6) hướng đến tương lai.
II. TỪ BỐI CẢNH LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN VỚI
MỘT HÌNH THỂ ÂM NHẠC ĐỘC TÔN VÀ MỘT DANH XƯNG “THÁNH CA” DUY NHẤT
Tại Việt Nam, trước
Công đồng Vatican II, thánh lễ được linh mục cử hành bằng tiếng La tinh. Vì
vậy, để hiệp thông với linh mục, giáo dân thường hát những bài ca diễn tả ý
nghĩa chung của từng phần phụng vụ mà sau này được gọi là “hát chầu lễ”[3].
Thí dụ nhập lễ thì hát những bài như “Con sẽ bước lên bàn thờ” của Hùng Lân, “Con hân hoan” của Kim Long... Dâng lễ thì hát những bài có nội
dung dâng tiến bánh, rượu, “Con kính dâng
Cha cùng bánh và rượu nho...” Ngoài những bài có những nội dung trên, còn
có những bài hát kính Đức Mẹ, hát mừng Giáng Sinh, Phục Sinh..
Hình thể ca khúc hai
đoạn
Chịu ảnh hưởng của những “bài hát đạo” tiếng Pháp, đặc biệt
là những bài được các cha truyền giáo phổ biến từ tuyển tập Cantiques de la jeunesse[4], những bài “hát chầu lễ” tiếng
Việt thường được viết theo hình thể (music form) ca khúc hai đoạn, một đoạn là
điệp khúc (chorus) và một đoạn là phiên khúc (verse) bao gồm nhiều lời ca được
hát với cùng một giai điệu.
Và cũng có lẽ từ chữ “cantique” mà những bài hát tiếng Việt
như đã mô tả được gọi là “thánh ca”.
Theo sự phát triển chung về âm nhạc của xã hội, ngày càng có
nhiều nhạc sĩ với nhiều ca khúc “tân nhạc”[5]
hơn, thánh ca tiếng Việt cũng được sáng tác nhiều hơn, đáp ứng không chỉ cho việc
“hát chầu lễ”, mà còn cho các hoạt động đạo đức khác, như các buổi tĩnh tâm, cầu
nguyện, các sinh hoạt giáo lý đức tin, các phong trào, các hội đoàn, các hoạt động
truyền giáo...
Sau năm 1954, sinh hoạt thánh nhạc tại hai miền Bắc - Nam
tuy có sự khác biệt, nhưng vẫn tiếp tục phát triển. Tuy nhiên các bài ca vẫn tập
trung vào những chủ đề và hình thể âm nhạc như đã nêu ở giai đoạn trước.
Trong số những bài thánh ca tiếng Việt thời ấy, có nhiều bài
đã vướng mắc nhiều sai sót đối với những quy định của Hội Thánh, nên đầu thập
niên 1960, Đức Cha Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền đã ra thông cáo buộc các bài thánh
ca phải xin imprimatur mới nếu muốn tiếp tục được sử dụng[6].
Sau Công đồng Vatican
II, (nửa cuối thập niên 1960) thánh lễ được phép cử hành bằng tiếng bản xứ.
Hình thể bộ lễ
(kyriale)
Dựa trên hình thể âm nhạc của các bộ lễ bình ca, những bộ lễ
(kyriale) bằng tiếng Việt bắt đầu được các nhạc sĩ sáng tác và phổ biến.
Xét về phương diện âm nhạc, những bộ lễ này đã làm cho thánh
nhạc Việt Nam trở nên phong phú bởi các phong cách kết cấu giai điệu và cấu
trúc hình thể âm nhạc của mình.
Những bộ lễ tiếng Việt thực sự đã mang đến một luồng sinh
khí mới cho giáo dân tham dự phụng vụ. Trong số những bộ lễ được viết từ thời
đó, phải kể đến những bộ lễ cho đến ngày nay đã trở nên phổ cập bởi giá trị nghệ
thuật và tính thánh thiện của chúng, như bộ lễ Seraphim (1964) của Đức Cố Giám
Mục Phaolô Nguyễn Văn Hoà và các bộ lễ Ca lên đi 1 và 2 (1968) và 3 (1970) của
cha Kim Long.
Tuy nhiên, ngoài hình thể bộ lễ, hầu hết các bài ca khác vẫn
chỉ được soạn theo mô hình ca khúc hai đoạn, tương tự như các bài “hát chầu lễ”
ở giai đoạn đầu.
Cùng thời kỳ này, nhóm Alleluia của Học viện dòng Chúa Cứu
Thế Đà Lạt, với những bài ca theo châm ngôn “đem
Chúa vào đời để giới thiệu cho mọi người, nhất là cho giới trẻ ”[7] đã tạo nên một màu sắc trẻ
trung, sôi nổi nhưng đậm chất Thánh Kinh. Trong số những bài ca này, có nhiều
bài rất hay mà ngày nay vẫn còn được nhiều người và ca đoàn hát.
Có thể nói, giai đoạn từ 1960 đến trước năm 1975, thánh ca
Việt Nam đã phát triển phong phú hơn, cả về nội dung lời ca[8],
lẫn về hình thể và phong cách âm nhạc[9].
Nội dung lời ca từ
Thánh kinh
Linh mục nhạc sĩ Vinh Hạnh[10] là một trong những người tiên phong viết
lời ca dựa theo ý lấy từ trong Kinh Thánh, Phụng Vụ và Truyền Thống. Cũng chính
ngài đã đề xướng những hình thể khác nhau trong thánh ca cần phải được nghiên cứu
và làm cho hoàn chỉnh hơn ở những lớp nhạc sĩ kế thừa.
Hình thể Đối ca với
Thánh Vịnh (antiphona cum psalmo suo)
Linh mục nhạc sĩ Hoàng Kim[11]
trong tập Họp Mừng Vượt Qua bắt đầu soạn các bài đối ca với thánh vịnh theo
phong cách Gelineau[12].
Hợp xướng
Cùng thời gian này, những bài thánh ca hợp xướng cũng bắt đầu
được phát triển, mà nổi bật là các bản hợp ca của Hải Linh do ca đoàn Hồn Nước
trình tấu.
Tuy nhiên, hầu hết những bài hợp xướng này cũng đều được viết
theo hình thể ca khúc hai đoạn, hoặc hình thức bài ca chúc tụng (hymnus), mà chưa
thấy xuất hiện những bài theo các hình thể đặc trưng của hợp xướng như hình thể
motetum, oratorio, chỉ duy nhất hai bài cantata của Tiến Dũng là bài Tình Một
Nhà[13] và Đêm Ba Mươi Tết Trên
Sông[14].
Sở dĩ có sự phát triển như vậy trong khoảng thời gian này, là
nhờ những đóng góp không nhỏ cho Thánh nhạc Việt Nam của các nhạc sĩ bậc thầy
như Tiến Dũng, Hải Linh, Kim Long, Hoàng Kim..., được đào tạo bài bản về chuyên
môn từ châu Âu trở về. Ngoài việc sáng tác những tác phẩm có giá trị, họ còn có
công đào tạo nên các thế hệ nhạc sĩ và ca trưởng kế thừa. Nhờ vậy mà Thánh nhạc
Việt Nam bắt đầu được định hướng theo những chuẩn mực của Giáo hội.
Sự mất định hướng sau
30/4/1975[15]
Sau ngày 30/4/1975, khi các hoạt động âm nhạc thế tục bị hạn
chế do sự quản lý chặt chẽ của nhà nước, rất nhiều nhạc sĩ cả đạo và đời chuyển
qua viết “thánh ca”, một phần để phục vụ các lễ nghi phụng vụ, nhưng phần khác,
không thể phủ nhận được, đó là để giải toả tâm tình cá nhân qua ngôn ngữ âm nhạc.
Mặc dù có rất nhiều bài thánh ca mới được sáng tác, số lượng
bài thánh ca trong cả nước ước tính đến năm 1988 có khoảng 100.000 bài[16] [17],
nhưng “hầu hết các Toà Giám Mục không dám
cho IMPRIMATUR các sách đạo, nên các nhạc sĩ tự do sáng tác và tự do in ấn
(Ronéo) để phổ biến ”(33.
Vì vậy, có thể nói, sinh hoạt Thánh Ca dường như mất dần sự định hướng trước
đó.
Tiếp theo là thời kỳ Việt Nam bắt đầu đổi mới. Các chính
sách về kinh tế và xã hội dần dần được cởi mở. Nhờ vậy, đời sống âm nhạc nói
chung, và Thánh nhạc nói riêng, cũng theo đó mà phát triển một cách mạnh mẽ.
Tuy nhiên, sau nhiều năm bị buông lỏng, “có
thể nói, đã xảy ra một cảnh không mấy tốt đẹp trong sinh hoạt Thánh Ca, mà sau
này, khi Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (HĐGMVN) được sinh hoạt chính thức, đã
đặt vấn đề và yêu cầu ủy Ban Thánh Nhạc (UBTN)
phải ổn định”[18].
Trong năm 1994, UBTN đã ra ba bản Thông cáo để chấn chỉnh và
hướng dẫn các hoạt động Thánh nhạc[19].
Năm 2014, văn kiện Hướng
dẫn Mục vụ Thánh nhạc do UBTN soạn thảo đã được HĐGMVN chấp thuận thử nghiệm
trong ba năm và đã được áp dụng chính thức theo Quyết định của Hội đồng Giám mục
do Đức Tổng giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh, Chủ tịch HĐGM, ký ngày 28-04-2017 tại
Nha Trang.
Đến những năm gần đây, thời kỳ bùng nổ công nghệ thông tin,
thời kỳ mà “nhà nhà”, “người người”... đều có thể dễ dàng tự làm “music
producer”[20] và tự phổ biến tác phẩm của
mình trên các phương tiện truyền thông khác nhau, thì “đời sống thánh ca” cũng
theo đó mà phát triển một cách mạnh mẽ. Có lẽ khó mà thống kê hết được số lượng
các bài thánh ca tính đến hôm nay.
Qua các buổi trình diễn âm nhạc đạo và đời và qua các phương
tiện cùng với các kênh truyền thông khác nhau, thánh ca được phổ biến không chỉ
trong các tín hữu trong đời sống đức tin mà còn lan tỏa trong đời sống của cả
xã hội như một trong những giá trị nghệ thuật.
Tuy nhiên, hầu hết lại cũng chỉ được viết theo hình thể ca
khúc hai đoạn như thời kỳ đầu với kết cấu giai điệu chịu ảnh hưởng của các dòng
nhạc thế tục.
- Một danh xưng “thánh
ca” duy nhất để cho tất cả các bài hát đạo
Từ ngữ “thánh ca” đã trở thành phổ thông trong đời sống văn
hoá Việt Nam và được hiểu như một chủng loại âm nhạc (music genre), bên cạnh
các chủng loại khác như blues, dance, pop, rock... trên các kênh nghe nhạc.
Đơn giản mà nói, thì danh xưng “thánh ca”, đối với mọi người,
kể cả một số nhạc sĩ và giáo dân Công giáo, được hiểu một cách đơn giản là những
bài hát về Chúa, về Đức Mẹ, hoặc về một mùa lễ nào đó, nhất là mùa Giáng sinh
là mùa đã trở thành một lễ hội chung của xã hội. Nói cách khác, thì hễ bài ca
nào có đề cập đến Chúa, đến Đức Mẹ. thì đó chính là “thánh ca”.
Mặc dù đã có văn kiện Hướng dẫn Mục vụ Thánh nhạc chỉ dẫn rất
rõ ràng cho các hoạt động đàn hát trong Phụng vụ, nhưng cho đến hôm nay, văn kiện
này vẫn chưa đủ thời gian để “đi vào cuộc sống”, như cách nói của những nhà làm
luật. Vì vậy, một lần nữa, trong kỳ Hội thảo về Thánh nhạc lần thứ 46, ngày
20/10/2020, UBTN đã phải nhắc lại “Việc
chuẩn nhận các bài thánh ca (imprimatur) và chỉ sử dụng những bài thánh ca đã
chính thức “imprimatur”[21].
Tóm lại, từ giai đoạn hình thành cho đến ngày nay, giới hạn
trong góc nhìn về tác phẩm và tác giả, Thánh nhạc Việt Nam vẫn không ngừng phát
triển với những điểm mạnh:
- Về đội ngũ sáng tác:
“Đội ngũ sáng tác Thánh ca ở Việt Nam có
thể nói là một trong những đội ngũ đông nhạc sĩ nhất, với số lượng sáng tác các
bài Thánh ca mới nhiều nhất so với nhiều Giáo hội địa phương khác”[22].
- Về số lượng tác phẩm:
với số lượng bài hát mới, được cho là nhiều nhất so với các nước láng giềng,
Thánh ca Việt Nam “đã góp phần tích cực cho đời sống đạo của giáo dân Việt Nam:
không những giáo dục đức tin mà còn hâm nóng đức tin của họ ”[23], “đáp ứng nhu cầu cầu
nguyện của cộng đồng dân Chúa phù hợp với nhiều hoàn cảnh khác nhau”[24]
và “có hiệu quả truyền giáo rất lớn”[25]
Tuy nhiên, cũng chính điểm mạnh về số lượng tác phẩm và “đội
ngũ đông đảo nhạc sĩ nhất” lại là điểm yếu trong sự phát triển của nền Thánh nhạc
Việt Nam:
- Về đội ngũ sáng
tác: tuy đông đảo nhưng không nhiều người được đào tạo hoàn chỉnh về chuyên
môn Phụng vụ (thể hiện qua lời ca) và Thánh nhạc (hầu hết chỉ thể hiện qua chỉ
một hình thể ca khúc hai đoạn).
- Về số lượng tác phẩm:
tuy dồi dào về số lượng, nhưng lại nghèo nàn về hình thể âm nhạc. Suốt từ
giai đoạn đầu đến nay, hầu hết các bài hát đều chỉ được soạn theo mô hình ca
khúc hai đoạn tương tự như các bài “hát chầu lễ”. Các hình thể âm nhạc khác,
như hình thể bộ lễ, đối ca với thánh vịnh, thánh vịnh đáp ca... vừa rất ít, vừa
chỉ mới như những mô hình thử nghiệm.
Có thể nói, chính sự nghèo nàn về hình thể âm nhạc và sự hạn
chế của kiến thức về Phụng vụ và Thánh nhạc của người soạn nhạc, đã tạo nên những
khó khăn trong việc phân loại đúng tính chất của mỗi bài ca. Vì vậy, chỉ có thể
dùng một thuật ngữ thông dụng và duy nhất để gọi chung tất cả các bài hát đạo
là “thánh ca”. Và đó cũng chính là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến những
ngộ nhận như sẽ đề cập ở phần tiếp theo.
III. DẪN ĐẾN MỘT SỐ NGỘ NHẬN
Chính từ bối cảnh lịch sử phát triển thánh ca Việt Nam qua
các thời kỳ, đặc biệt là thời kỳ sau 30/4/75 và thời kỳ bùng nổ công nghệ thông
tin, cùng với những hạn chế về kiến thức Phụng vụ và Thánh nhạc, đã dẫn đến những
ngộ nhận nơi người sáng tác. Rồi từ những tác phẩm được viết trong sự ngộ nhận ấy
lại dẫn đến sự mất phương hướng cho người sử dụng.
1. Một số ngộ nhận nơi người sáng tác
• Ngộ nhận giữa cảm
thức xã hội và cảm thức của Hội Thánh (sensus Ecclesiae)[26]
Rất nhiều nhạc sĩ chỉ hiểu thánh ca theo định nghĩa của các
quyển từ điển tiếng Việt: “Thánh ca là
bài hát ca ngợi, cầu nguyện thần thánh trong các buổi lễ”[27]. Và theo định nghĩa đó, họ
soạn tác phẩm dâng lời “ca ngợi, cầu nguyện”
lên Thiên Chúa theo cảm thức chung của xã hội hoặc theo cảm nghiệm tâm linh của
riêng cá nhân.
Điều này dẫn đến việc diễn tả sai lạc về giáo lý đức tin
trong việc sử dụng ca từ và không phù với tác động phụng vụ trong cách hành văn
và chuyển hành giai điệu. Nên những bài ca như thế (không có cảm thức của Hội
Thánh), “thay vì giúp làm tan chảy các
linh hồn trong đức ái thì lại có thể trở thành nguồn gốc của sự khó chịu, tàn lụi,
rạn nứt điều thánh thiêng, nếu không thì cũng là sự chia rẽ trong cùng một cộng
đoàn tín hữu”[28]
Muốn có cảm thức của Hội Thánh, người nhạc sĩ cần hiểu rõ “mục đích của thánh nhạc là làm vinh danh
Chúa và thánh hóa các tín hữu”[29].
Để “vinh danh Chúa”
thì phải tuân theo “những quy tắc, luật
lệ của truyền thống, và quy luật trong
giáo hội”[30]
[31],
nói cách khác là phải có đủ kiến thức về Thánh nhạc qua các văn kiện hướng dẫn
của Giáo hội. Mà một khi đã tuân theo những chỉ dẫn của Giáo hội cũng chính là
thể hiện tính “linh thánh” của bài ca để “thánh
hóa các tín hữu’”6\
• Ngộ nhận về chủ thể
sáng tác
Việc ngộ nhận giữa cảm thức xã hội và cảm thức của Hội Thánh
dẫn đến việc sáng tác thánh ca theo cảm hứng tự nhiên tương tự như viết một bản
nhạc đời. Chính vì vậy mà ngay cả những nhạc sĩ không có đức tin Công giáo cũng
có thể viết được.
Trong khi đó, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II lại quả
quyết: “Chỉ khi nào một nghệ sĩ thấm nhuần
sâu xa cảm thức của Giáo hội mới có thể cố gắng cảm nghiệm và diễn đạt bằng
giai điệu chân lý của mầu nhiệm được cử hành trong Phụng vụ”[32].
Theo Quy luật Thánh nhạc, thì bài thánh ca phải được viết bởi
người có đức tin và sống đức tin[33]. Huấn thị về Thánh nhạc lại
còn đòi hỏi một mức cao hơn nữa: “Các ca
sĩ, nhạc sĩ... Khi được trực tiếp hay gián tiếp tham dự Phụng vụ thánh, thì trước
tiên họ phải có một đời sống Kitô giáo gương mẫu hơn các tín hữu khác”[34].
Căn cứ vào những hướng dẫn trên, thì không phải ai cũng có
thể viết thánh ca, cho dẫu người đó là người có đạo. Còn đối với những tác phẩm
của những người ngoài Kitô giáo, theo cha Kim Long, thì rõ ràng là Hội Thánh
không cho phép sử dụng[35] [36].
• Ngộ nhận về mục
đích tác phẩm
Việc không “đắm
mình trong cảm thức của Hội Thánh” '"
dẫn đến việc ngộ nhận về mục đích tác phẩm.
- Trong cách viết lời ca:
Rất nhiều bài được mệnh danh là thánh ca xuất hiện hằng ngày
trên các kênh truyền thông, nhưng thực chất lại thể hiện hoặc tâm tình hoặc triết
lý hay quan niệm đạo đức của một cá nhân hoặc một tập thể nhỏ.
Trong khi đó, lời của bài thánh ca là phải là lời nguyện cầu
của cộng đoàn tín hữu. Lời của bài ca phải được “rút ra từ Thánh Kinh và các nguồn mạch Phụng vụ”[37]. Trong thư gửi tín
hữu Êphêsô, Thánh Phaolô dạy: “Hãy dùng
những bài Thánh Vịnh, Thánh Thi và Thánh Ca do Thần Khí linh hứng mà đối đáp với
nhau và ca tụng Chúa hết lòng anh em” (Ep 5,19).
Một ngộ nhận khác nữa do chịu ảnh hưởng bởi các “bài hát chầu
lễ”, các tác giả thường hiểu: bài ca nhập lễ thì phải có những ý “về nhà Chúa”, “vào cung thánh”, “tiến lên
bàn thờ”... ; bài ca tiến lễ thì thế nào cũng phải có “bánh, rượu, hương trầm”.
Trong khi các đối ca nhập lễ và tiến lễ thường là các thánh
vịnh khác nhau, thỉnh thoảng trong một ngày lễ nào đó mới có những ý như vậy.
Và có lẽ cũng hơi thừa nếu bài ca lại mô tả những tác động Phụng vụ đang diễn
ra.
- Trong phong cách âm nhạc:
Nhiều tác giả quan niệm Thánh nhạc ngày nay phải phù hợp với
thời đại, nhất là phải hấp dẫn giới trẻ. vì vậy, những tiết tấu ngập ngừng,
kích động của các điệu nhảy, những quãng nhạc có tính chất uỷ mị, những đoạn nhạc
đầy kịch tính, cùng với tầm cữ tiếng hát quá rộng dành cho người có kỹ năng
thanh nhạc, được đưa vào bản thánh ca.
Trong khi đó mục đích của thánh ca không phải để ca sĩ hoặc
ca đoàn biểu diễn, nhưng là để cộng đoàn chung lời ngợi ca, cầu khẩn cùng Thiên
Chúa. Trong số 3 của Tự sắc Tra le Sollecitudini, Đức Piô X viết “Một bài ca viết cho thánh đường, càng giống
hình thể Bình ca về chuyển hành (giai điệu), về cảm hứng và về hương vị, thì
càng thánh thiện và mang tính phụng vụ hơn; và bài ca càng không hài hòa với mô
hình tối cao đó (bình ca), thì càng không xứng đáng với thánh đường”[38].
Những ngộ nhận như vừa mô tả khiến bài ca không thể được
dùng trong phụng vụ, mà chỉ là một bài ca dùng cho các sinh hoạt tôn giáo như để
biểu diễn, để suy niệm tĩnh tâm, để dạy giáo lý...
• Ngộ nhận về hình thể
âm nhạc
Hiến chế về Phụng vụ đã được ban hành hơn nửa thế kỷ, nhưng
hình như các nhạc sĩ vẫn chưa thể “ý thức
được hành trình lâu dài của Hội Thánh qua dòng lịch sử loài người”[39],
chưa “biết đắm mình trong cảm thức của Hội
Thánh”[40],
nên vẫn hạn chế về “khả năng nhận biết
chân lý và dùng âm điệu diễn tả được chân lý của mầu nhiệm được cử hành
trong phụng vụ ”[41]. Họ vẫn như còn dậm
chân tại chỗ, vẫn chỉ viết theo một hình thể “hát chầu lễ” duy nhất của thời kỳ
trước Công đồng Vatican II. Hơn 90% các bài thánh ca Việt Nam đều là những ca
khúc hai đoạn theo chiều điệp khúc - phiên khúc hoặc chiều ngược lại phiên khúc - điệp khúc..
Thánh nhạc là “nữ tỳ của phụng vụ”[42]
(hiểu theo nghĩa không có Thánh nhạc, Phụng vụ vẫn đầy đủ, trọn vẹn), âm nhạc
là để phục vụ cho bản văn. Mà các bản văn trong phụng vụ bao gồm nhiều hình thức
khác nhau: hình thức thi ca của các thánh vịnh, thánh thi, hình thức trình thuật
của các bài đọc, hình thức đối đáp của các nghi thức... Vì thế, để diễn đạt các
hình thức bản văn khác nhau ấy, âm nhạc cần phải có những hình thể âm nhạc và
cách kết cấu giai điệu khác nhau.
Trong sách hát chính thức của giáo hội, Graduale Simplex, có
các hình thể âm nhạc như: cung hát thánh vịnh, cung hát chủ tế, đối ca với
thánh vịnh, thánh vịnh đáp ca, bài ca chúc tụng (hymnus), ca tiếp liên
(sequentia).
Có thể nói, vì sự ngộ nhận kéo dài này, nên thánh ca Việt
Nam tuy phong phú về mặt số lượng bài hát, nhưng lại nghèo nàn về hình thể âm
nhạc để có thể gắn kết chặt chẽ với phụng vụ.
2. Ngộ nhận nơi người sử dụng
Như đã trình bày ở phần trước, tính đến hôm nay, không thể
nào thống kê hết số lượng bài thánh ca Việt Nam. Nhất là trong thời đại công
nghệ thông tin này, việc phổ biến các tác phẩm rất nhanh chóng và thuận lợi,
nên mỗi tuần lại thấy xuất hiện thêm những bài được gọi là thánh ca mới.
Mặc dù văn kiện Hướng Dẫn Mục Vụ Thánh Nhạc, và văn bản nhắc
nhở về “việc chuẩn nhận các bài thánh ca
(imprimatur) và chỉ sử dụng những bài thánh ca đã chính thức “imprimatur”[43],
đã tạo nên những nhận thức đúng đắn trong việc sử dụng những bài thánh ca,
nhưng với số lượng quá nhiều bài như đã nêu, người sử dụng vẫn thật sự lúng
túng. Vì không biết bài nào đã được chuẩn nhận và trong số những bài đã được
giáo quyền cho phép thì “không phải tất cả
các bài hát đã được imprimatur (cho phép in) là có thể hát trong phụng vụ. Vấn
đề chính vẫn là ở phía người sử dụng phải được trang bị khả năng phán đoán và lựa
chọn.”[44]
• Ngộ nhận giữa thánh
ca trong phụng vụ và bài ca tôn giáo đơn thuần.
Những câu hỏi thường xuyên gửi đến UBTN hầu như tập trung
vào một bài ca nào đó có được hát trong thánh lễ hay trong phụng vụ không.
Ví dụ:
- “Có thể hát bài Tôi Chọn Giêsu của Ý Vũ trong thánh lễ
giới trẻ không?” (Tôi chọn Giêsu là nắng,
tôi chọn Giêsu là mưa, cho tháng năm thôi nỗi đìu hiu giá lạnh khô cằn. nắng về
tôi chia anh nồng ấm, mưa về tôi trao anh màu xanh...);
- “Có thể hát bài Vòng Tay Cho
Người của Duy Thiên trong Phụng vụ Tuần Thánh không?” (Ngày xưa Chúa Kitô, thập giá vác trên vai, vòng gai quấn trên đầu Người
ra pháp trường. Người đi chết cho ai? Người đi chết cho anh, chết cho em, chết
cho người đời hôm nay. Người ơi có nhớ, Người đã chết cho đời. Bạn ơi có hay,
xin cho Người vòng tay.)
- “Có thể hát bài Lặng của Trần Tuấn trong Phụng vụ Mùa
Chay?” (Lặng. để nghe tiếng sóng,
sóng xô, xô trong lòng ta. Lặng. để
nghe tiếng gió, gió cuốn cơn đau ngày sau. Lặng.
để nghe nước mắt hắt hiu trên đôi bờ mi xanh. Đời sao vắng tanh cho trái
tim xanh tàn nhanh.).
Xin được trích một vài “comment” trên website về bài hát Lặng trên đây[45]:
- Thương 15/02/2017 lúc 10:50 chiều: “Dạ làm ơn cho e hỏi bài này có được phép dùng trong phụng vụ không?
Xin cảm ơn!”
- Tiep Nguyen 28/03/2019 lúc 11:47 chiều: “Bài Thánh ca này là cho phụng vụ của mùa chay”
- Nguyen Gia Yen 03/10/2019 lúc 12:28 chiều: “Theo mình, ca hát cũng không ngoài việc tôn vinh Thiên Chúa, và cũng
như lời cầu nguyện của mình. Nếu nội dung một bản không đi ngoài ý tưởng trên
và còn đem lại niềm khích lệ cho mọi người thiết nghĩ Chúa cũng đồng ý. Tất
nhiên Hội thánh sẽ có lời phê chuẩn cuối cùng”.
Những câu hỏi và “comment” như trên phản ánh sự mất phương
hướng lựa chọn nơi số đông người sử dụng, đặc biệt là nơi các bạn trẻ, là những
người thường xuyên sử dụng internet.
• Ngộ nhận về việc sử
dụng những bài ca trong các phần của thánh lễ
Cũng có không ít câu hỏi và thắc mắc liên quan đến những bài
thánh ca đi kèm nghi thức phụng vụ như:
Những câu hỏi ngộ nhận là bài ca nhập lễ phải có ý nghĩa “về nhà Chúa”, “vào cung thánh”, “tiến lên
bàn thờ”..., bài ca tiến lễ phải có “bánh,
rượu”.
Trong khi HDMVTN đã chỉ dẫn: “Hát đối ca và thánh vịnh đang khi rước là một truyền thống lâu đời
trong phụng vụ Rôma. Các đối ca và thánh vịnh có thể được lấy từ các sách phụng
vụ chính thức”. “Có thể dùng điệp ca Graduale Simplex; hoặc dùng bản hát nào
khác phù hợp với cử hành phụng vụ, với tính chất của ngày lễ, hay mùa phụng vụ.
Bản văn bài hát này phải được Hội đồng Giám mục chuẩn nhận”[46].
Ngộ nhận ca hiệp lễ phải có ý nghĩa “rước Chúa vào lòng”,”Bánh hằng sống”. mà không thể hát bài
Magnificat là bài kính Đức Mẹ.
Trong khi HDMVTN số 180 đã nêu rõ: “Khi tuyển chọn bài Ca Hiệp lễ phù hợp cho bữa tiệc Thánh Thể là nơi
Thiên Chúa tuôn đổ dạt dào phúc lành của Người, nên tìm những bản văn có chủ đề
về niềm vui, niềm ngưỡng mộ, sự hiệp nhất, lòng biết ơn và tán tụng”[47].
Mà trong ý nghĩa của chỉ dẫn này thì những bài mà nhiều người lầm tưởng là ngợi
khen Đức Mẹ, như “Linh hồn tôi tung hô
Chúa...” của Kim Long hay bài Magnificat[48]
của Hoàng Kim, xem ra lại rất phù hợp.
• Ngộ nhận giữa thánh
ca trong phụng vụ và bài ca thế tục
Trong một buổi sinh hoạt có chủ đề về thánh ca dành cho các
bạn trẻ ở một giáo xứ, người quản trò đưa ra câu đố: “Hãy nêu tên năm bài thánh ca cùng với tên tác giả của mỗi bài.”
Nhiều cánh tay đưa lên cùng với những đáp án khác nhau, đa phần là đúng. Tuy
nhiên vẫn có những đáp án ngộ nhận giữa thánh ca và nhạc thế tục, như:
- Bài Jingle Bell, nhạc ngoại quốc.
- Bài Ave Maria, nhạc của Schubert, lời Việt của Phạm Duy.
- Bài Chúa Hòa Bình của Phạm Duy.
- Bài Mùa Sao Sáng của Nguyễn Văn Đông.
- Bài Thánh Ca Buồn của Nguyên Vũ.
Và còn rất nhiều sự ngộ nhận khác nữa về các bài được gọi là
thánh ca, thí dụ những bài “nhạc đời” nước ngoài được đặt “lời đạo” Việt, những
bài “dân ca” được cải biên thành bài thánh ca... Hoặc những ngộ nhận về tác quyền
khi các ca sĩ đăng ký bài trên các kênh truyền thông như youtube, facebook.
Tuy nhiên, bài viết này chỉ muốn nhấn mạnh đến một điều cơ bản
là nếu không có tác giả thì cũng không có tác phẩm. Nên trách nhiệm về những sự
ngộ nhận như đã nêu, trước tiên phải quy về tác giả, nhất là khi người ấy lại nằm
trong số những người có tầm ảnh hưởng trong Giáo Hội như linh mục, tu sĩ.
IV. PHÂN LOẠI THÁNH NHẠC THEO HUẤN THỊ DE MUSICA IN SACRA LITURGIA
Chỉ một tên gọi “thánh ca” dùng chung cho tất cả các bài hát
đạo đã dẫn đến những ngộ nhận như đã trình bày ở những phần trước. Có lẽ cũng
vì vậy mà Lm Phêrô Kiều Công Tùng cho rằng đang có một “sự thúc bách cần thay đổi về mặt thuật ngữ”[49], “không chỉ là để gọi
tên cho chính xác mà là xác định lại chức năng, phạm vi và mục đích của từng
lãnh vực liên quan đến thánh nhạc”[50].
Để có thể định danh từng thể loại thánh ca, trước tiên ta cần
tìm hiểu những chỉ dẫn của Giáo hội.
Theo huấn thị “De Musica in Sacra Liturgia” số 4b, ngày 5
tháng 3 năm 1967, thánh nhạc đã được phân thành bốn loại như sau:
1. Ca điệu Gregorio (bình ca)
Bình ca là loại âm nhạc cao quý và mẫu mực, được kết tinh từ
những truyền thống ca hát phụng vụ xa xưa của các Hội Thánh.
“Giáo Hội nhìn nhận
bình ca là gia sản riêng của phụng vụ Rôma: vì thế, trong các hoạt động phụng vụ,
bình ca phải giữ địa vị chính yếu giữa những loại hình thánh ca khác.” [51].
Giáo hội luôn đề cao các hình thể âm nhạc của bình ca và
khuyên các nhạc sĩ khi sáng tác những bài thánh ca phụng vụ mới (bằng tiếng bản
xứ), phải “khảo cứu thể loại, đặc điểm của
các tác phẩm dĩ vãng” “để các hình thức mới sẽ do các hình thức cũ nảy sinh
một cách có cơ cấu”[52].
2. Các hình thức thánh ca đa âm xưa và nay
a. Thánh ca đa âm xưa[53]:
Là loại thánh ca hợp xướng nhiều bè không có đệm đàn, phát
xuất từ truyền thống ca điệu Gregorian. Loại thánh ca đa âm này phát triển mạnh
vào thời trung cổ và đạt đỉnh cao nghệ thuật trong các tác phẩm của các tác giả
tiêu biểu như Giovanni Pierluigi, Palestrina (1524-1594) vào nửa sau của thế kỷ
16.
b. Thánh ca đa âm nay[54]:
Là loại thánh ca hợp xướng nhiều bè, đôi khi có phần đệm
đàn. Loại thánh ca đa âm này phát triển vào những thế kỷ gần đây với những
phong cách của các thời kỳ âm nhạc mới.
3. Thánh nhạc cho đại quản cầm[55] và các nhạc cụ đã được cho phép
Là loại thánh nhạc soạn cho đàn organ độc tấu. Kể từ khi đàn
ống (pipe organ) được sử dụng, các nhà soạn nhạc bậc thầy đã góp phần phát triển
nó một cách rộng rãi qua các tác phẩm kinh điển của mình. Nếu các tác phẩm cho
organ và các nhạc cụ được cho phép tuân thủ các luật lệ dành cho thánh nhạc,
thì đó là một đóng góp quan trọng vào vẻ đẹp của phụng vụ thánh.
4. Thánh ca bình dân (sacred popular music[56]), dùng trong phụng vụ (be it liturgical) hoặc
đơn thuần là nhạc tôn giáo (or simply religious).
Thánh ca bình dân được hiểu nôm na là những bài thánh ca bằng
tiếng bản xứ. Thông cáo của ủy ban Thánh nhạc ngày 22 tháng 11 năm 1970 đã phân
loại thánh ca bình dân phụng vụ và tôn giáo làm ba loại: phụng ca, thánh ca và
giáo ca.
V. PHÂN LOẠI VÀ ĐỊNH DANH THÁNH CA BÌNH DÂN
Để tránh ngộ nhận cho cả người sáng tác lẫn người sử dụng,
ta nên phân loại thánh ca bình dân một cách chi tiết và rõ ràng. Đồng thời cũng
nên xác định tên gọi cho mỗi loại thay vì chỉ dùng duy nhất một thuật ngữ
“thánh ca”. Vì “gọi tên chính xác một chủ
thể sẽ đưa đến những đáp ứng tích cực trong các hoạt động liên quan đến chủ thể
đó”[57].
Căn cứ vào huấn thị De
Musica in Sacra Liturgia số 4b, và dựa vào cách phân loại và đặt tên được
nêu trong Thông cáo của UBTN ngày 22 tháng 11 năm 1970, ta có thể phân thánh ca
bình dân thành ba loại chính và định danh như sau: Ca Phụng Vụ, Ca Nguyện và Ca
Tôn giáo.
1. Ca Phụng vụ (CPV)
CPV là những ca điệu hoặc bài ca mà lời là bản văn phụng vụ
trong sách lễ. Chi tiết hơn, có thể phân làm hai loại tùy theo tính chất liên kết
với phụng vụ:
(1a) CA PHỤNG VỤ nghi thức:
Là các ca điệu hoặc bài hát thuộc nghi thức phụng vụ: Bao gồm:
cung chủ tế, bộ lễ, các bài đọc, các lời nguyện, kinh nguyện, thánh vịnh đáp
ca... Đây là những ca điệu được soạn trên chính bản văn phụng vụ cố định[58], không được phép thay đổi
hoặc thích ứng.
(1b) CA PHỤNG VỤ kèm theo nghi thức:
Là những bài ca đi kèm theo nghi thức phụng vụ, như ca nhập
lễ, tiến lễ, hiệp lễ... Những bài ca này có thể được dệt nhạc trên chính bản
văn phụng vụ trong sách lễ hoặc có thể “được
thích ứng khi phiên dịch sao cho hợp với tinh thần của ngôn ngữ và đòi hỏi của
sáng tác”[59].
2. Ca nguyện
Ca nguyện là những bài hát thể hiện tâm tình chúc tụng, ngợi
khen và nguyện cầu, mà lời không phải là bản văn phụng vụ. Tuy nhiên, những bài
ca này được khơi nguồn từ Thánh Kinh và phụng vụ, thể hiện đức tin và cảm thức
của Hội Thánh (sensus Ecclesiae)[60].
“Ca nguyện có tác
dụng tốt đẹp đối với đời sống của các tín hữu, làm thấm nhuần cả đời sống riêng
tư và xã hội của họ với tinh thần Kitô giáo chân chính (x. Ep 5,18-20; Cl 3,16). Nó đã được khuyến khích từ những thời kỳ đầu
tiên, và trong thời đại của chúng ta, nó vẫn được khuyến khích để nuôi dưỡng
lòng đạo đức của các tín hữu, và nâng cao lòng sùng mộ riêng tư của họ. Đôi
khi, ngay cả những bản nhạc như thế cũng có thể được đưa vào các nghi lễ phụng
vụ ”[61].
Vì vậy, có thể phân Ca Nguyện làm hai loại dùng trong phụng
vụ và loại dùng ngoài phụng vụ:
(2a) Ca nguyện thay thế CPV kèm
nghi thức
Để bài ca nguyện được dùng trong phụng vụ, thì bản văn của
nó phải được sự chuẩn nhận của Hội Đồng Giám Mục[62].
Ví dụ:
- Con sẽ bước lên bàn
thờ (Hùng Lân),
- Con sẽ hân hoan (Kim
Long), và nhiều bài trong các tuyển tập Ca Lên Đi.
- Một số bài được xác định thay thế những bài ca đi kèm nghi
thức phụng vụ trong các tuyển tập thánh ca của Uỷ Ban Thánh Nhạc.
(2b) Ca nguyện ngoài phụng vụ
Là những bài ca cùng có nội dung như đã mô tả ờ mục số (2) của
phần này, nhưng chỉ dùng trong những hoạt động đạo đức như hát kết lễ, tĩnh
tâm, suy niệm, cầu nguyện....
Ví dụ:
- Những bài hát kết lễ.
- Một số bài kính Đức Mẹ hoặc các Thánh (chưa được HĐGM chuẩn nhận làm bài ca thay thế),
- Một số bài Tâm Tình
Ca của Thành Tâm.
- Một số bài của nhóm
Alleluia được UBTN tuyển chọn.
3. Ca Tôn giáo
“Ca tôn giáo là bất
kỳ loại bài hát nào được soạn theo ý riêng, hoặc theo chủ đề, hoặc theo mục
đích của người sáng tác, nhằm khơi dậy lòng sùng kính và tình cảm tôn giáo.
Những bài ca như vậy “là một trợ giúp hữu
hiệu cho tôn giáo” (Musicae Sacrae Disciplina). Nhưng vì nó không nhằm mục đích thờ phượng,
và được sáng tác theo phong cách tự do, nên nó không được sử dụng trong các
nghi lễ phụng vụ”[63].
Ví dụ:
- Bản cầu hồn của Mozart.
- Ave Maria (lời là kinh Kính mừng tiếng La tinh) của Schubert
- Đôi dép, Một Chút... và các bài của Thông Vi Vu
- Gặp gỡ Đức Kitô, Trên đường về nhà Cha. và các bài của Tiến Lộc và các
thân hữu.
- Lặng của Trần Tuấn
- Tôi chọn Giêsu của Ý Vũ và một số bài của nhóm Lửa Hồng;
- Các bài ca giáo lý và phong
trào Thiếu Nhi Thánh Thể....
Tóm tắt và khái quát những nội dung vừa trình bày, ta có thể
tạo nên bảng phân loại và định danh sau đây:
Bảng phân loại và định
danh
CA PHỤNG VỤ (CPV) |
CA NGUYỆN |
CA TÔN GIÁO | ||
Nghi thức |
Kèm theo nghi thức |
thay thế CPV kèm theo nghi thức |
Ngoài phụng vụ |
Các loại sinh hoạt khác |
(1a) |
(1b) |
(2a) |
(2b) |
(3) |
Bản văn phụng vụ |
Bản văn phụng vụ hoặc bản văn phụng vụ thích ứng |
Lời ca phù hợp nghi thức, mùa lễ, ngày lễ có chuẩn nhận của
HĐGM |
Bản văn khơi nguồn từ Kinh Thánh, Truyền thống |
Bản văn tự do nhằm khơi dậy lòng sùng kính và tình cảm tôn
giáo |
VI. HƯỚNG ĐẾN TƯƠNG LAI
- Từ những khiếm khuyết
trong quá trình phát triển Thánh nhạc
Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, tính từ lúc Công đồng Vatican II
Canh tân Phụng vụ bằng việc cho phép các giáo hội địa phương sử dụng tiếng bản
xứ trong các lễ nghi thờ phượng. Thánh nhạc, trong vai trò không những là “phục
vụ cho Phụng vụ”[64] mà còn là “thành phần cần
thiết của Phụng vụ”[65] thì cũng thật cần thiết phải
có những bài Ca Phụng Vụ bằng tiếng bản địa.
Mặc dù không thể phủ nhận sự phát triển của Thánh nhạc Việt
Nam qua các giai đoạn lịch sử, nhưng ở góc nhìn về Canh tân Phụng vụ, thì sự
phát triển ấy chỉ mới ở chiều rộng là có nhiều tác giả và tác phẩm, mà chưa
phát triển ở chiều sâu.
Nói cách khác, các nhạc sĩ mới chỉ, “người đi sau tiếp nối
người đi trước”, tập trung vào việc sáng tác những bài Ca Nguyện và Ca Tôn Giáo
theo hình thể những bài “hát chầu lễ”. Trong khi Ca Phụng Vụ, vừa quan trọng
hơn và thách thức hơn, vừa đa dạng và phổ quát hơn hơn, lại chưa được quan tâm
đầy đủ và đúng đắn.
Quan trọng hơn vì phải là những bài Ca Phụng Vụ chứ không chỉ
là những bài Ca Nguyện được phép thay thế.
Thách thức hơn vì đòi hỏi khả năng sáng tạo âm nhạc trên bản
văn cố định hoặc kỹ năng viết văn để tạo nên lời ca thích ứng với giai điệu mà
không xa rời ý bản văn gốc. Tính thánh thiện (sanctitas) của thánh nhạc được thể
hiện một cách cụ thể qua lời ca là chính bản văn Phụng vụ. Ngoài ra, chính
thách thức sẽ tạo nên hứng khởi và động lực cho người viết nhạc.
Đa dạng hơn vì cần nhiều hình thể âm nhạc khác nhau cho các
loại hình thức của bản văn phụng vụ. Các huấn thị luôn đề cập đến hình thể âm
nhạc phù hợp (bonitas formae - hình thể tốt đẹp), các hình thức mới sẽ phát sinh từ các hình thức đã có sẵn, do một sự
phát triển có thể nói được là quan yếu và các tác phẩm mới sẽ tạo ra một phần mới
cho ca mục âm nhạc của Hội Thánh, không bất xứng với quá khứ một chút nào.”[66]
Phổ quát hơn (universitas), vì chính các hình thể âm nhạc mới
sẽ được phát sinh từ những hình thể âm nhạc có sẵn (bình ca) như hướng dẫn của
Giáo Hội, nên dù là hát bằng tiếng Việt, nhưng người các nước khác sẽ vẫn có cảm
nhận đó là loại bài Phụng Vụ nào.
- Đến định hướng phát
triển cho tương lai
Việc nhìn nhận khiếm khuyết trong quá trình phát triển mở ra
một tầm nhìn mới hướng đến tương lai: phát triển hài hoà đủ cả chiều rộng lẫn
chiều sâu..
Ở chiều rộng, Thánh nhạc Việt Nam đã có cả một kho tàng đồ sộ
những bài Ca Nguyện và Ca Tôn Giáo đáp ứng cho nhiều nhu cầu khác nhau và góp
phần không nhỏ vào việc hình thành nền tân nhạc Việt Nam[67].
Trong tương lai, dù không có những khuyến khích và cổ xúy, những bài Ca Nguyện
và Ca Tôn Giáo sẽ vẫn đều đặn được sáng tác.
Để tránh những ngộ nhận, trước tiên, cần đến sự phán đoán và
nhận thức chuẩn mực của các nhạc sĩ về loại bài ca[68],
về ý nghĩa và mục đích của tác phẩm khi biên soạn. Tiếp đến, việc chuẩn nhận
nơi giáo quyền cũng nên phân loại rõ ràng thể loại bài ca xin imprimatur.
Về mặt phổ biến và phát hành các tác phẩm, mỗi tác giả nên
thể hiện thể loại của mỗi bài hát trong mỗi tuyển tập của mình khi phổ biến.
Ngoài ra, cũng cần có sự cộng tác của những người biên tập các website thánh
ca, các kênh ca nhạc youtube. trong việc sắp xếp các loại bài hát đạo.
Ở chiều sâu, ngoài một vài bộ lễ (kyriale) của Đức cha Hoà,
cha Kim Long., một số ít bài đối ca với thanh vịnh của cha Hoàng Kim, thánh vịnh
đáp ca (theo bản văn cố định) của cha Kim Long, cha Xuân Thảo., thì những bài
thực chất là Ca Phụng Vụ hầu như quá hiếm hoi.
Vì vậy, định hướng phát triển cho tương lai, thiết nghĩ UBTN
nên cổ xúy việc sáng tác những bài Ca Phụng Vụ.
Có thể bắt đầu bằng việc khuyến khích các nhạc sĩ dùng hình
thể ca khúc hai đoạn quen thuộc để viết các bài đối ca với thánh vịnh
(antiphona cum psalmo suo). Trong đó, điệp khúc dệt nhạc trên chính bản văn[69] ca nhập lễ, tiến lễ, hiệp lễ...
của Sách Lễ; còn phần thánh vịnh[70], có thể thích ứng từng câu
thánh vịnh theo giai điệu của phiên khúc.
- Các khóa huấn luyện
dành cho người sáng tác
Để có thể soạn được những ca điệu dành cho bản văn cố định,
UBTN và các BTN các giáo phận cần có các khóa huấn luyện chuyên môn cho những
người sáng tác về các hình thể âm nhạc trong phụng vụ lấy mẫu mực từ những hình
thể âm nhạc của bình ca.
Thách thức ở đây là sự đón nhận các bài Ca Phụng Vụ của người
sử dụng bao gồm các ca trưởng, ca đoàn và cộng đoàn, vốn dĩ đã có định kiến
thánh ca phải là ca khúc theo kiểu hát chầu lễ từ trước đến nay.
- Các khóa huấn luyện
dành cho người sử dụng
Để vượt qua thách thức, một mặt, cần có những tác phẩm có
giá trị, mặt khác, cần có những khoá học ngắn về phụng vụ và thánh nhạc dành
cho đối tượng là những người sử dụng. Hiểu được mục đích của bài Ca Phụng vụ và
nhận ra tính thẩm mỹ của mỗi hình thể âm nhạc sẽ giúp người sử dụng dễ dàng đón
nhận những bài ca viết theo lối mới.
Nhìn lại lịch sử phát triển, để có đạt được số lượng và chất
lượng những bài Ca Nguyện như ngày nay, chúng ta đã phải trải qua một khoảng thời
gian hơn ba phần tư thế kỷ.
Vậy, để phát triển những bài Ca Phụng Vụ ngang bằng với những
bài Ca Nguyện hiện nay, ít nhất cũng cần đến ngần ấy thời gian, như nhận định của
Đức Cố Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Hoà, đặc trách Thánh nhạc của HĐGMVN, trong
cuộc hội thảo về đề tài Thánh vịnh Đáp ca ngày 24/7/1996: “Chúng ta đang và sẽ tìm tòi một giải pháp (hình thể) tối ưu... có thể
vài chục năm nữa, khi phần đông chúng ta không còn, Giáo hội Việt Nam mới có một
hình thể thích hợp.”[71]
Lời nhận định trên có thể
được xem như một tầm nhìn và một định hướng đúng đắn cho sự phát triển Thánh nhạc
Việt Nam. Tuy nhiên, điều ấy sẽ chẳng thể biến thành hiện thực nếu chúng ta
không bắt đầu ngay từ hôm nay.
Trích Bản tin Hiệp
Thông / HĐGMVN, Số 126 (Tháng
9 & 10 năm 2021)
[1] Thánh nhạc và đời sống đức tin của Dân Chúa tại Việt
Nam 50 năm qua (1960- 2010) của UBTN - Giai đoạn hình thành các bài thánh ca tiếng
Việt, trang 10 - 11.
[3] Thánh nhạc và đời sống đức tin của Dân Chúa tại Việt
Nam 50 năm qua (1960-2010) của UBTN - Giai đoạn hình thành các bài thánh ca tiếng
Việt, trang 10 - 11.
[5] “Tân nhạc” là tên gọi thông dụng của dòng nhạc xuất
hiện tại Việt Nam vào khoảng năm 1928, lấy nhạc ngữ Tây phương làm nền tảng. Gọi
là “tân nhạc” để phân biệt với “cổ nhạc” là các loại nhạc cổ truyền.
[6] Thánh nhạc và đời sống đức tin của Dân Chúa tại Việt
Nam 50 năm qua - Giai đoạn sau 1954 đến 1975 - số 6b
[7] NHÓM ALLÉLUIA - Nhạc Vào Đời của Học Viện Dòng Chúa Cứu
Thế nửa cuối thập niên 1960 tại Đà Lạt - Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT(viết theo tài liệu Dòng Chúa Cứu Thế Việt
Nam) http://www. simonhoadalat.com/thanhnhac/VaoDoi/NhomAlleluia.htm
[8] Về nội dung lời ca: lấy ý từ trong Kinh Thánh, Phụng
Vụ và Truyền Thống (thí dụ: Hương Thánh Kinh I và II - Vinh Hạnh - 1963)...
[9] Về hình thức âm nhạc và phong cách âm nhạc: hình thể
bộ lễ (Seraphim - 1964 và Ca lên đi - 1968), hình thể đối ca với thánh vịnh (Họp
Mừng Vượt qua - Hoàng Kim - 1970).
[10] Thánh nhạc và đời sống đức tin của Dân Chúa tại Việt
Nam 50 năm qua - Giai đoạn sau 1954 đến 1975 - số 6b + Vinh Hạnh
[11] Thánh nhạc và đời sống đức tin của Dân Chúa tại Việt
Nam 50 năm qua - Giai đoạn sau 1954 đến 1975 - số 6b - Hoàng Kim
[12] “Joseph Gelineau Biography - GIA Publications”, web.archive.org. 2021-03- 09. Retrieved
2021-04-12. https://web.archive.org/web/20210309095847/ https://www.giamusic.com/bios/gelineau_joseph.cfm
Joseph Gelineau (1920-2008),
linh mục dòng Tên, nhà soạn nhạc Pháp, thành viên hội đồng dịch thuật La Bible
de Jérusalem, khai sáng ra kiểu hát thánh vịnh mà người ta gọi tên là Gelineau
psalmody, được nhiều nơi trên thế giới áp dụng.
[13] Tinh Một Nhà, lời ca: Gioan Minh, nhạc: Tiến Dũng, viết
cho dàn nhạc và hợp xướng. - Khoa âm nhạc Đại học Minh Đức trình diễn năm 1973.
[14] Đêm Ba Mươi Tết Trên Sông, Nhạc và lời: Tiến Dũng, viết
cho dàn nhạc và hợp xướng . - Khoa âm nhạc Đại học Minh Đức trình diễn năm
1973.
[16] Dẫn vào Thánh nhạc - Bài 1: Tình hình Thánh nhạc -
Ban Thánh Nhạc TGP Sài Gòn 1975 - 1988, trang 5.
[17] Thánh nhạc và đời sống đức tin của Dân Chúa tại Việt
Nam 50 năm qua - Giai đoạn sau 1975 - số 7b, Sau năm 1975 - Vấn đề bị bỏ ngỏ
[19] Thông Cáo 1, gồm 3 nội dung chính: I. Các bài Thánh
Ca được dùng khi cử hành Phụng vụ, II. Nhạc cụ dùng trong Phụng vụ và III. Huấn
luyện về Thánh Nhạc - Thông Cáo 2,
Góp Ý Về Việc Chuẩn Nhận Các Bài Thánh Ca Dùng Trong Phụng Vụ - Thông Cáo 3: Hướng
Dẫn Sáng Tác và Sử Dụng các Bài Hát Trong Thánh Lễ
[21] Việc chuẩn nhận các bài Thánh ca, Lm Rôcô Nguyễn Duy,
Thư ký UBTN -
HĐGMVN - Hương trầm số 31,
trang 21 - 47
[28] Bài nói chuyện với các Tu sĩ chuyên lo việc ca hát
trong phụng vụ vào ngày 15/4/1971 tại Rôma được Đức Thánh Giáo hoàng Phaolô VI.
- Trích đoạn từ bài “Âm nhạc theo cảm thức của Giáo hội”, LM Giuse Võ Tá Hoàng.
https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/am-nhac-theo-cam-thuc-cua-giao-hoi-40596
[31] Dẫn vào Thánh Nhạc - Bài 2: Thánh nhạc và những quy
luật của thánh nhạc; Số II: Mục đích của thánh nhạc - Ban Thánh Nhạc TGP Sài
Gòn, 1975 - 1988, trang 12 - 14.
[32] Chirograph of the supreme pontiff John Paul II for
the centenary of the motu proprio “Tra le Sollecitudini” on Sacred music, số 12
- Trích đoạn từ bài “Âm nhạc theo cảm thức của Giáo hội”, LM Giuse Võ Tá Hoàng.
https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/am-nhac-theo-cam-thuc-cua-giao-hoi-40596
[35] Thánh ca trong Phụng vụ, Kim Long - Chương 5: Nhạc Phụng
vụ phải thánh -
Nên phải được thể hiện bởi các nghệ sĩ Kitô giáo chân chính. - trang 95 - 97.
[38] Tra Le Sollecitudini - Instruction on Sacred Music, số
3 - Đức Piô X, ngày 22 tháng 10 năm 1903. “On
these grounds Gregorian Chant has always been regarded as the supreme model for
sacred music, so that it is fully legitimate to lay down the following rule:
the more closely a composition for church approaches in its movement,
inspiration and savour the Gregorian form, the more sacred and liturgical it
becomes; and the more out of harmony it is with that supreme model, the less
worthy it is of the temple”.
[43] Việc chuẩn nhận các bài Thánh ca, Lm Rôcô Nguyễn Duy,
Thư ký UBTN -
HĐGMVN - Hương trầm số 31,
trang 21 - 47
[44] Hương Trầm số 12, tháng 10 năm 2010, trang 27 - 31; Từ
thánh nhạc đến nhạc
phụng vụ, Lm Phêrô Kiều Công Tùng -
1. Thay đổi trong thực hành mục vụ
[48] Magnificat không phải là bài kính Đức Mẹ như định kiến
của nhiều người, mà là kinh ngợi khen tạ ơn Chúa của Đức Mẹ.
[49] Hương Trầm số 12, tháng 10 năm 2010, trang 20 - 21; Từ
thánh nhạc đến nhạc phụng vụ, Lm Phêrô Kiều Công Tùng - 1. Thay đổi trong cách
gọi tên (thuật ngữ)
[53] De musica sacra et sacra liturgia, ngày 3/9/1958, số
6. https://adoremus.org/1958/09/instruction-on-sacred-music/
[55] De musica sacra et sacra liturgia, ngày 3/9/1958, số
8. https://adoremus.org/1958/09/instruction-on-sacred-music/
[56] Popular music được từ điển Britanica giải thích là bất
kỳ loại âm nhạc nào (ngoại trừ âm nhạc dân gian) thu hút được sự yêu thích của
đại chúng. https://www.britannica.com/art/popular-music .
Sacred popular music được hiểu
là những bài thánh ca tiếng bản xứ.
[57] Hương Trầm số 12, tháng 10 năm 2010, trang 20; Từ
thánh nhạc đến nhạc phụng vụ, Lm Phêrô Kiều Công Tùng
[61] De musica sacra et sacra liturgia, ngày 3/9/1958, số 9. https://adoremus.org/1958/09/instruction-on-sacred-music/
[63] De musica sacra et sacra liturgia, ngày 3/9/1958, số 10.
https://adoremus.
org/1958/09/instruction-on-sacred-music/
[67] Thánh nhạc và đời sống đức tin của Dân Chúa tại Việt
Nam 50 năm qua (1960-2010) của UBTN - C. Nhận định
[71] Thánh ca trong Phụng vụ - Kim Long, trang 146