1. Công đồng Vatican II và những vấn đề nền tảng

2. Tính Hiệp hành trong sự tiếp nối với Công đồng Vatican II

3. Tính Hiệp hành và các vấn đề nền tảng

4. Bernard Lonergan về Tình yêu và Chân lý

5. Sự hoán cải tri thức và phương pháp thần học

6. Kết luận: Lonergan và Tiến trình Thượng Hội đồng


Bài viết này khám phá câu hỏi tương đối mang tính lý thuyết về sự đóng góp của thần học hàn lâm đối với tiến trình Thượng Hội đồng và cách tương tác này có thể sâu sắc hơn ra sao trong những năm tới. Bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của những vấn đề thần học nền tảng, dựa trên tư tưởng của triết gia và thần học gia Dòng Tên Bernard Lonergan để định nghĩa thuật ngữ này. Bài viết truy nguyên cách thức nhận thức chậm rãi về tầm quan trọng của những vấn đề như vậy cùng với sự chú ý rõ ràng đến vấn đề về phương pháp thần học liên quan đến điều này, bắt đầu xuất hiện tại Công đồng Vatican II. Sau đó, bài viết gợi ý rằng những vấn đề như vậy đã tiến gần hơn đến trọng tâm chú ý trong tiến trình Thượng Hội đồng do Đức giáo hoàng Phanxicô khởi xướng. Bài viết đề xuất rằng tiến trình Thượng Hội đồng trong tương lai sẽ được hưởng lợi nếu tiếp tục vận dụng tư tưởng của Lonergan. Vấn đề làm sáng tỏ các vấn đề nền tảng và phương pháp luận trong thần học có thể có những hệ quả ra sao đối với giáo dục Công giáo nói chung sẽ được để lại cho một nghiên cứu tiếp theo.

Bài viết khám phá câu hỏi về sự đóng góp của thần học hàn lâm đối với tiến trình Thượng Hội đồng và cách tương tác này có thể sâu sắc hơn trong tương lai. Khi làm như vậy, bài viết áp dụng quan điểm dựa trên tư tưởng của Bernard Lonergan, như được thể hiện trong cuốn Method in Theology (Phương pháp Thần học) và các tác phẩm khác. Quan điểm này nhấn mạnh rằng vấn đề phương pháp thần học có tầm quan trọng then chốt trong thần học Công giáo hoạt động theo tinh thần của Công đồng Vatican II và rằng sự chú ý đến các vấn đề về phương pháp cần dựa trên một thực tế nền tảng hơn nữa, đó là sự hoán cải của nhà thần học. Bài viết bắt đầu bằng việc truy nguyên cách mà các vấn đề về phương pháp và nền tảng được ngầm hiểu hơn là rõ ràng trong Công đồng Vatican II nhưng gợi ý rằng chúng đã nhận được sự chú ý rõ ràng hơn trong tiến trình Thượng Hội đồng hiện nay. Bài viết đề xuất rằng những người tham gia tiến trình Thượng Hội đồng có thể tìm thấy trong tư tưởng của Lonergan một sự hỗ trợ giúp định hướng tiến trình này trong tương lai.

1. Công đồng Vatican II và những vấn đề nền tảng

Trong bài diễn văn khai mạc Công đồng Vatican II, Đức giáo hoàng Gioan XXIII đã nói về nhu cầu cập nhật, hay “aggiornamento”, các khía cạnh của thực hành và giáo huấn Công giáo nhằm hoàn thành sứ mạng loan báo Tin Mừng ngày nay:

Giáo hội… phải luôn nhìn vào hiện tại, vào những điều kiện mới và những hình thức đời sống mới được đưa vào thế giới hiện đại, vốn đã mở ra những con đường mới cho hoạt động tông đồ Công giáo… toàn thế giới mong đợi một bước tiến tới sự đào sâu về giáo thuyết và huấn luyện ý thức trong sự phù hợp hoàn toàn và trung thành với giáo lý chân chính, tuy nhiên, giáo thuyết này cần được nghiên cứu và giải thích qua các phương pháp nghiên cứu và các hình thức văn học của tư tưởng hiện đại. Bản chất của giáo lý cổ xưa thuộc kho tàng đức tin là một chuyện, và cách trình bày lại là một chuyện khác.[1]

Điểm đáng chú ý trong những lời này là lời kêu gọi cởi mở mới mẻ đối với “các phương pháp nghiên cứu” và “các hình thức văn chương của tư tưởng hiện đại”. Vài ngày sau bài phát biểu này, Hồng y Suenens từ Bỉ đã có bài phát biểu đề xuất rằng các giám mục nên đáp lại lời kêu gọi của Đức giáo hoàng Gioan bằng cách tổ chức một Công đồng tập trung vào các vấn đề về Giáo hội học và phân biệt giữa sứ mạng ad intra và sứ mạng ad extra của Giáo hội (x. Ruggieri 1997, tr. 281–357). Kết quả trong suốt 4 năm tiếp theo là việc ban hành 16 văn kiện, nhìn chung phù hợp với đề xuất của Hồng y Suenens. Hầu hết các văn kiện này, chẳng hạn như Hiến chế tín lý về Giáo hội - Lumen Gentium, xử lý các vấn đề chủ yếu liên quan đến sứ mạng ad intra. Tuy nhiên, trong năm cuối cùng của Công đồng, một loạt văn kiện đã được phê duyệt, nói về sứ mạng ad extra của Giáo hội. Nổi bật nhất trong số này là Hiến chế mục vụ về Giáo hội - Gaudium et Spes: Giáo hội trong thế giới ngày nay. Những văn kiện khác bao gồm Tuyên ngôn về Tự do Tôn giáo: Dignitatis Humanae, và Tuyên ngôn về Mối tương quan của Giáo hội với các Tôn giáo ngoài Kitô giáo: Nostra Aetate.[2]

Sự xuất hiện của các vấn đề thần học nền tảng trong Công đồng Vatican II mang tính ngụ ý hơn là rõ ràng. Định nghĩa sơ bộ về ý nghĩa của thuật ngữ “các vấn đề nền tảng” là: liên quan đến phương pháp thần học nào nên được áp dụng để thay thế phương pháp tương đối đơn điệu của Tân Kinh viện (Neo-Scholasticism).

Các nhà thần học đóng vai trò tích cực trong việc soạn thảo các văn kiện của Công đồng. Một số trong số họ nhận thức rằng Công đồng đang mở ra một hướng đi mới về phương pháp thần học. Ngay trong năm đầu tiên của Công đồng, đã rõ ràng rằng, để đáp lại diễn văn khai mạc của Đức giáo hoàng Gioan XXIII, thần học Công giáo cần phải từ bỏ mô hình thần học Tân Kinh viện. Thoạt đầu, sự thay thế này diễn ra một cách rời rạc, chẳng hạn như việc sử dụng hình ảnh “Dân Thiên Chúa” thay cho hình ảnh “Giáo hội như một hệ thống phẩm trật” trong Lumen Gentium. Những suy tư nền tảng về các vấn đề, chẳng hạn như sự mặc khải và đức tin, được đề cập trong Hiến chế tín lý về Mặc khải: Dei Verbum, áp dụng một cách tiếp cận rõ ràng không phải là Tân kinh viện. Tuy nhiên, khi Công đồng tiến triển, một số tham dự viên nhận ra rằng không có sự đồng thuận về phương pháp thần học cụ thể nào nên thay thế cho Tân kinh viện. Vấn đề này xuất hiện một cách đặc biệt khi Công đồng chuyển sự chú ý sang các tài liệu đề cập đến sứ mạng ad extra của Giáo hội.

Một dấu hiệu của sự không chắc chắn về mặt thần học đã xảy ra trong quá trình thảo luận về bản thảo của Gaudium et Spes. Sự bất đồng nảy sinh giữa các nhà thần học Pháp, như Marie Dominique Chenu và Yves Congar, và các nhà thần học Đức, như Karl Rahner và Joseph Ratzinger. Nhóm các nhà thần học Pháp đưa các khoa học xã hội vào trong suy tư thần học của họ theo cách mà nhóm các nhà thần học Đức cho rằng đã nhượng bộ quá nhiều cho tư duy thế tục. Cuối cùng, cách tiếp cận của “trường phái Pháp” đã được chấp nhận, dù một số người không hoàn toàn đồng thuận (Komonchak 2003). Tương tự như vậy, khi biên soạn Tuyên ngôn về Tự do Tôn giáo, cũng xảy ra sự bất đồng sâu sắc trong các cuộc thảo luận ở cấp Ủy ban về các dự thảo. Chuyên gia thần học chính trong các cuộc thảo luận này là tu sĩ Dòng Tên đến từ Hoa Kỳ, John Courtney Murray.[3] Ông nhận thức được hai nguồn của sự bất đồng. Nguồn thứ nhất tương đối dễ dự đoán. Một bên là các thành viên thuộc nhóm gọi là “phe thiểu số Công đồng”, vốn là những người mà kể từ phiên họp thứ hai của Công đồng đã được biết đến rộng rãi là không muốn áp dụng sự thay đổi cách tiếp cận mà Đức giáo hoàng Gioan XXIII đã kêu gọi trong bài Diễn văn khai mạc của ngài trước Công đồng. Courtney Murray trình bày lập luận của họ như là “Quan điểm thứ nhất” về những gì một bản dự thảo tài liệu về tự do tôn giáo nên tuyên bố. Bên thứ hai là ”phe Đa số Công đồng”, là những người tự coi mình là đang cộng tác với yêu cầu của Đức giáo hoàng Gioan và đưa ra một “Quan điểm thứ hai”. Murray thấy rõ rằng tính chất căng thẳng và xung đột của các cuộc tranh luận cho thấy vấn đề cốt lõi chính là các vấn đề nền tảng:

Cuộc đối thoại dang dở này dường như chỉ ra đâu là vấn đề thực sự. Quan điểm thứ nhất và quan điểm thứ hai không đối lập nhau như sự khẳng định đối đầu với sự phủ định. Sự khác biệt của chúng nằm ở một tầng sâu hơn, thực sự ở một mức độ sâu đến nỗi khó có thể đi sâu hơn. Chúng đại diện cho cuộc xung đột đương thời giữa chủ nghĩa cổ điển (classicism) và ý thức lịch sử (historical consciousness).[4]

Tuy nhiên, tiếp theo đó, Murray viết về việc gặp phải một nguồn phản đối thứ hai đối với các ý tưởng của mình. Nguồn phản đối này xuất phát từ chính những người cùng chia sẻ tư tưởng tiến bộ và, theo như ông hiểu, điều này cho thấy sự bất đồng về ý nghĩa thực sự của việc thực hành thần học một cách có ý thức về mặt lịch sử là gì. Khi bản thảo của văn kiện Dignitatis Humanae bước vào giai đoạn cuối, Murray nhận thấy rằng những chỉnh sửa về biên tập đã được áp đặt lên bản thảo cuối khiến ông thất vọng. Ông cảm thấy rằng những nhượng bộ về mặt thuật ngữ đã được thực hiện để chiều theo quan điểm bảo thủ, tiền Công đồng về tự do tôn giáo, điều này khiến lập luận cuối cùng của văn kiện trở nên kém mạch lạc. Đáng chú ý, những thay đổi này được Yves Congar và những gì Murray gọi là “Trường phái Pháp” thúc đẩy, vốn là nhóm từng được coi là tương đối tiến bộ trong quá trình soạn thảo Gaudium et Spes.[5] Murray không phải là người duy nhất có ý kiến như vậy. Một nhà bình luận gợi ý rằng trong các cuộc tranh luận cuối cùng về Dignitatis Humanae, Congar thấy mình “dao động trước tính mới lạ trong các ý tưởng của Murray” (Miccoli 2002, tập IV, trang 545).

Nếu sự bất đồng giữa các nhà thần học cấp tiến là một đặc điểm của giai đoạn cuối của Công đồng, thì một đặc điểm khác là việc áp dụng một cách tiếp cận vội vàng và tùy tiện trong quá trình bỏ phiếu cho các văn kiện trong những tuần cuối cùng. Một lý do cho sự vội vàng này đơn giản là các giám mục không muốn Công đồng kéo dài thêm một năm nữa và các văn kiện ad extra là những tài liệu cuối cùng được xem xét. Tuy nhiên, một lý do khác là nhiều nhà thần học chỉ đơn giản là chưa rõ về cách tiến hành trong việc nghiên cứu các vấn đề quan trọng nhưng mới mẻ mà họ hiện đang cố gắng giải quyết. Điều này được thể hiện rõ trong quá trình dẫn đến việc thông qua Nostra Aetate. Quá trình này bắt đầu từ mong muốn ban đầu là nói điều gì đó tích cực về Do Thái giáo cho đến việc cảm thấy cần phải đáp ứng yêu cầu của các giám mục muốn có những tuyên bố bổ sung, trước hết là về Hồi giáo và sau đó là về các tôn giáo khác trên thế giới. Một nhà bình luận nhận xét rằng việc soạn thảo cả Dignitatis HumanaeNostra Aetate đã “đưa Công đồng đến ranh giới của văn hóa mang tính giáo hội”, và thêm rằng “phần lớn các giám mục Công giáo bị bất ngờ và không có đủ nền tảng tư tưởng tín lý để dựa vào” (Alberigo và Komonchak 1995–2006, tập 4, trang 629). Ông còn nói thêm:

Có một sự khác biệt sâu sắc giữa phương pháp quy nạp và phương pháp suy diễn thông thường. Với lời kêu gọi đọc ‘những dấu chỉ thời đại’, Đức Gioan XXIII hy vọng rằng Công đồng, khi giải quyết các vấn đề, sẽ không bắt đầu từ những nguyên tắc vĩnh cửu, mà từ ý thức của nhân loại đương thời về những vấn đề của mình. … Tuy nhiên, đối với nhiều nghị phụ, thật khó để chấp nhận một sự ‘hoán cải’ văn hóa mà họ cho là vừa khó khăn vừa nguy hiểm, trong khi phương pháp suy diễn quen thuộc của chủ nghĩa Kinh viện lại có vẻ dễ dàng và an toàn hơn. (Alberigo và Komonchak 1995–2006, tập 4, trang 544–45)

2. Tính Hiệp hành trong sự tiếp nối với Công đồng Vatican II

Phần 3 bên dưới sẽ đề xuất rằng tiến trình Thượng Hội đồng hiện tại đã tiến tới một tình huống tương tự như giai đoạn cuối của Công đồng Vatican II, như vừa được mô tả. Trước khi đi vào nội dung đó, cần đưa ra một số nhận xét sơ bộ về chính Thượng Hội đồng.

Trước hết, những bất đồng giữa các nhà thần học cấp tiến của các giai đoạn cuối của Công đồng Vatican II đã trở nên trầm trọng hơn trong 50 năm sau khi Công đồng kết thúc (x. Komonchak 2012). Thứ đến, tính hiệp hành là một nỗ lực vừa để hòa giải những khác biệt này, vừa để giúp Giáo hội thực hiện sứ mạng của mình trong thế kỷ XXI. Năm 2018, Ủy ban Thần học Quốc tế đã công bố một tài liệu có tựa đề “Tính hiệp hành trong Đời sống và Sứ vụ của Giáo hội”, trong đó nêu rõ:

Mặc dù tính hiệp hành không được tìm thấy một cách rõ ràng như một thuật ngữ hoặc một khái niệm trong giáo huấn của Công đồng Vatican II, nhưng có thể nói rằng tính hiệp hành là trọng tâm của công cuộc canh tân mà Công đồng khuyến khích.[6]

Phần trên nhấn mạnh rằng Công đồng Vatican II chưa thực sự làm rõ một số vấn đề nền tảng có liên quan đến chính dự án của mình. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một sự đồng thuận xung quanh một số nguyên tắc về cách thức tiến hành. Trong đó bao gồm ý tưởng rằng Giáo hội cần nỗ lực không ngừng để phân định “những dấu chỉ thời đại” và việc suy tư thần học về ý nghĩa của những dấu chỉ này cần bao gồm một số hình thức thỉnh vấn nào đó với toàn thể Giáo hội rộng lớn hơn. Những thập niên sau Công đồng đã cho thấy việc thực hiện những nguyên tắc này khó khăn đến nhường nào. Một khó khăn nằm ở thực tế là thế giới đã trải qua những biến đổi xã hội và văn hóa nhanh chóng, khiến cho việc phân định đâu là tích cực và đâu là tiêu cực trong những thay đổi này trở nên đầy khó khăn. Một thách thức khác liên quan đến việc Giáo hội Công giáo phát triển nhanh chóng, và ý tưởng tham vấn Giáo hội rộng lớn hơn trở nên phức tạp hơn. Một cấu trúc mang tên “Thượng Hội đồng Giám mục” đã được thiết lập theo Tự sắc Apostolica Sollicitudo của Đức giáo hoàng Phaolô VI, được viết vào năm cuối cùng của Công đồng.[7] Kể từ đó, một loại Thượng Hội đồng giám mục nhất định đã được tổ chức tổ chức định kỳ, nhưng như một nhà bình luận viết vào năm 2015: Gần đây, đã xuất hiện sự không hài lòng với tiến trình Thượng Hội đồng, vốn dĩ cho đến nay đã trở nên phần nào khô cằn” (Kasper 2015, tr. 51). Để làm phức tạp thêm vấn đề, ở những nơi như Châu Mỹ Latinh, đã xuất hiện ý kiến cho rằng tiến trình thỉnh vấn trong việc phân định mang tính giáo hội không nên giới hạn trong hàng giám mục, mà cần mở rộng tới các đại diện khác của Dân Chúa.

Thứ ba, tiến trình Thượng Hội đồng rất phức tạp, và bất kỳ nhận định nào về những gì đang nảy sinh từ tiến trình này đều cần hiểu không chỉ về các tài liệu mà tiến trình này tạo ra mà còn cả cấu trúc tổ chức của nó. Năm 2018, Đức giáo hoàng Phanxicô đã ban hành Tông hiến Episcopalis Communio: Về Thượng hội đồng Giám mục (EC),[8] như một điểm tham chiếu, giới thiệu những thay đổi đáng kể đối với Apostolica Sollicitudo. Tông hiến EC thiết lập Ban Thư ký Thượng Hội đồng như một tổ chức thường trực tại Roma, tách biệt với Giáo triều Vatican. Ban Thư ký này hỗ trợ công việc của Thượng Hội đồng, bắt đầu với một tiến trình thỉnh vấn toàn cầu công phu về một hoặc nhiều vấn đề mục vụ và kết thúc bằng một Khoá họp Thượng Hội đồng của các Giám mục. Khi phiên họp bế mạc, Thượng Hội đồng trình các khuyến nghị mục vụ lên Đức giáo hoàng liên quan đến các vấn đề đã được giao phó. Đức giáo hoàng là Chủ tịch của Thượng Hội đồng và giữ quyền từ chối chấp nhận các đề xuất này. Tuy nhiên, người ta giả định rằng ngài sẽ phần lớn cởi mở với các đề xuất đó. Tiếp đến, trong thời gian nhiều tháng hoặc nhiều năm sau đó, Văn phòng Thượng Hội đồng có trách nhiệm phối hợp với Đức giáo hoàng và Giáo triều của ngài để thực hiện các nghị quyết được thông qua tại phiên họp Thượng Hội đồng gần nhất. Sau khi hoàn tất một chu kỳ Thượng Hội đồng, toàn bộ tiến trình sẽ bắt đầu lại với việc khởi xướng một Thượng Hội đồng giám mục mới về một chủ đề mới. Một đặc điểm đáng chú ý trong cấu trúc do Tông hiến EC thiết lập là Văn phòng Thượng Hội đồng hoạt động, theo một nghĩa nào đó, “đối lập” với Giáo hoàng và Giáo triều của ngài. Ormond Rush đã đề cập rằng mối tương quan này đưa vào trung tâm cấu trúc tổ chức của Giáo hội Công giáo hoàn vũ một sự căng thẳng lành mạnh giữa trung tâm và ngoại biên, giữa toàn cầu và địa phương. Ông sử dụng hình ảnh perichoresis (“cùng nhau nhảy múa”) từ thần học Ba Ngôi để mô tả cách mối tương quan này không nhất thiết mang tính đối kháng mà thay vào đó, có thể tương tác, đa dạng và tạo ra các quyết định mục vụ cải tiến hơn.[9]

Thứ tư, sự phức tạp của tiến trình Thượng Hội đồng có nghĩa là ngay cả cấu trúc tổ chức do EC khởi xướng cũng cần phải được điều chỉnh. Trong bối cảnh này, khoá họp Thượng Hội đồng thứ nhất được triệu tập theo Tông hiến này, được gọi là “Thượng Hội đồng về tính Hiệp hành” (Synod on Synodality), có tầm quan trọng đặc biệt.[10] Như tiêu đề cho thấy, chủ đề của Thượng Hội đồng này chính là tính hiệp hành và đây là một nỗ lực “học hỏi qua thực hành” về cách triển khai EC. Chủ đề của Thượng Hội đồng về Hiệp hành được chia thành ba tiểu chủ đề: “Hiệp thông”, “Tham gia” “Sứ vụ”. Một điểm đổi mới trong tổ chức Thượng Hội đồng này xuất hiện khi quyết định mở rộng quy trình từ việc chỉ tổ chức một khoá họp các giám mục – vào tháng 10/2023 – sang việc thêm một khoá họp thứ hai vào tháng 10/2024.[11] Do đó, đã có quyết định giải quyết các chủ đề “Hiệp thông” và “Tham gia” vào năm 2023 và chủ đề “Sứ vụ” vào năm 2024. Những đổi mới khác bao gồm việc quyết định trao quyền biểu quyết tại phiên họp cho một số tham dự viên không thuộc hàng giám mục.

Thứ năm, chính trong tiến trình mang tính hữu cơ và tự điều chỉnh này mà vai trò của thần học hàn lâm trong Thượng Hội đồng ngày càng trở nên rõ ràng hơn. Để hiểu điều này, cần nhận ra tầm quan trọng của “Bản Báo cáo tổng hợp” (Synthesis Report - BCTH) được công bố vào tháng 10/2023. Tài liệu này đóng vai trò như một báo cáo tiến trình của Thượng Hội đồng cho đến thời điểm hiện tại và chỉ ra những hướng đi tiếp theo. Một nhận thức rõ ràng được đưa ra trong BCTH là các vấn đề về hiệp thông và tham gia đã thu hút sự chú ý nhiều nhất trong các cuộc thảo luận của Thượng Hội đồng, trong khi các vấn đề về sứ vụ vẫn chưa được bàn luận vào năm 2024. Tuy nhiên, tài liệu cũng bao gồm một số đổi mới đáng chú ý. Phần mở đầu của BCTH mô tả “một tháng làm việc” vào tháng 10/2023, vốn chủ yếu được đặc trưng bởi “trải nghiệm lắng nghe, thinh lặng và chia sẻ, và cầu nguyện”.[12] Tài liệu sau đó giải thích rằng, với phương pháp mang tính quy nạp sâu sắc như vậy, các cuộc thảo luận không phải lúc nào cũng phù hợp với các chủ đề được chọn một cách khá suy diễn cho phiên họp năm 2023: Hiệp thông và Tham gia. Do đó, tài liệu giải thích rằng BCTH được cấu trúc thành 20 chương ngắn, mỗi chương phác thảo một khía cạnh của những gì “chúng tôi coi là ưu tiên”.[13] Nhiều ưu tiên trong số này đã vượt ra ngoài các chủ đề trước mắt mà phiên họp Thượng Hội đồng năm 2023 dự kiến giải quyết. Hơn nữa, BCTH thẳng thắn thừa nhận rằng các tham dự viên không thể đạt được sự đồng thuận về mọi khía cạnh về cách thức Giáo hội nên đáp ứng những ưu tiên này. Do đó, mỗi chương trong số 20 chương được chia thành 2 phần: “những điểm hội tụ” và “những vấn đề cần xem xét”. Ở một mức độ nào đó, phạm trù sau có thể được hiểu một cách tế nhị là “những vấn đề mà chúng ta chưa đạt được sự hội tụ”. Tuy nhiên, cụm từ “những vấn đề cần xem xét” cũng hàm ý một nhận thức quan trọng rằng những trở ngại đối với sự đồng thuận thường có thể được khắc phục nhờ việc nghiên cứu sâu hơn – về mặt học thuật – về vấn đề đó:

Các chương riêng lẻ tập hợp những điểm hội tụ và những vấn đề cần xem xét… Các điểm hội tụ xác định những điểm cụ thể định hướng cho việc suy tư, giống như một tấm bản đồ giúp chúng ta tìm đường đi. Các vấn đề cần xem xét tóm tắt những điểm cần phải tiếp tục đào sâu về mặt mục vụ, thần học và giáo luật.[14]

Để đáp lại BCTH, Đức Phanxicô đã thực hiện hai bước. Bước đầu tiên là một hành động hiển nhiên. Ngài triệu tập các nhóm nghiên cứu nhằm chuẩn bị chủ đề “Sứ vụ” cho khoá họp Thượng Hội đồng năm 2024. Các nhóm này giải quyết những chủ đề có phần trùng lặp với 20 ưu tiên được liệt kê trong BCTH.[15] Tuy nhiên, sau đó, Đức giáo hoàng đã thực hiện bước thứ hai, đó là xác định “mười điểm” mà, “về bản chất, cần được nghiên cứu sâu sắc” nhưng không nhất thiết liên quan trực tiếp đến khái niệm Sứ vụ của Giáo hội, chủ đề của khoá họp năm 2024.[16] Mười điểm này đều có tham chiếu đến một hoặc nhiều ưu tiên được liệt kê trong BCTH. Sau đó, Đức giáo hoàng công bố việc triệu tập một nhóm nghiên cứu đặc biệt để nghiên cứu từng điểm trong số mười điểm này. Các nhóm nghiên cứu được đặt các tiêu đề và tham chiếu đến BCTH như sau:

1. Một số khía cạnh của mối tương quan giữa các Giáo hội Công giáo Đông phương và Giáo hội Latinh (BCTH 6).

2. Lắng nghe tiếng kêu của người nghèo (BCTH 4 và 16).

3. Sứ vụ trong môi trường kỹ thuật số (BCTH 17).

4. Việc xem xét lại Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis từ một quan điểm hiệp hành thừa sai (BCTH 11).

5. Một số vấn đề thần học và giáo luật liên quan đến các hình thức thừa tác vụ chuyên biệt (BCTH 8 và 9).

6. Việc sửa đổi, từ quan điểm hiệp hành thừa sai, các tài liệu liên quan đến mối tương quan giữa các giám mục, đời sống thánh hiến và các hiệp hội giáo hội (BCTH 10).

7. Một số khía cạnh về con người và thừa tác vụ của giám mục (tiêu chuẩn chọn ứng viên Giám mục, vai trò tư pháp của giám mục và bản chất, tiến trình của các chuyến thăm ad limina Apostolorum) theo nhãn quan hiệp hành thừa sai (BCTH 12 và 13).

8. Vai trò của các Đại diện Giáo hoàng từ quan điểm hiệp hành thừa sai (BCTH 13).

9. Các tiêu chuẩn thần học và phương pháp hiệp hành cho việc phân định chung các vấn đề gây tranh cãi về tín lý, mục vụ và luân lý (BCTH 15).

10. Việc đón nhận thành quả của hành trình đại kết trong thực hành mang tính giáo hội (BCTH 7).

Đặc điểm đáng chú ý của các nhóm nghiên cứu này là, theo một nghĩa nào đó, chúng đã được “tách ra” khỏi tiến trình Thượng Hội đồng chính.[17] Các nhóm này sẽ trình bày báo cáo tiến độ tại phiên họp thứ hai của Thượng Hội đồng vào tháng 10/2024, nhưng công việc của họ sẽ tiếp tục được thực hiện sau khi tiến trình Thượng Hội đồng hiện tại này kết thúc.

Thứ sáu, trong BCTH và việc thành lập 10 nhóm nghiên cứu, chúng ta thấy nổi lên sự phân biệt mà Lonergan xác định là sự phân biệt giữa các vấn đề thần học hệ thống và các vấn đề thần học căn bản. Hai phần tiếp theo, Mục 3 và Mục 4, sẽ giải thích thêm về điểm này.

3. Tính Hiệp hành và các vấn đề nền tảng

Một định nghĩa tối thiểu về điều mà Lonergan muốn nói khi bàn đến các vấn đề nền tảng đã được đưa ra ở trên. Những vấn đề này liên quan đến sự hoán cải của nhà thần học qua việc chú ý rõ ràng đến các vấn đề về phương pháp thần học trước khi hướng dẫn các cuộc tranh luận mang tính khái niệm hơn về các chủ đề thần học khác nhau. Nói một cách chính xác, chỉ có Nhóm nghiên cứu số 9 mới đề cập đến những gì Lonergan gọi là những vấn đề nền tảng và phương pháp luận. Tuy nhiên, ngay cả điều này cũng đại diện cho một bước tiến ấn tượng vượt xa bất kỳ điều gì được đề cập tại Công đồng Vatican II. Việc thành lập nhóm nghiên cứu này được thúc đẩy bởi Ưu tiên số 15 của BCTH, “Sự phân định mang tính giáo hội và những vấn đề mở”, và được Đức giáo hoàng Phanxicô đặt tên là: ”Các tiêu chí thần học và phương pháp hiệp hành cho việc phân định chung các vấn đề gây tranh cãi về tín lý, mục vụ và luân lý. Tại đây, dễ dàng nhận thấy việc sử dụng thuật ngữ “phân định”, một thuật ngữ thường được tìm thấy trong thảo luận về tu đức hơn là thần học. Người ta nhớ lại rằng Đức giáo hoàng Phanxicô là một tu sĩ Dòng Tên, và thuật ngữ “phân định thần khí” là một yếu tố phổ biến trong linh đạo Ignatius, liên quan đến ý niệm hoán cải nội tâm trước đó của người muốn sử dụng sự phân định vào tiến trình ra quyết định sau đó.

Nhìn trong ánh sáng này, chúng ta nhận ra rằng thực ra các vấn đề nền tảng đã hiện diện như một chiều kích trong nhiều ưu tiên của BCTH và trong các nhóm nghiên cứu được hình thành dựa trên các ưu tiên này. Sau đây là phần thu thập dữ liệu để giải thích, trong Mục 4, cách Lonergan hiểu điều gì thực sự là nền tảng trong thần học.

Mối quan tâm đến các vấn đề nền tảng đã xuất hiện ngay trong Phần Mở đầu của BCTH. Phần này thừa nhận rằng, trong các cuộc thảo luận nhóm nhỏ đặc trưng của phiên họp, các tham dự viên đã học được rằng:

Không dễ để lắng nghe những ý kiến khác biệt, mà không ngay lập tức rơi vào cám dỗ phản bác các quan điểm đã được đưa ra; cũng không dễ để đóng góp ý kiến của mình như một món quà dành cho người khác chứ không như điều gì đó tuyệt đối hoặc chắc chắn.[18]

Điều này cho thấy rằng các tham dự viên Thượng Hội đồng vẫn đang học hỏi ý nghĩa của sự “phân định mang tính giáo hội”. Ngoài ra, như đã đề cập trước đó, Phần Mở đầu này cung cấp một nhận thức nền tảng rằng cách quan trọng để tránh đưa ra những phán đoán đơn giản và kích động xung đột, là quay trở lại với việc nghiên cứu học thuật về những vấn đề sâu xa hơn đang đặt ra.

Nhóm 2, “Lắng nghe tiếng kêu của người nghèo”, được truyền cảm hứng từ Ưu tiên số 4, “Người nghèo, những nhân tố chính trong hành trình của Giáo hội” và Ưu tiên số 16, “Hướng tới một Giáo hội lắng nghe và hiệp hành”. Các chương này nhấn mạnh một đặc điểm sáng tạo của Thượng Hội đồng là đã mời “những người đã từng chịu các hình thức bị gạt ra bên lề trong Giáo hội hoặc xã hội” tham gia Thượng Hội đồng, và mô tả rằng “nhiều người đã hết sức ngạc nhiên trước lời mời này”.[19] Hai ưu tiên này dành nhiều thời gian để mô tả các loại hình nghèo khổ khác nhau, đặc điểm cụ thể của chúng và cách đáp ứng đặc thù mà Giáo hội cần thực hiện. Tuy nhiên, Ưu tiên số 4 cũng đề cập đến các vấn đề vừa mang tính nền tảng vừa mang tính mà Lonergan gọi là “phương pháp luận”, khi tuyên bố rằng:

Đối với Giáo hội, lựa chọn ưu tiên dành cho người nghèo và những người bị gạt ra bên lề là một phạm trù thần học trước khi là một phạm trù văn hóa, xã hội học, chính trị hoặc triết học.[20]

Tuyên bố này ngụ ý rằng, ngay cả khi các suy tư thần học giữ vị trí ưu tiên thì các suy tư mang tính “văn hóa, xã hội học, chính trị hoặc triết học” cũng đóng vai trò quan trọng. Điều này đặt ra câu hỏi về tính liên ngành của thần học và cách thức mà điều này có thể phục vụ cho suy tư hiệp hành. Nói cách khác, những người tham gia vào sự phân định mang tính giáo hội phải có khả năng thương thảo với các thách đố của tư duy liên ngành. Liên quan đến điểm này, là tuyên bố trong Ưu tiên số 4 rằng các suy tư thần học thôi thúc chúng ta quan tâm đến việc “xây dựng công ích và bảo vệ phẩm giá của sự sống[21] và rằng, ngày nay chúng ta ngày càng nhận thức rõ rằng, “tiếng kêu của trái đất và tiếng kêu của những người sống trong cảnh nghèo khổ là cùng một tiếng kêu”.[22] Như Đức giáo hoàng Phanxicô đã nhấn mạnh trong thông điệp Laudato Si’, mối quan tâm đến hệ sinh thái toàn diện đòi hỏi tư duy liên ngành sâu sắc.[23] Cũng đáng chú ý trong Ưu tiên số 4 là nhận định về sự cần thiết phải duy trì trong một “sự căng thẳng năng động” giữa việc “tố cáo mang tính ngôn sứ” đối với bất công và việc “sử dụng ngoại giao”.[24] Không khó để nhận ra ở đây một tham chiếu ngầm đến mối quan ngại mà Huấn quyền Công giáo đã bày tỏ vào thập niên 1980 về việc sử dụng phân tích xã hội Marxist trong thần học.[25] Điều này một lần nữa đặt ra câu hỏi liên ngành: nếu muốn tránh phân tích xã hội theo Marxist, chúng ta nên sử dụng những phạm trù khoa học xã hội nào?

Ưu tiên số 5, “Một Giáo hội ‘từ mọi chi tộc, ngôn ngữ, dân tộc và quốc gia’”, chứa đựng nhiều hàm ý về mặt nền tảng và phương pháp luận. Tuy nhiên, đáng tiếc là ưu tiên này không được xác định như một chủ đề thúc đẩy việc thành lập bất kỳ nhóm nghiên cứu nào trong số 10 nhóm đã được thiết lập.[26] Ưu tiên số 5 giải thích rằng trong các cuộc thảo luận Thượng Hội đồng, “chúng tôi đã có cơ hội trực tiếp và phần lớn là vui mừng khi trải nghiệm những biểu hiện đa dạng về cách hiện diện của Giáo hội”.[27] Sau đó, ưu tiên này nhận xét về cách mà trong xã hội rộng lớn hơn, sự khác biệt về văn hóa dễ dàng trở thành nguồn gốc của xung đột, và bổ sung rằng “Giáo hội cũng bị ảnh hưởng bởi sự phân cực và ngờ vực trong những vấn đề thiết yếu như đời sống phụng vụ và suy tư luân lý, xã hội và thần học”. Ưu tiên số 5 gợi ý rằng các thái độ văn hóa đóng một vai trò trong sự phân cực này bởi vì “ý nghĩa và ưu tiên thay đổi tùy thuộc vào các bối cảnh khác nhau”.[28] Bằng việc đề cập đến những vấn đề về ý nghĩa và bối cảnh, Ưu tiên số 5 gợi lên các chủ đề nền tảng liên quan đến ý thức lịch sử mà các triết gia thông diễn luận đã nghiên cứu.[29] Các chủ đề thông diễn luận cũng được gợi lên khi ưu tiên này nói về sự cần thiết phải”thúc đẩy các hình thức phân quyền” trong Giáo hội, đồng thời vẫn duy trì “một sự cân bằng năng động giữa chiều kích phổ quát của Giáo hội và sự bám rễ vào địa phương”.[30]

Như đã đề cập, Nhóm Nghiên cứu số 9, “Các tiêu chí thần học và phương pháp hiệp hành để cùng phân định các vấn đề gây tranh cãi về tín lý, mục vụ và luân lý”, được thành lập nhằm phản hồi trực tiếp Ưu tiên số 15, “Phân định mang tính giáo hội và các vấn đề mở”, và là nhóm duy nhất đề cập một cách rõ ràng các vấn đề nền tảng. Ngụ ý trong tiêu đề của cả ưu tiên và nhóm nghiên cứu là nhận thức sau đây: khái niệm về sự phân định mang tính giáo hội nên bao gồm một khía cạnh học thuật. Tiếp nối một chủ đề được nêu trong phần Mở đầu, Ưu tiên số 15 thừa nhận rằng các tranh cãi về “những vấn đề tín lý, mục vụ và luân lý” không vắng bóng trong các cuộc thảo luận Thượng Hội đồng vào tháng 10/2023. Ưu tiên này cung cấp các ví dụ về những vấn đề gây tranh cãi. Những vấn đề này bao gồm “thừa tác vụ và các vấn đề liên quan đến tính dục và ‘thân xác’”. Việc những vấn đề này không đạt được sự đồng thuận là điều có thể dự đoán được, do các cuộc tranh luận diễn ra trước phiên họp Thượng Hội đồng, vốn đã được báo chí đưa tin rộng rãi. Tuy nhiên, những vấn đề gây tranh cãi khác được BCTH liệt kê thì lại khó dự đoán hơn. Chúng bao gồm “những tác động nhân học của công nghệ kỹ thuật số và trí tuệ nhân tạo, bất bạo động và tự vệ chính đáng[31] BCTH tiếp tục lưu ý rằng sự phân định mang tính giáo hội không thể tránh khỏi việc suy tư học thuật nghiêm túc. BCTH tuyên bố: “điều quan trọng là phải thúc đẩy những viễn cảnh nhân học và tâm linh có khả năng tích hợp chứ không chỉ đơn thuần là đặt cạnh nhau, các chiều kích trí tuệ và cảm xúc trong trải nghiệm đức tin”.[32] BCTH còn bổ sung thêm: “Cần phải làm rõ cách thức mà cuộc đối thoại trong Thánh Thần có thể tích hợp các đóng góp của tư tưởng thần học với khoa học nhân văn và xã hội”.[33] Hàm ý trong những nhận xét này là một đề xuất về phương pháp thần học bao gồm các giai đoạn: hoán cải, phân định và thực hành học thuật liên ngành, tất cả các giai đoạn này phải dẫn đến việc hình thành các đề xuất mục vụ.

Cuối cùng, Ưu tiên số 15 khẳng định: “Cốt lõi của nhiều vấn đề gây tranh cãi này nằm ở vấn đề về mối tương quan giữa tình yêu và chân lý”.[34] Tiếp nối ý tưởng này, ưu tiên số 15 nói rằng:

Cần tiếp tục suy tư mang tính giáo hội về sự đan xen nguyên thuỷ giữa tình yêu và chân lý vốn tuôn trào từ mặc khải Kitô học, nhằm hướng đến một thực hành mang tính giáo hội trung thành với những nguồn mạch này.[35]

Tại thời điểm này, dường như chúng ta đã chạm đến trọng tâm của những gì BCTH muốn nói về những vấn đề thần học nền tảng. Không nghi ngờ gì nữa, BCTH đã vượt xa bất cứ điều gì được nêu trong các văn kiện của Công đồng Vatican II khi thừa nhận rằng các vấn đề về phương pháp thần học cần phải được làm rõ để có thể tiến bước như một Giáo hội hiệp hành. Đồng thời, vẫn còn một số mơ hồ liên quan đến ý nghĩa chính xác những gì BCTH muốn nói về những vấn đề được xem là nền tảng. Ví dụ, không phải ngay lập tức người ta có thể nhận thấy các chủ đề về tình yêu và chân lý đóng vai trò trung tâm như thế nào trong việc giải quyết các vấn đề gây tranh cãi đã được nêu rõ trong BCTH. Tuy nhiên, người ta có thể cố gắng “kết nối các điểm” về vấn đề này. Hãy nhớ rằng chủ đề lòng thương xót (tình yêu) đóng vai trò quan trọng trong giáo huấn của Đức giáo hoàng Phanxicô, và rằng những người bảo thủ phê bình ngài thường hỏi liệu việc nhấn mạnh về lòng thương xót này có làm lu mờ ranh giới của giáo lý chính thống (chân lý) hay không, nhất là trong những vấn đề luân lý, khiến các Kitô hữu trở nên mơ hồ về tội lỗi. Nếu chấp nhận rằng những vấn đề như vậy cung cấp bối cảnh cho sự nhấn mạnh của BCTH về việc cân bằng giữa tình yêu và chân lý trong suy tư thần học, thì điều đáng chú ý là BCTH cố gắng thể hiện sự tôn trọng đối với những người chỉ trích Đức giáo hoàng Phanxicô, những người mong muốn ngài nói nhiều hơn về các tuyên bố chân lý trong giáo huấn luân lý Công giáo.[36] Ở đây, sẽ hữu ích nếu giới thiệu một số suy tư từ nhà thần học Dòng Tên người Canada, Bernard Lonergan. Vậy Lonergan nói gì về tình yêu và chân lý? Giải quyết những câu hỏi này không chỉ giúp kết nối tư tưởng của Lonergan với BCTH mà còn là một cách thuận tiện để giới thiệu về tư tưởng của ông. Dựa trên cơ sở này, người ta có thể tiến hành phác thảo tư tưởng của Lonergan theo thuật ngữ mà chính ông ưa thích – thảo luận về các vấn đề về phương pháp thần học dưới ánh sáng của các vấn đề nền tảng về sự hoán cải của nhà thần học.

4. Bernard Lonergan về Tình yêu và Chân lý

Bernard Lonergan là Giáo sư Thần học tại Đại học Giáo hoàng Gregorian trong thời gian diễn ra Công đồng Vatican II và được tham dự Công đồng với tư cách là một chuyên gia thần học.[37] Ông không tham gia trực tiếp vào quá trình soạn thảo các văn kiện và sau này nhận xét rằng Công đồng chưa bao giờ thực sự đặt ra những vấn đề mang tính nền tảng và phương pháp luận mà ông có chuyên môn. Tuy nhiên, Lonergan tin rằng sớm hay muộn, các nhà thần học Công giáo cũng sẽ phải đối diện với những vấn đề đó. Viết vào năm cuối cùng của Công đồng, ông nhận định:

Văn hóa cổ điển không thể bị loại bỏ nếu không có một thứ thay thế nó; và điều thay thế nó không thể không đi ngược lại những kỳ vọng của văn hóa cổ điển. Chắc chắn sẽ hình thành một phe bảo thủ vững chắc quyết tâm sống trong một thế giới không còn tồn tại. Cũng sẽ hình thành một phe cấp tiến rời rạc, bị cuốn hút hết điều này đến điều khác, khám phá hết khả năng này đến khả năng khác. Nhưng điều thực sự quan trọng sẽ là một nhóm trung dung, có thể không đông, nhưng đủ lớn để hòa hợp với cả cái cũ và cái mới, đủ kiên trì để từng bước thực hiện các chuyển đổi một cách cẩn trọng, đủ mạnh mẽ để từ chối các giải pháp nửa vời và kiên quyết theo đuổi các giải pháp hoàn chỉnh, dù phải chờ đợi.” (Lonergan 1988, tr. 244–45)

Đây là những nhận xét mang tính ngôn sứ vào năm 1965. Có thể nói, các phạm trù “cánh hữu vững chắc” và “cánh tả rải rác” giải thích khá nhiều về các khuynh hướng và xung đột thần học đặc trưng trong Giáo hội Công giáo suốt nhiều thập niên sau Công đồng. Năm 1972, Lonergan xuất bản cuốn Method in Theology (Phương pháp trong Thần học), vốn là cuốn sách mà ông hy vọng sẽ góp phần thực hiện các ý tưởng của Công đồng Vatican II. Trước khi thảo luận trực tiếp hơn về nội dung cuốn sách này, như đã đề cập trước đó, người ta có thể lấy gợi ý từ BCTH và đặt câu hỏi: Lonergan nói gì về chân lý và tình yêu?

Về chân lý, Lonergan đã trình bày rất nhiều điều trong cuốn sách dày 700 trang của ông, Insight, A Study of Human Understanding (1954) (Lonergan 1992). Ông khẳng định rằng phải xem xét câu hỏi về chân lý chủ yếu trên phương diện triết học, rồi mới tiến tới câu hỏi làm thế nào chúng ta có thể nhận biết điều được mặc khải bởi Đức Giêsu Kitô là chân lý.[38] Ở phần đầu cuốn Insight, Lonergan chỉ ra rằng quá trình nhận thức bắt đầu bằng việc chú ý đến dữ liệu từ các giác quan và đặt câu hỏi “Nó là gì?”. Qua việc nhắc lại trải nghiệm nổi tiếng “Eureka” của Archimedes khi đang tắm, ông giải thích rằng quá trình đặt câu hỏi này đạt đến cao trào trong một hành động thấu hiểu (insight), mà ông gọi là “thấu hiểu trực tiếp” (direct insight). Từ đó, ông đề xuất mô tả đầu tiên về hành động thấu hiểu như sau:

Trực giác 1. đến như một sự giải tỏa căng thẳng của sự tìm tòi, 2. xảy ra đột ngột và bất ngờ, 3. là một chức năng không phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh bên ngoài mà vào điều kiện nội tâm, 4. là sự chuyển đổi giữa cái cụ thể và cái trừu tượng, 5. trở thành một phần quen thuộc trong cấu trúc tư duy của con người. (Lonergan 1992, tr. 28)

Sau khi đón nhận sự thấu hiểu, Lonergan tìm xem cách thế tâm trí chúng ta hình thành như thế nào một khái niệm nhằm diễn đạt ý nghĩa của điều vừa được thấu hiểu dưới một hình thức có khả năng truyền đạt cho người khác.

Tuy nhiên, Lonergan nhấn mạnh rằng, “những trực giác thì có rất nhiều”, và ông lưu ý rằng nhiều trực giác mà chúng ta nhận được có thể là sai lầm. Ông mô tả rằng tâm trí con người có khả năng đặt ra một câu hỏi xa hơn: “Điều đó có đúng không?” (Lonergan 1992, tr. 296–347). Trong tiến trình này, tâm trí quay lại với khái niệm đã được hình thành từ hành động thấu hiểu và bắt đầu kiểm tra nó để tiến tới khẳng định hoặc bác bỏ trực giác này là chân thực. Ông mô tả một tiến trình bao gồm các bước: Trước hết, chúng ta tìm kiếm các điều kiện, mà nếu được đáp ứng, sẽ làm cho trực giác thấu hiểu trở nên “bất khả xâm phạm” hoặc “hầu như không thể phủ nhận”. Ông khẳng định rằng, khi các điều kiện này được đáp ứng, chúng ta sẽ đạt đến “trực giác phản tỉnh” rằng các điều kiện này thực sự đã được đáp ứng. Cuối cùng, chúng ta thực hiện một hành động chấp nhận và phán đoán rằng trực giác ban đầu mà chúng ta nhận được là đúng sự thật. Ông giải thích rằng chúng ta sở hữu một “ý niệm về hữu thể” (notion of being) cho phép chúng ta đưa ra các khẳng định cụ thể về sự hiện hữu của sự vật mà chúng ta đã đạt được sự thấu hiểu. Ông mô tả việc nhận thức như là một tiến trình”hướng tới hữu thể” (Heading for being, Lonergan 1992, trang 401–402), trong đó hành động phán đoán mang tính quyết định. Sau đó, ông đưa ra một định nghĩa về chân lý như một “mối tương quan giữa nhận thức và hữu thể ”:

Định nghĩa về chân lý đã được giới thiệu cách mặc nhiên trong mô tả của chúng ta về ý niệm hữu thể. Vì hữu thể được đồng hóa với điều được nhận biết qua sự nắm bắt trí tuệ và khẳng định hợp lý; nhưng chỉ có khẳng định hợp lý mới là khẳng định đúng; vì vậy, hữu thể là điều được biết một cách chân thực. Ngược lại, nhận thức là chân thực khi nó có mối tương quan với hữu thể, và chân lý là mối tương quan giữa nhận thức và hữu thể. (Lonergan 1992, tr. 573)

Tiếp theo, Lonergan đề cập đến tâm trí bị thiên kiến. Ông thừa nhận rằng chúng ta thường không tôn trọng “những luật lệ siêu việt” là những điều được hiểu ngầm trong lời mời gọi hoán cải tri thức của ông, tức là: hãy chú ý, hãy thông minh, hãy hợp lý. Lonergan mô tả cách chúng ta có thể thất bại trong việc tuân theo bất kỳ một trong những nguyên tắc này, nhưng cho rằng thiên kiến cơ bản và phổ biến nhất là không tuân thủ luật lệ thứ hai và vội vàng khẳng định rằng mình biết chân lý mà không trải qua khoảnh khắc của sự thấu hiểu:

Cũng giống như việc chúng ta có thể khao khát thấu hiểu, thì chúng ta cũng có thể không muốn nó. Bên cạnh tình yêu dành cho ánh sáng, cũng có tình yêu dành cho bóng tối… loại trừ một trực giác cũng là loại trừ các trực giác bổ sung có thể nảy sinh từ đó, và những trực giác bổ sung có thể giúp trực giác (ban đầu) hướng đến một quan điểm toàn diện và quân bình. (Lonergan 1992, tr. 214)

Khi bàn về tình yêu, Lonergan cẩn trọng phân biệt giữa một bên là khả năng tự nhiên của con người để yêu thương và làm điều tốt, và một bên là khả năng yêu thương và làm điều tốt như kết quả của ân sủng của Thiên Chúa. Trong cuốn Method in Theology ông bắt đầu phần lý giải về khía cạnh tự nhiên của thực tại này bằng việc giải thích rằng, sau khi đưa ra một hành động phán đoán, có thể nói như một sự kiện khách quan lạnh lùng, ước muốn vượt lên trên chính mình (tự siêu việt) nơi chúng ta thúc đẩy như thế nào để chúng ta cảm nghiệm một phản ứng về mặt tình cảm đối với sự kiện đó. Ông xác định đây là bước đầu tiên trong cấp độ thứ tư của ý thức. Ông khẳng định: “cảm xúc không chỉ phản ứng với các giá trị mà còn phản ứng theo một hệ thống ưu tiên nào đó”. Tiếp theo, ông giải thích thêm, “vì thế chúng ta có thể phân biệt các giá trị mang tính sinh tồn, xã hội, văn hóa, cá nhân và tôn giáo theo thứ tự tăng dần” (Lonergan [1972] 2017, tr. 32). Ông giải thích rằng khả năng của chúng ta để hướng đến các giá trị theo một hệ thống thang bậc hàm ý rằng chúng ta nhìn nhận giá trị của việc hy sinh các giá trị thấp hơn cho các giá trị cao hơn. Lonergan tiếp tục giải thích rằng sau một tiến trình phân định[39] về các giá trị trong một tình huống cụ thể, với các sự kiện đã được khẳng định, chúng ta có khả năng kết thúc việc đánh giá này bằng cách thực hiện một phán đoán về giá trị đang được đề cập nhiều nhất trong tình huống này. Ông viết: “Phán đoán giá trị khác với phán đoán thực tại về nội dung nhưng không khác về cấu trúc” (Lonergan [1972] 2017, tr. 37). Ông giải thích rằng chúng khác nhau về nội dung vì các phán đoán giá trị liên quan đến các quyết định nhằm tạo ra các thực tại mới, và do đó bao hàm một phán đoán về “những gì [chưa] tồn tại”. Tuy nhiên, sự tương đồng về cấu trúc nằm ở chỗ tiêu chuẩn để đánh giá xem một phán đoán có tốt hay không chính là “sự vượt lên trên chính mình của chủ thể”. (Lonergan [1972] 2017, tr. 37). Ông cũng giải thích thêm:

Chính nhờ khái niệm siêu việt về giá trị và sự thể hiện của nó qua một lương tâm tốt và ngay thẳng mà con người có thể phát triển về mặt đạo đức. Nhưng một phán đoán đạo đức toàn diện luôn luôn là công trình của một chủ thể tự siêu việt đã phát triển, hoặc, như Aristotle từng nói, của một người có đức hạnh. (Lonergan [1972] 2017, tr. 41)

Tiếp tục trên nền tảng cấp độ thứ tư của ý thức, Lonergan giới thiệu một luật lệ siêu việt thứ tư: “hãy có trách nhiệm”. Đáng chú ý là, cho đến thời điểm này, cách giải thích của Lonergan về sự tự siêu việt của con người vẫn ở bình diện triết học. Giải thích của ông về việc ân sủng của Thiên Chúa can thiệp vào diễn trình ý thức con người như thế nào được bắt đầu bằng lý giải về cách thành kiến (bias) xuất hiện ở cấp độ ý thức thứ tư. Ông tiếp tục viết, “sự tăng trưởng liên tục dường như rất hiếm” (Lonergan [1972] 2017, tr. 40), và lưu ý rằng một trong những “lệch lạc nổi bật nhất” trong ý thức luân lý là trạng thái ý thức bị thúc đẩy bởi sự đố kỵ mà các triết gia Pháp gọi là “ressentiment”. Lonergan giải thích đó là “trạng thái kéo dài theo thời gian, thậm chí suốt cả đời. Đó là một cảm giác thù hằn, giận dữ, phẫn nộ mà người ta không phủ nhận cũng không thể hiện trực tiếp” (Lonergan [1972] 2017, tr. 34). Ông kết luận rằng, dù thông qua ressentiment hoặc các phương tiện khác, “thành kiến len lỏi vào quan điểm, hợp lý hóa len lỏi vào đạo đức, và ý thức hệ len lỏi vào tư duy của con người” (Lonergan [1972] 2017, tr. 40).

Chính trong bối cảnh như vậy, Lonergan nói về sự hoán cải tôn giáo như một sự kiện được ghi nhận ở cấp độ ý thức thứ tư.[40] Ông cho rằng sự chuyển biến này có thểxảy ra với tất cả mọi người, kể cả những người đã làm tê liệt khả năng cảm thấy được thu hút tới các giá trị cao cả hơn, thay vì chỉ tìm kiếm những thỏa mãn ích kỷ.[41] Ông lập luận rằng quá trình hướng tới sự hoán cải tôn giáo bắt đầu khi, ở cấp độ khả năng cảm nhận giá trị trong cảm xúc, chúng ta có thể tận hưởng “trải nghiệm về sự thánh thiện, về một mầu nhiệm hấp dẫn và đáng kinh sợ (mysterium fascinans et tremendum) của Rudolf Otto (Lonergan [1972] 2017, tr. 102). Ông khẳng định rằng, tại thời điểm này, câu hỏi về Thiên Chúa xuất hiện, không còn như một vấn đề về việc Thiên Chúa có hiện hữu hay không, mà “trước hết là một vấn đề quyết định. Tôi có đáp lại tình yêu của Người hay tôi từ chối?” (Lonergan [1972] 2017, trang 112). Sau đó, ông nói rằng, nếu câu trả lời là khẳng định, chúng ta sẽ trải nghiệm, theo lời của Thánh Phaolô, “tình yêu của Thiên Chúa tuôn đổ tràn ngập tâm hồn chúng ta”. Khi mô tả trạng thái tôn giáo tiếp theo là “ở trong tình yêu”, Lonergan cẩn thận duy trì sự khác biệt giữa khả năng yêu thương tự nhiên của con người và tình yêu phát sinh từ sự hoán cải tôn giáo.

“Ở trong tình yêu có nhiều dạng khác nhau. Đó có thể là tình yêu thân mật giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái. Đó có thể là tình yêu đối với tha nhân, thể hiện qua những nỗ lực mang lại phúc lợi cho con người. Và có tình yêu dành cho Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực (Mc 12,30). Đó chính là tình yêu của Thiên Chúa tuôn đổ vào lòng chúng ta qua Thánh Thần mà Người ban cho” (Rm 5,5).” (Lonergan [1972] 2017, trang 105).

Khi khám phá thực tại của sự hoán cải tôn giáo, Lonergan nhận thấy một nghịch lý. Ông thừa nhận rằng tình yêu không giới hạn là “sự hoàn thiện ý thức” về “khả năng tự siêu việt” của chúng ta. Đồng thời, ông nhấn mạnh rằng trạng thái này: “không phải là kết quả của nhận thức hay lựa chọn của chúng ta”, trái lại, “nó phá hủy và xóa bỏ chân trời mà trong đó nhận thức và lựa chọn của chúng ta từng trải qua” (Lonergan [1972] 2017, tr. 102). Thay vào đó, Lonergan nói rằng trạng thái này: “thiết lập một chân trời mới, nơi tình yêu của Thiên Chúa sẽ chuyển hóa các giá trị của chúng ta, và đôi mắt của tình yêu đó sẽ biến đổi nhận thức của chúng ta” (Lonergan [1972] 2017, tr. 102). Ông mô tả cách mà sự hoán cải tôn giáo có thể dẫn đến sự hoán cải luân lý, “thay đổi tiêu chuẩn trong các quyết định và lựa chọn của chúng ta từ sự thỏa mãn sang việc theo đuổi các giá trị” (Lonergan [1972] 2017, trang 225). Sau đó, ông mô tả cách sự hoán cải luân lý được truyền cảm hứng từ ân sủng này có thể tạo ra những hoa trái bền vững trong cuộc sống của chúng ta. Ông tuyên bố: nơi đâu sự hận thù củng cố thành kiến, tình yêu sẽ hoá giải nó.” Đề cập đến những hậu quả xã hội và lịch sử từ những nỗ lực của cộng đồng Kitô hữu nhằm làm chứng cho sự hoán cải tôn giáo và đạo đức đích thực, ông tuyên bố: “Tình yêu phá vỡ xiềng xích của các quy định mang tính tâm lý và xã hội bằng niềm xác tín của đức tin và sức mạnh của hy vọng”.[42]

5. Sự hoán cải tri thức và phương pháp thần học

Trong phần trình bày ngắn gọn này về tư tưởng của Lonergan về tình yêu và chân lý, hai suy tư cuối cùng có thể hữu ích. Trước hết, trong nhiều tác phẩm của mình, Lonergan đã cố gắng gắn kết cách tiếp cận triết học và thần học về các hoạt động của con người với truyền thống lâu đời của tư tưởng Kitô giáo và Công giáo (x. Lonergan 1976, 2005). Như đã đề cập trên đây, BCTH nhấn mạnh rằng suy tư thần học phải đưa ra bằng chứng về việc nó được xây dựng bằng cách này. Thứ đến, Lonergan khẳng định rằng tư tưởng của ông mang tính đổi mới ở chỗ: kêu gọi độc giả thực hiện một hành động gọi là “hoán cải tri thức”. Ông khẳng định rằng triết học Kitô giáo cần nghiêm túc xem xét “bước ngoặt hướng tới chủ thể” của triết học Khai sáng, đồng thời bắt đầu bằng việc chú ý đến ý thức có chủ đích của chính mình, hiểu rõ cách ý thức này được cấu trúc như một quá trình tự siêu việt qua bốn cấp độ, và đạt đến khoảnh khắc khẳng định rằng “Tôi là một người biết”, người vận dụng bốn cấp độ này. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể khẳng định rằng những gì mình biết là khách quan và đúng sự thật, và có thể tiến tới siêu hình học. Lonergan nhấn mạnh rằng nhận thức luận này chỉ có thể được hoàn thiện một cách nhất quán qua hành động “hoán cải tri thức”, điều mà các nhà tư tưởng Khai sáng còn bỏ sót. Về khía cạnh này, ông chỉ trích “khái niệm phiến diện về chủ thể” trong các dòng tư tưởng chính của triết học Khai sáng, mà ông cho là có xu hướng rơi vào chủ nghĩa Thường nghiệm (Empiricism) hoặc Duy tâm (Idealism). Thay vào đó, ông đề xuất “chủ nghĩa hiện thực phê phán” (Critical Realism) và khẳng định:

Chỉ người theo chủ nghĩa hiện thực phê phán mới có thể thừa nhận thực tế của tri thức con người và tuyên bố rằng thế giới được trung gian bởi ý nghĩa chính là thế giới thực. Và điều này chỉ có thể đạt được khi người đó chứng minh rằng quá trình trải nghiệm, hiểu biết, và phán đoán là một quá trình tự siêu việt.[43]

Trong Method in Theology, Lonergan mô tả sự hoán cải tri thức như một nền tảng vững chắc để xây dựng các lập luận thần học sâu sắc hơn. Ông giải thích rằng chỉ trong ánh sáng của sự hoán cải tri thức, người ta mới có thể nhận diện một cách chính xác những động lực huyền nhiệm đang hoạt động trong quá trình hoán cải tôn giáo, cũng như cách mà sự hoán cải tôn giáo kích thích sự hoán cải luân lý. Tương tự, ông khẳng định rằng chỉ khi hiểu rõ “chính cấu trúc của sự tìm kiếm nơi con người” (Lonergan [1972] 2017, tr. 128), người ta mới có thể phát triển một phương pháp thần học có chiều sâu và thật cần thiết cho thời đại ngày nay. Năm 1972, ông xuất bản Method in Theology và mở đầu cuốn sách bằng câu: “Thần học là trung gian giữa một ma trận văn hóa và ý nghĩa cũng như vai trò của một truyền thống tôn giáo trong ma trận đó” (Lonergan [1972] 2017, tr. 3). Ông giải thích rằng một nền thần học như vậy phải bao gồm hai giai đoạn, giai đoạn thứ nhất, in oratione obliqua (diễn ngôn gián tiếp), trong đó người ta phục hồi một truyền thống tôn giáo, và giai đoạn thứ hai, in oratione recta (diễn ngôn trực tiếp), trong đó người ta nối kết truyền thống này với một ma trận văn hóa (Lonergan [1972] 2017, tr. 129). Ông tiếp tục tuyên bố rằng mỗi giai đoạn này được đặc trưng bởi 4 “nhiệm vụ riêng biệt” (functional specialties) - (Lonergan dùng từ functional specialties để nói đến 8 nhiệm vụ riêng biệt trong thần học), đồng thời giải thích rằng mục đích của mỗi nhiệm vụ riêng biệt này “tương tự với mục đích” của một trong bốn cấp độ ý thức. Ông khẳng định:

Các nhiệm vụ riêng biệt xuất hiện vì chúng ta hoạt động trên cả bốn cấp độ [của ý thức]… chính cấu trúc của sự tìm kiếm nơi con người dẫn đến bốn nhiệm vụ riêng biệt, và bởi vì trong thần học có hai giai đoạn tách biệt (nhìn lại quá khứ & hướng tới tương lai) nên chúng ta được dẫn đến tám nhiệm vụ chuyên biệt trong thần học.[44]

Lonergan sau đó giải thích cách tư duy về phương pháp thần học như vậy có thể đáp ứng thách thức liên ngành khi đáp ứng các dấu chỉ thời đại. Ông tuyên bố rằng Giáo hội “sẽ phải thừa nhận rằng thần học không phải là sự hiểu biết toàn diện về con người” (Lonergan [1972] 2017, tr. 335) và rằng sự lĩnh hội đầy đủ về cách Giáo hội nên hành động trong lịch sử chỉ có thể diễn ra “khi thần học liên kết với các ngành khoa học nhân văn liên quan khác” (Lonergan [1972] 2017, tr. 335–336). Sau đó, ông cũng nhấn mạnh rằng vì khái niệm về các nhiệm vụ chuyên biệt gắn liền với chính cấu trúc của quá trình truy vấn của con người, nên hoàn toàn có thể phát triển, trong các khoa học xã hội, “một phương pháp song song với phương pháp thần học” (Lonergan [1972] 2017, tr. 336–337). Ông kết luận rằng những phương pháp hội tụ này có thể trở thành nền tảng cho sự hợp tác liên ngành, qua đó hỗ trợ thần học trong việc thực hiện mục tiêu làm trung gian giữa một truyền thống tôn giáo và ma trận văn hóa mà truyền thống ấy hiện diện.

6. Kết luận: Lonergan và Tiến trình Thượng Hội đồng

Tính phù hợp trong tư tưởng của Lonergan đối với tương lai của tiến trình Thượng Hội đồng vừa hiển nhiên vừa cần được giải thích kỹ hơn so với phạm vi giới hạn ở đây. Tuy nhiên, có thể lưu ý những điểm sau đây.

Thứ nhất, theo tư tưởng của Lonergan, tiến trình Thượng Hội đồng có thể được hiểu như một ví dụ tiêu biểu trong việc áp dụng các nguyên tắc siêu việt vào quá trình ra quyết định trong Giáo hội: hãy lưu tâm, hãy thông minh, hãy hợp lý, và hãy có trách nhiệm. Lonergan đôi khi còn nhấn mạnh rằng sự hoán cải tôn giáo bao hàm một nguyên tắc siêu việt thứ năm: hãy yêu thương. Thượng Hội đồng cũng có thể được hiểu như là một sự áp dụng nguyên tắc này.

Thứ hai, những gì Lonergan gọi là các vấn đề thần học nền tảng đã xuất hiện trong tiến trình Thượng Hội đồng một cách tương tự Công đồng Vatican II, nhưng thực tế còn rõ ràng hơn. Điều này trở nên rõ rệt khi Báo cáo Tổng hợp thừa nhận rằng sự bất đồng dai dẳng trong các cuộc thảo luận Thượng Hội đồng đòi hỏi phải có sự suy tư học thuật sâu sắc hơn về nhiều vấn đề khác nhau, đồng thời nhấn mạnh: “Trọng tâm của nhiều vấn đề gây tranh cãi này là câu hỏi về mối tương quan giữa tình yêu và chân lý”.[45] Tuyên bố như vậy cùng với thực tế là Nhóm Nghiên cứu số 9 sẽ xem xét các vấn đề về “Các tiêu chí thần học và phương pháp hiệp hành đối với sự phân định chung các vấn đề về tín lý, mục vụ và luân lý gây tranh cãi”. Những điều đó chỉ ra rằng tiến trình hiệp hành có thể đã đạt đến điểm mà việc tham chiếu rõ ràng đến tư tưởng của Lonergan có thể hữu ích.

Thứ ba, nếu có một đề xuất then chốt nào có thể được rút ra từ phần giới thiệu tuy ngắn gọn về tư tưởng của Lonergan, thì đó là nhiều vấn đề học thuật quan trọng xuất hiện trong BCTH cần phải được đối diện trên nền tảng của sự hoán cải tri thức. Điều này hàm ý rằng Lonergan đưa ra một định nghĩa chính xác về nền tảng: nền tảng thực sự nằm ở trạng thái hoán cải tôn giáo, luân lý và trí tuệ của các thành viên trong một Giáo hội mong muốn trở nên hiệp hành. Ở đây, cần lưu ý rằng Lonergan thừa nhận sự hoán cải trí tuệ minh nhiên (đối nghịch với tính chân thực về mặt trí thức chung chung, vốn là đặc trưng cho mọi cá nhân đã hoán cải về mặt tôn giáo và luân lý) là một thành tựu mà chỉ các nhà triết học mới đạt được. Vì thế, tư tưởng của Lonergan nhấn mạnh vai trò quan trọng mà các triết gia và thần học gia hàn lâm phải đảm nhận, ngay cả trong một tiến trình mang tính tham vấn rộng rãi và quy nạp như suy tư hiệp hành.

Thứ tư, tiếp nối đề xuất về sự hoán cải trí tuệ, Lonergan đưa ra một khái niệm về phương pháp học thuật dựa trên các nhiệm vụ riêng biệt.[46] Đào sâu vào vấn đề này nằm ngoài phạm vi của bài viết, nhưng có thể lưu ý ba điểm. Thứ nhất, tư tưởng của Lonergan có thể thu hút những người theo quan điểm bảo thủ. Sự phân biệt của ông giữa trực giác và phán đoán tạo cơ sở để tránh chủ nghĩa tương đối, dù trong nhận thức luận nói chung hay trong đạo đức học nói riêng. Trong phương pháp thần học của ông, một trong những giai đoạn của thần học là hoàn toàn dành cho việc khôi phục truyền thống thần học. Hơn nữa, một trong các nhiệm vụ riêng biệt của giai đoạn thứ hai được gọi là “Giáo thuyết” (Doctrines). Thứ hai, tư tưởng của Lonergan cũng có thể thu hút những người theo quan điểm tiến bộ. Các học giả nghiên cứu về Lonergan đã khám phá cách phương pháp của ông có thể cung cấp chất liệu giải thích cho cụm từ có tính mô tả là “dấu chỉ thời đại”, đồng thời lý giải rằng việc nghiên cứu thực trạng văn hóa và xã hội đương đại cũng là một nguồn thần học không kém Thánh Kinh và truyền thống. Thứ ba, điều đáng chú ý là ít nhất một trong những vấn đề ưu tiên được Báo cáo Tổng hợp đề cập, Ưu tiên số 3: “Sứ vụ trong môi trường kỹ thuật số”, một thành viên của Thượng Hội đồng đã bắt đầu nghiên cứu vấn đề này bằng cách sử dụng khái niệm của Lonergan về các nhiệm vụ riêng biệt.[47] Điều này mở ra hy vọng sẽ có thêm nhiều ví dụ khác về việc áp dụng thực tiễn như vậy.

Thứ năm và cuối cùng, cần nhớ rằng chủ đề của số báo Religion này là “Giáo dục Công giáo và Giấc mơ của Đức giáo hoàng Phanxicô về một Giáo hội hiệp hành”. Nếu tiến trình hiệp hành có thể thúc đẩy một sự trân trọng sâu sắc hơn trong Giáo hội Công giáo về nhu cầu hoán cải tri thức, điều này sẽ mang lại những hệ quả quan trọng đối với cả nội dung và phương pháp của giáo dục Công giáo.[48]

Nguyên tác: The Interweaving of Love and Truth: Bernard Lonergan, Intellectual Conversion, and the Synodal Processhttps://www.mdpi.com

Nt. Anna Ngọc Diệp chuyển ngữ

Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 146 (Tháng 3 & 4 năm 2025)

-----------------------------------------

[1] Đức giáo hoàng Gioan XXIII, Gaudet Mater Ecclesia, Diễn văn khai mạc Công đồng Vatican II, ngày 10/10/1962, http://w2.vatican.va/content/vatican/it.html Tất cả các trích dẫn tiếp theo từ các trang web đều được tham khảo trong cùng thời kỳ này. Tương tự như vậy, trừ khi có ghi chú khác, tất cả các tài liệu chính thức khác của Giáo hội đều có thể được tìm thấy trên trang web Tòa thánh (vatican.va).

[2] Mười sáu văn kiện của Công đồng Vatican II được chia thành các nhóm “Hiến chế”, “Sắc lệnh” và “Tuyên ngôn”. Xem Các tài liệu của Công đồng Vatican II.

[3] Hai bài bình luận quan trọng về vai trò của Murray trong Công đồng là Hooper (1986) và McElroy (1989). Hầu hết các bài viết đã xuất bản của Murray đã được tải lên một trang web do Thư viện Thần học Woodstock tại Đại học Georgetown điều hành, John Courtney Murray, S.J. Georgetown University Library. Các trích dẫn trực tiếp từ các ấn phẩm của Murray đều tham chiếu đến trang web này.

[4] John Courtney Murray, “The Problem of Religious Freedom”, John Courtney Murray, S.J. Georgetown University Library, Section III, paragraph 8. Hooper (1986) cho rằng, trong văn bản này, Murray đã sử dụng các khái niệm “chủ nghĩa cổ điển” “ý thức lịch sử” dựa trên một bài viết của Lonergan (2016, trang 202–220).

[5] Murray, “This Matter of Religious Freedom”, mô tả quá trình soạn thảo Dignitatis Humanae.Vers une intelligence du dévelopment de la doctrine de l’Église sur la liberté religieuse” thảo luận về sự bất đồng của ông với “Trường phái Pháp”, những người đã kiểm soát bản thảo cuối cùng. Điều đáng chú ý là bài viết thứ hai này dựa rất nhiều vào tư tưởng của Bernard Lonergan. Xem John Courtney Murray, S.J. Georgetown University Library.

[6] Ủy ban Thần học Quốc tế, “Tính Hiệp hành trong đời sống Giáo hội”, Đoạn 6. Tính Hiệp hành trong đời sống Sứ vụ của Giáo hội (ngày 2/2018; vatican.va).

[7] Đức giáo hoàng Phaolô VI, Motu Proprio Apostolica Sollicitudo (ngày 15/9/1965) Paul VI (vatican.va). Đoạn này tóm lược một cách ngắn gọn các thập niên sau Công đồng Vatican II, vốn sẽ cần một sự trình bày dài hơn và sẽ bị một số người phản đối. Một cái nhìn tổng quan dễ tiếp cận về các thập niên này được đề cập trong sách của Walter Kasper, Pope Francis’s Revolution of Tenderness and Love (Kasper 2015).

[8] Đức giáo hoàng Phanxicô, Tông Hiến về Thượng Hội đồng Giám mục, Episcopalis Communio (ngày 15/9 /2018). Francis (vatican.va).

[9] Ormond Rush, “Synodality for a World Church: A New Phase in the Reception of Vatican II” (22/2/2024), bài giảng được trình bày và tham khảo trên YouTube (truy cập vào ngày: 30/7/2024). Tham chiếu đến hình ảnh perichoresis cho tiến trình Thượng Hội đồng xuất hiện ở phút thứ 10 và sau đó. LEST XIV Bài giảng khai mạc—Synodality for a World Church: A New Phase in the Reception of Vatican II.

[10] Xem trang web mở rộng do Văn phòng Thượng Hội đồng điều hành, “Thượng hội đồng về tính Hiệp hành”, Thượng Hội đồng 2021–2024. (Lưu ý rằng các tài liệu Thượng Hội đồng được đăng trên trang web này, “synod.va”, khác với trang web của Giáo triều Vatican, “vatican.va”. Điều này phù hợp với nhận định đã được đề cập trên đây, rằng Thượng Hội đồng ở một mức độ nào đó “đối lập” với Giáo hoàng và Giáo triều). Tài liệu Thượng Hội đồng được trích dẫn bên dưới, “Báo cáo tổng hợp”, được tìm thấy trên trang web này, “synod.va” (tham khảo ngày 30/7/2024).

[11] Đại hội Thượng Hội đồng này được gọi là Đại hội Thường lệ lần thứ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục, và cách đánh số của nó nhấn mạnh tính liên tục của sự kiện Thượng Hội đồng này với các kỳ đại hội giám mục kể từ Công đồng Vatican II, như đã được nêu trong tài liệu của Giáo hoàng Apostolica Sollicitudo.

[12] Đại hội chung thường lệ lần thứ XVI của Thượng Hội đồng giám mục, Khoá họp thứ nhất, từ ngày 4–29/10/2023, “Báo cáo Tổng hợp”, Phần giới thiệu. Tài liệu này được trích dẫn trên trang web của Thượng Hội đồng, www.synod.va

[13] Một ví dụ về một chương trong BCTH dự đoán Đại hội chung năm 2024 là Ưu tiên số 8, “Giáo hội là Sứ vụ”.

[14] Đức giáo hoàng Phanxicô, “Thư của Đức Thánh Cha gửi Đức Hồng y Marico Grech” (vatican.va)

[15] Đức giáo hoàng Phanxicô giao cho Văn phòng Thượng Hội đồng nhiệm vụ lựa chọn các thành viên của các nhóm nghiên cứu và làm rõ các điều khoản tham chiếu của họ. Xem Hannah Brockhaus, “These are the Members of the Synod on Synodality Study Groups”, Catholic News Agency, ngày 9/7/2024.

[16] BCTH. Phần Giới thiệu.

[17] BCTH. 16b.

[18] BCTH. 4b.

[19] BCTH. 4g.

[20] BCTH. 4e.

[21] Đức giáo hoàng Phanxicô, Laudato Si’: Về việc chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta, Thông điệp Laudato si’ (ngày 24/05/2015). Trong khi phần lớn Thông điệp này đề cập đến các vấn đề mang tính đạo đức, tâm linh và thần học, thì Chương 1, “Điều gì đang xảy ra với ngôi nhà chung của chúng ta?” chủ yếu sử dụng khoa học tự nhiên và xã hội.

[22] BCTH. 4j.

[23] Bộ Giáo lý Đức tin “Hướng dẫn về một số khía cạnh của Thần học Giải phóng”, 1984: https://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_19840806_theology-liberation_en.html

[24] Thật đáng tiếc khi Ưu tiên số 5 không được đề cập như một điểm tham chiếu cho bất kỳ nhóm nghiên cứu nào. Có thể hy vọng rằng điều này sẽ được bổ sung như một điểm tham chiếu cho Nhóm 9 khi Văn phòng Thượng Hội đồng làm rõ các điều khoản tham chiếu của từng nhóm nghiên cứu (x. Brockhaus).

[25] Xem chú thích 17.

[26] BCTH. 5g.

[27] Việc kêu gọi lý thuyết thông diễn luận (hermeneutic) là trọng tâm của một cuốn sách do Rush (2024) viết. Rush là một thành viên tham gia Thượng Hội đồng về Tính Hiệp hành và là thành viên của Nhóm Nghiên cứu “Phương pháp Hiệp hành”, đang chuẩn bị chủ đề “Sứ vụ” cho đại hội Thượng Hội đồng năm 2024 (x. Brockhaus).

[28] Xem chú thích 26.

[29] BCTH. 15b.

[30] BCTH. 15g.

[31] BCTH. 15h.

[32] BCTH. 15d.

[33] Xem chú thích 31.

[34] Để tham khảo một phê bình bảo thủ nhưng cân bằng về tư tưởng của Đức giáo hoàng Phanxicô, xem Roy OP 2022.

[35] Để biết phần giới thiệu tổng quan về Lonergan, hãy xem The Continuing Significance of Bernard Lonergan | Thinking Faith: Tạp chí trực tuyến của Dòng Tên tại Anh.

[36] Khả năng của chúng ta trong việc nhận ra chân lý của các chân lý mặc khải siêu nhiên được đề cập trong chương cuối cùng của Lonergan (1992, chương 20, “Tri thức siêu việt đặc biệt”, trang 709–752).

[37] Robert M. Doran kế thừa và mở rộng tư tưởng của Lonergan khi ông đưa ra phác thảo về hệ thống các thang giá trị và liên hệ điều này với những nhận xét của Thánh Ignatius Loyola về phân định thần khí (discernment of spirits) (Doran 2008).

[38] (Lonergan [1972] 2017, trang 101–14). Lonergan khám phá sự hoán cải tôn giáo trong Chương 4, “Tôn giáo”. Các tiểu mục của chương bao gồm: kinh nghiệm tôn giáo, biểu đạt của trải nghiệm tôn giáo, trải nghiệm tôn giáo như một tiến trình biện chứng, Ngôi Lời, và đức tin.

[39] Từ vựng hiện sinh trong Method in Theology được Lonergan chuyển hóa và phát triển những nhận xét của ông bằng thuật ngữ mang tính học thuật hơn trong Insight. Ở đó, ông đề cập đến “sự bất lực về mặt đạo đức” của thân phận con người (Lonergan [1972] 2017, trang 650–653) và giải thích rằng điều này dẫn đến “vấn đề về sự dữ”. Ông tuyên bố rằng giải pháp cho vấn đề này “ở một mức độ nào đó phải mang tính siêu việt hoặc siêu nhiên. Vì những gì phát sinh từ bản tính là vấn đề” (Lonergan [1972] 2017, trang 719).

[40] Lonergan, A Third Collection, trang 106. Lonergan nói về giá trị của sự chuyên môn hoá chức năng đối với phong trào đại kết. Ông tuyên bố rằng sự chia rẽ của Kitô hữu là “điều đáng phải đau buồn sâu sắc”. Tuy nhiên, ông lưu ý rằng trong khi các Kitô hữu tiếp tục bất đồng về cách hiểu đức tin Kitô giáo (“ý nghĩa nhận thức”), thì việc họ chia sẻ cùng một cách hiểu của Kitô giáo về hoán cải tôn giáo dẫn đến kết quả là “ý nghĩa cấu thành và ý nghĩa hiệu quả” là những vấn đề mà hầu hết Kitô hữu đều đồng ý. Ông đề xuất việc sử dụng các chuyên ngành chức năng như một phương tiện để các hệ phái Kitô cùng hướng đến ý nghĩa nhận thức chung (Lonergan [1972] 2017, trang 339).

[41] Lonergan ([1972] 2017, trang 224). Xem thêm “The Subject”, trong (Lonergan 2016, trang 60–74). Lonergan tuyên bố rằng những bước đầu tiên hướng đến một hình thức của chủ nghĩa duy thực Kitô giáo mà đỉnh cao là chủ nghĩa duy thực phê phán ngày nay đã được thực hiện tại Công đồng Nicea (325), ), trong đó khái niệm về việc định nghĩa một tín điều ngụ ý khả năng phân biệt giữa trực giác và phán đoán: “Tại Nicea và trong nhiều Thượng Hội đồng và sắc lệnh tiếp theo tiếp tục tăng lên trong suốt thời gian Constantius làm hoàng đế, đã xuất hiện một cách ngầm định rằng thực tại của thế giới được trung gian qua ý nghĩa không chỉ được biết qua kinh nghiệm hay ý tưởng đơn thuần, mà là thông qua các phán đoán và niềm tin chân thực” (Lonergan 2016, trang 220).

[42] Lonergan đặt tên cho các chuyên ngành chức năng như sau: Nghiên cứu, Giải thích, Lịch sử, Biện chứng, Nền tảng, Tín lý, Hệ thống học và Truyền thông (Lonergan [1972] 2017, trang 123–127).

[43] Xem chú thích 32.

[44] Xem cuộc thảo luận của Lonergan về vai trò mà giới học thuật cần thực hiện trong loại “Cosmopolis” có thể làm trung gian cho việc cứu chuộc của Thiên Chúa vào lịch sử (Lonergan 1992, trang 263, 712).

[45] Xem thảo luận của Lonergan về chuyên ngành chức năng thứ sáu, “Doctrines” (Lonergan [1972] 2017, tr. 127, 273–309).

[46] Cách thức mà chuyên ngành chức năng có thể được phát triển để tích hợp với dấu chỉ thời đại đã được Doran (1990) nghiên cứu.

[47] X. Hồng y Michael Czerny, Bộ trưởng Bộ Phát triển Con người Toàn diện, “Một Thế giới Mới và một Sứ Vụ Mới” (A New World and a New Mission), trong Thinking Faith, Tạp chí Trực tuyến của Dòng Tên tại Anh, ngày 28/06/2024, Digital spaces and physical spaces—whelan@unigre.it—Pontificia Università Gregoriana Mail (google.com).

[48] X. (Lonergan 1993; Liddy 1989), Lonergan and the Catholic University Richard Liddy—Academia.edu.