WHĐ (19/6/2025) - Trong bài giảng tại buổi Kinh chiều lễ Chúa lên trời vào ngày 9/5/2024, Đức Phanxicô đã nói: “Xã hội chúng ta đang sống, thường chỉ đắm chìm trong hiện tại và không có khả năng nhìn về tương lai, cần hy vọng. Thời đại chúng ta đang sống, bị cuốn vào chủ nghĩa cá nhân với sự mệt mỏi ngày qua ngày, cần hy vọng. Công trình sáng tạo của Chúa, vốn bị tổn thương nặng nề và biến dạng bởi sự ích kỷ của con người, cần hy vọng. Niềm hy vọng cần cho các dân tộc và các quốc gia đang nhìn về tương lai với tâm trạng lo sợ, trong khi bất công và kiêu ngạo vẫn tồn tại, người nghèo bị loại bỏ, chiến tranh gieo rắc cái chết, và giấc mơ về một thế giới huynh đệ dường như chỉ là một ảo ảnh. Những người trẻ, thường mất phương hướng nhưng mong muốn sống trọn vẹn, cần hy vọng. Người lớn tuổi, những người mà văn hóa hiệu quả và lãng phí không còn biết cách tôn trọng và lắng nghe, cần hy vọng. Người bệnh và tất cả những người bị thương về thể xác và tinh thần, những người có thể nhận được sự an ủi qua sự gần gũi và quan tâm của chúng ta, cần hy vọng”. Vâng thế giới hôm nay cần hy vọng, nhưng ai sẽ gieo rắc niềm hy vọng? Có lẽ không ai khác hơn ngoài những Kitô hữu chúng ta. Công đồng Vatican II đã khẳng định: “Giáo dân góp phần tích cực vào đời sống và hoạt động của Giáo hội, nhờ được tham dự vào chức vụ của Chúa Kitô là tư tế, tiên tri và vua ... Vì được nuôi dưỡng nhờ tham dự cách tích cực vào đời sống phụng vụ của cộng đoàn, chính họ nhiệt thành góp phần vào những công cuộc tông đồ của chính cộng đoàn đó; họ đem những người có lẽ đang xa lạc trở về với Giáo hội; họ cộng tác đắc lực vào việc rao truyền Lời Chúa, nhất là bằng việc dạy giáo lý; họ đem khả năng của mình làm cho việc coi sóc các linh hồn và cả việc quản trị tài sản của Giáo hội sinh hiệu quả hơn” (Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân số 10). Quả thật, khi cộng tác vào công việc loan báo Tin Mừng, người giáo dân mang Chúa Kitô đến cho muôn dân, cũng chính là tham gia vào công việc gieo niềm hy vọng cho trần gian.

1/ Người Kitô hữu sống niềm hy vọng qua đời sống thánh thiện

2/ Người Kitô hữu sống niềm hy vọng qua việc từ bỏ chính mình

3/ Chiếu tỏa ánh sáng của niềm hy vọng


1/ Người Kitô hữu sống niềm hy vọng qua đời sống thánh thiện

Công đồng Vatican II nhắn nhủ: “Được Thiên Chúa kêu gọi không phải vì công lao riêng, nhưng do ý định và ân sủng của Thiên Chúa, và được công chính hoá trong Chúa Giêsu, trong ơn Thánh tẩy nhờ đức tin, các môn đệ Đức Kitô đã thật sự trở nên con cái Thiên Chúa và được thông phần vào thần tính, và do đó, thật sự đã trở nên thánh” (LG số 40). “Vì thế, rõ ràng là tất cả các Kitô hữu, bất cứ trong bậc sống hay địa vị nào, đều được mời gọi vươn đến đời sống Kitô hữu viên mãn và đức ái trọn hảo; sự thánh thiện này cũng giúp phát huy một lối sống nhân bản hơn trong xã hội trần thế” (LG số 41). Chính sự thánh thiện của người tín hữu sẽ làm nảy sinh những hoa quả Thánh Thần như “lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại” như những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương” (Cl 3,12). Những hoa quả này trở thành dấu chỉ của niềm hy vọng, để nói như Công đồng Vatican II: “Lúc nào Giáo hội cũng có bổn phận tìm hiểu tường tận những dấu chỉ của thời đại và giải thích dưới ánh sáng Phúc Âm; như vậy mới có thể giải đáp một cách thích ứng với từng thế hệ những thắc mắc muôn thuở của con người về ý nghĩa cuộc sống hiện tại và mai hậu cũng như về mối tương quan giữa hai cuộc sống ấy.” (GS số 4), và “những dấu chỉ của thời đại, trong đó có nỗi khát vọng của tâm hồn con người, vốn cần đến sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa, đòi phải được biến đổi thành những dấu chỉ của niềm hy vọng”.[1]

Dấu chỉ niềm hy vọng nảy sinh từ những hoa trái của Chúa Thánh Thần chính là lòng khao khát sự hòa bình, bởi ai “xây dựng hòa bình” sẽ được “gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). Lòng yêu mến hòa bình được khởi sự từ nỗ lực cá nhân chiến thắng được tính sân si, để huấn luyện chính mình có được tấm lòng quảng đại bao dung. Đức Phanxicô đã nhận định: “Về phần mình, chúng ta thường là một nguyên nhân của xung đột hay ít ra là của sự hiểu lầm. Chẳng hạn như tôi nghe được một điều gì về một ai đó, và tôi đi kể lại cho người khác. Thậm chí tôi còn thêm thắt một chút và loan truyền nó đi. Và nếu nó càng tác hại, thì dường như tôi càng mãn nguyện. Thế giới của những kẻ ngồi lê đôi mách, chỉ chuyên chỉ trích và phá đổ, không xây dựng hòa bình, đúng hơn, những kẻ như vậy là kẻ thù của hòa bình và họ không hề ‘có phúc’”.[2] Dĩ nhiên để kiến tạo sự bình an theo tinh thần của Tin Mừng không là một chuyện đơn giản, vì đây là công việc “vốn không loại trừ ai, nhưng đón nhận ngay cả những người hơi kỳ cục, khó tính và sách nhiễu, hay yêu sách, lập dị, bị bầm dập bởi cuộc đời hoặc đơn giản là người thờ ơ”.[3]

Vì thế để có thể làm cho dấu chỉ hy vọng nảy sinh từ hoa trái sự bình an, điều cần thiết đòi hỏi mỗi người Kitô hữu là phải yêu mến đời cầu nguyện, bởi sự bình an chúng ta trao ban phải là sự bình an phát xuất từ chính Thiên Chúa. Quả thật, tội đã khuấy động con tim của chúng ta, làm chúng ta đánh mất chính nguồn gốc của sự bình an, đó là tình yêu. Vì thế, chúng ta thường rơi vào ảo tưởng chúng ta có thể trao ban bình an phát xuất từ tình yêu của chúng ta. Tuy nhiên, có thể nói chúng ta đã bị tội làm vẩn đục, nên tình yêu của chúng ta thường mang tính quy ngã về chính mình, do bị chi phối yếu tố của của con người chất chứa “cái tôi” nhuốm màu tham sân si, và như thế không thể trao ban tình yêu đích thật. Để có thể gieo vãi bình an chúng ta phải mang lấy tình yêu của Chúa Giêsu trong mình, nói như Đức Phanxicô: “Tình yêu thương anh chị em không đơn thuần là thành quả của những nỗ lực nơi chúng ta; nó đòi hỏi sự biến đổi trái tim ích kỷ của chúng ta. Nhận thức này đã dẫn tới lời cầu nguyện quen thuộc: ‘Lạy Chúa Giêsu, xin làm cho trái tim chúng con nên giống trái tim Chúa hơn’”.[4] Và để có thể biến đổi trái tim mình nên giống trái tim Chúa, cần phải cầu nguyện. Thánh Phaolô đã thúc giục thính giả của ngài cầu nguyện không phải để có sức mạnh làm việc thiện, nhưng để “có cùng một tâm tư giữa anh em như đã có nơi Đức Kitô Giêsu” (Pl 2,5).

Để có thể nên giống Chúa Giêsu, chúng ta phải nuôi dưỡng trong mình lòng khao khát Thiên Chúa, khao khát cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Kitô, niềm khao khát được biểu lộ cách nào đó trong cuộc sống hằng ngày: “Hãy chuyên cần cầu nguyện, không bỏ lơi cả khi đang bận bịu với những việc bên ngoài. Dù bạn ăn uống, chuyện trò với người khác hoặc với người đời, hoặc làm bất cứ việc gì, hãy luôn luôn ước ao Thiên Chúa và gắn bó tâm hồn với Ngài”.[5] Cầu nguyện là giây phút khẳng định về nhu cầu gặp gỡ Chúa để hoán cải chính mình hầu có thể kiến tạo sự bình an cho mọi người theo tinh thần của một người Kitô, bởi lời cầu nguyện dẫn đứa chúng ta tới cuộc gặp gỡ với Đấng là nguồn mạch bình an, và hòa nhịp trái tim của mình cùng nhịp đập yêu thương của Thiên Chúa, và “để đạt tới tình yêu toàn thiện của Thiên Chúa, mọi tình yêu khác phải phù hợp với tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Kitô”,[6] cho nên lời cầu nguyện của chúng ta là “lời cầu nguyện đầy tin tưởng, là sự đáp trả của một con tim mở ra để gặp gỡ Thiên Chúa diện đối diện, trong đó mọi tiếng nói đều lặng thinh để có thể nghe được tiếng êm ái của Chúa giữa thinh không”.[7]

Lời cầu nguyện là tâm tình “diễn tả của một tâm hồn tín thác vào Thiên Chúa và biết rằng tự mình không thể làm gì được. Trong đời sống của Dân trung tín của Thiên Chúa, chúng ta thấy có nhiều lời khẩn cầu phát xuất từ lòng yêu mến tràn đầy niềm tin và lòng cậy trông sâu xa.[8] Cho nên có thể nói được rằng, lòng khao khát gieo vãi bình an chỉ có thể phát xuất từ một con người yêu mến sự thánh thiện, yêu mến điều thánh Gioan Thánh Giá khuyên nhủ: “cố gắng thường xuyên sống trong sự hiện diện với Thiên Chúa, dù là hiện diện thực, hay tưởng tượng, hoặc kết hiệp, theo mức độ mà công việc của bạn cho phép”.[9] Đức Phanxicô đã khẳng định: “Một vị thánh là người có tinh thần cầu nguyện và khát khao thông giao với Thiên Chúa. Thánh nhân là người không chịu được sự ngột ngạt của thế giới nội tại khép kín chật hẹp này, và giữa những nỗ lực dâng hiến, ngài khao khát Chúa, ngài ra khỏi chính mình trong việc ca tụng và mở rộng biên giới của bản thân qua việc chiêm ngắm Chúa. Tôi không tin vào sự thánh thiện mà không có cầu nguyện, dù đó là việc cầu nguyện không nhất thiết phải dài hoặc gắn với những cảm xúc mãnh liệt”.[10]

2/ Người Kitô hữu sống niềm hy vọng qua việc từ bỏ chính mình

Niềm hy vọng của người Kitô hữu là gì nếu không phải là mong đợi một sự biến đổi trong ngày sau hết? Thật vậy niềm hy vọng của người Kitô đặt trên nền tảng này: “Tôi tin sự sống đời đời”. Công đồng Vatican II quả quyết: “Nếu thiếu nền tảng là Thiên Chúa và thiếu niềm hy vọng vào đời sống vĩnh cửu thì phẩm giá con người sẽ bị tổn thương trầm trọng như thường thấy ngày nay, và những bí ẩn về sự sống, sự chết, về tội lỗi và đau khổ sẽ không có lời giải đáp, như thế, con người sẽ thường rơi vào tuyệt vọng.” (GS số 21). Với niềm hy vọng này người Kitô hữu nói cho thế giới biết thế nào là hạnh phúc. “Chúng ta chờ đợi và mong muốn hạnh phúc nào? Không phải là niềm vui mau qua, là sự thỏa mãn nhất thời mà một khi đã đạt được thì lại luôn đòi hỏi nhiều hơn nữa trong vòng xoáy dục vọng; nơi đó tâm hồn con người chẳng bao giờ được thỏa mãn mà ngày càng thêm trống rỗng. Chúng ta cần một thứ hạnh phúc đạt được một lần và mãi mãi trong điều làm chúng ta tăng triển, nghĩa là trong tình yêu, để từ nay trở đi chúng ta có thể nói: Tôi được yêu, nên tôi hiện hữu; và tôi sẽ luôn hiện hữu trong Tình yêu không làm tôi thất vọng”.[11]

Sống niềm hy vọng chính là đáp lại lời mời gọi của Đức Kitô: “Ai muốn theo tôi, hãy từ bỏ chính mình vác Thập giá mà theo tôi”. Từ bỏ chính mình là một hành trình sống niềm hy vọng hướng về tương lai, vì những thực tại trần gian không là cứu cánh của con người, Chúa Giêsu đã cảnh báo qua dụ ngôn: “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: ‘Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!’ Rồi ông ta tự bảo: ‘Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!’ Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: ‘Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?’ Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó” (Lc 12, 16-21).

Nhưng cuộc hành trình hướng về niềm hy vọng cánh chung không chỉ dừng lại qua việc từ bỏ của cải trần thế, mà trên hết là từ bỏ chính cái tôi, một phạm trù phức tạp để có thể hiểu hết ý nghĩa “cái tôi”. Lm Giuse Nguyễn Đình Trọng OP nhận định: “Con người từ khi sinh ra cho tới khi lớn lên “có trí khôn” đã ý thức rất rõ về bản thân, về vai trò của mình trong lòng gia đình. Trẻ thơ đã biết làm nũng, đòi hỏi người khác làm theo nhu cầu của chúng. Trong giao tiếp với người khác, chúng đã biết khẳng định mình, biết xưng hô với người khác về cá nhân mình… Tuy nhiên, cùng với thời gian và học vấn, trẻ thơ vượt qua ý thức cá nhân trong gia đình mà tiếp cận với thế giới bên ngoài. Lúc này, ý thức cá nhân đã khác trước rất nhiều. Con người va chạm với hoàn cảnh xã hội, với những con người cụ thể, với những sự việc cụ thể, ý thức về “cái tôi” trong xã hội mang tính chất của hành vi nhân linh. Nếu cá nhân đó là người Kitô hữu thì vấn đề còn liên quan tới giáo lý đức tin và đời sống luân lý Kitô giáo nữa. Bởi lẽ niềm tin không phải là một thứ trang sức đeo vào cho có nhưng nó chi phối mọi hành vi của cá nhân. Do vậy, ý thức về “cái tôi” của người Kitô hữu phức tạp hơn nhiều.[12] Vì vậy việc một Kitô hữu từ bỏ chính mình không gì khác hơn là bước theo lối sống của Chúa Kitô, can đảm khước từ những quyến rũ của Satan, điều mà nó đã đưa ra để lôi cuốn Chúa Giêsu: ham mê của cải tiền bạc, ham mê địa vị danh vọng, ham mê thể hiện chính mình (x Lc 4, 1-12), để hiến thân phục vụ mưu cầu phần rỗi cho tha nhân. Thánh Phaolô đã trình bày sự tự bỏ quyết liệt của Đức Kitô như khuôn mẫu cho mọi Kitô hữu nói theo: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.” (Pl 2, 6-7). Sự từ bỏ này của Đức Kitô đã trở thành động lực thúc đẩy thánh Charles de Foucauld cố gắng “noi gương Chúa Giêsu bằng cách sống và hành động như Người đã làm, trong một cố gắng thường xuyên để làm những gì mà Chúa Giêsu sẽ làm ở hoàn cảnh tương tự”.[13] Ngài nói: “Tôi mong muốn được đau khổ để đáp trả tình yêu bằng tình yêu, để bắt chước Chúa… để bước vào công trình của Người, để hiến dâng chính mình cùng với Người, hiến dâng sự trống rỗng của mình, như một hy lễ, như một hiến tế, để thánh hóa con người”.[14]

Việc từ bỏ này cũng được Đức thánh cha Phanxicô cụ thể hóa trong một số lãnh vực với hai từ “nói không”:

 Nói không với thái độ bi quan vô bổ: Một trong những cám dỗ nghiêm trọng nhất bóp nghẹt tính táo bạo và nhiệt tình là thái độ chủ bại, biến chúng ta thành những con người bi quan ưa than vãn và thất vọng, rầu rĩ. Không ai có thể ra trận nếu không hoàn toàn tin chắc vào chiến thắng. Nếu bắt đầu chiến đấu mà không tin tưởng, chúng ta đã thua một nửa cuộc chiến và chôn vùi tài năng của mình.[15]

 Nói không với tính thế tục trong đời sống thiêng liêng: Tính thế tục cũng có thể được biểu hiện bằng việc muốn được người khác để ý tới, xuất hiện với đủ vẻ sang trọng trong đời sống xã hội, trong các buổi gặp gỡ, tiệc tùng và tiếp tân. Nó cũng có thể dẫn tới một não trạng doanh nghiệp, luôn bận bịu với các công việc quản lý, các vấn đề thống kê, kế hoạch và đánh giá mà lợi ích chính không phải là dân Chúa nhưng là Giáo hội xét như một tổ chức. Không hề có dấu ấn của Đức Kitô nhập thể, chịu đóng đinh và phục sinh.[16]

 Nói không với việc tranh chấp lẫn nhau: Trong khu vực sinh sống và nơi làm việc của chúng ta, biết bao cuộc chiến xảy ra do ghen ghét và đố kỵ, ngay cả giữa những người Kitô hữu với nhau! Tính thế tục thiêng liêng khiến người Kitô hữu gây chiến với những người Kitô hữu khác cản trở con đường tìm kiếm quyền lực, uy tín, thú vui và an toàn kinh tế của họ.[17].

Việc từ bỏ theo lời mời gọi của Tin Mừng là thể hiện một đức tin vững mạnh trong việc sống niềm hy vọng hướng về một cuộc sống vĩnh cửu không hề hư hại, bởi từ bỏ không là mất, nhưng là được, như lời kinh Hòa bình được dệt nên bởi thánh Phanxicô Assidi đã diễn đạt :

Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh,
Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân,
Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ,
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.

Đức Phanxicô đã lấy hình ảnh các Thánh Tử đạo như một khích lệ cho các tín hữu noi theo trên con đường từ bỏ chính mình tuyên xưng niềm hy vọng về một cuộc sống vĩnh cửu mai sau: “Các vị tử đạo cho chúng ta chứng từ thuyết phục nhất về niềm hy vọng này. Nhờ lòng tin kiên vững vào Chúa Kitô phục sinh, các ngài sẵn sàng từ bỏ cuộc sống trần thế chứ không phản bội Chúa của mình. Thời nào cũng có các vị tuyên xưng rằng sự sống không hề chấm dứt, và có nhiều vị sống trong thời đại chúng ta, có lẽ còn nhiều hơn bao giờ hết. Chúng ta cần lưu giữ chứng tá của các ngài để làm cho niềm hy vọng của chúng ta sinh hoa kết quả”.[18]

3/ Chiếu tỏa ánh sáng của niềm hy vọng

Ánh sáng không thể là gì khác ngoài chính nó. Ánh sáng xua tan bóng tối và làm cho mọi người nhìn thấy những gì họ đang làm. Ánh sáng soi chiếu bóng tối chính là Đức Kitô. Chính Người đã khẳng định “Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống (Ga 8,12), điều này có nghĩa: Người chiếu sáng mọi sự; và “Người làm cho thế gian giống như những gì mà mặt trời làm cho trái đất. Mặt trời không chiếu sáng cho chính nó mà chiếu sáng vạn vật trên trái đất và khiến vạn vật tỏ hiện dưới ánh sáng đích thực của nó”.[19] Ánh sáng Đức Kitô không có tính chất ánh sáng vật lý, nhưng là ánh sáng được kết tình từ một tình yêu tinh tuyền của Đấng Tạo Thành, chính nhờ ánh sáng này mà muôn vật được tạo thành (x. Ga 1,3), và các thụ tạo ban đầu của công trình tạo dựng, đặc biệt là con người, cũng được chia sẻ ánh sáng này, Thánh Kinh đã nói: con người được tạo dựng giống hình ảnh cuả Thiên Chúa (x. St 1,26). Ánh sáng Chúa Kitô là ánh sáng kiến tạo sự sống, niềm vui và hy vọng, vì bản chất của ánh sáng đó là tình yêu, nguồn mạch sự sống, bình an và hạnh phúc.

Cho nên khi Đức Kitô khẳng định: Ta là ánh sáng thế gian, điều đó có nghĩa ánh sáng Đức Kitô hoàn toàn trái ngược với thế gian, và thế gian ở đây “không phải là thế gian được Thiên Chúa tạo dựng và yêu thương; thực ra, không phải con người thế gian mà chúng ta phải luôn luôn gặp gỡ, đặc biệt là những người nghèo, những người thấp kém, và những người đau khổ”.[20] Thế gian mà ánh sáng Đức Kitô chiếu soi là thế gian thuộc về sự dữ, của đêm tối và chết chóc, đó là một thế giới chất chứa hận thù, độc ác, ghen tương, và nói như thánh Gioan: “Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian:như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian” (1 Ga 2,15-16). Thánh Phaolô đã liệt kê những thói xấu được gọi là theo tinh thần thế tục, hay tinh thần thế gian như trong Thư gởi giáo đoàn Côrintô: “Trong thư đã gửi cho anh em, tôi có viết là đừng đi lại với những kẻ dâm đãng. Tôi không có ý nói chung về mọi người dâm đãng ở thế gian này, hay về mọi kẻ tham lam trộm cắp, hoặc mọi kẻ thờ ngẫu tượng, vì nếu vậy, anh em phải ra khỏi thế gian này! Không, khi viết thế, tôi muốn nói với anh em là đừng đi lại với kẻ nào mang danh là người anh em mà cứ dâm đãng, tham lam, thờ ngẫu tượng, quen chửi bới, say sưa rượu chè, hoặc trộm cắp; anh em cũng phải tránh đừng ăn uống với con người như thế” (1 Cr 5,9-11). Hay là: “Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo: những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (Gl 5,19-22).

Ánh sáng Đức Kitô đi ngược lại với tinh thần thế tục, vì chỉ có áng sáng này mới dẫn nhân loại đạt tới sự sống vĩnh hằng. Bởi vậy Lời Chúa Giêsu Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12) là lời minh định rõ ràng, để đạt tới cùng đích của sự sống, cần phải bước theo ánh sáng Chúa, hay nói cách khác cần phải tin. Bởi “chính nhờ đức tin mà người Kitô hữu không còn ‘thuộc về’ thế gian nữa”,[21] nhưng thuộc về Chúa, thuộc về ánh sáng Chúa, Đức Kitô đã xác định: Các con là ánh sáng thế gian” (Mt 5,14).

Vì là ánh sáng thế gian nên mỗi Kitô hữu phải chiếu giãi ánh sáng vào thế gian, hay nói cách khác phải là chứng nhân cho ánh sáng Chúa Kitô, tức là chứng nhân về niềm hy vọng không bị chi phối bởi những gì thuộc về thế gian, không bị chi phối bởi sự hư hoại, nhưng là hướng về một thực tại vĩnh hằng. Qua bí tích Rủa tội, chúng ta được tháp nhập vào Thân thể huyền nhiệm của Đức Kitô, chúng ta được mặc lấy ánh sáng của Chúa, đó là quà tặng vô giá Chúa tặng ban cho chúng ta, với quà tặng này chúng ta được mời gọi chiếu tỏa ánh sáng này ra, hầu dẫn dắt người khác đến với Chúa Giêsu và chỉ cho họ con đường dẫn tới ơn cứu độ.

Việc chiếu tỏa ánh sáng Chúa Giêsu không gì khác hơn là sống đức tin của mình. Thật vậy đức tin mà chúng ta đón nhận từ tình thương của Chúa không là một bảo vật được bỏ vào két sắt cất kỹ, nhưng “đức tin là một mối liên hệ sâu sắc với Thiên Chúa, điều chạm tới tôi trong thẳm sâu nhất của sự hiện hữu và đặt tôi trước Thiên Chúa hằng sống trong một sự trực diện tuyệt đối theo một cách thế mà tôi có thể nói chuyện với Ngài, yêu mến Ngài và đi vào sự hiệp thông với Ngài. Đàng khác, đức tin, xét về nền tảng, vốn có tính cá nhân, lại cũng có mối liên hệ với cộng đoàn. Đó là một phần thiết yếu của đức tin mà cái ‘tôi’ được đưa vào trong cái ‘chúng ta’của các con cái Thiên Chúa, của cộng đoàn những anh chị em tín hữu trên đường lữ hành. Đồng thời, cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa cũng có nghĩa là bản thân tôi mở ra, tách ra khỏi sự cô độc khép kín của tôi và được đón nhận vào trong cộng đoàn sống động của Giáo hội. Cộng đoàn sống động đó cũng là một trung gian của cuộc gặp gỡ của tôi với Thiên Chúa, mặc dù cuộc gặp gỡ ấy chạm vào tâm hồn tôi theo một cách hoàn toàn cá nhân. Đức tin đến từ việc lắng nghe (fides ex auditu), như thánh Phaolô đã dạy chúng ta. Theo đó, lắng nghe luôn hàm chứa một đối tượng”.[22]

Vì thế, ánh sáng đức tin mà mỗi người chúng ta có được cần phải chiếu tỏa ra bằng hành động và lời nói, phải làm cho mọi người nhận ra sự hiện diện sống động của Chúa trong thế giới này. Việc làm chứng về sự hiện diện của Chúa không phải là một việc làm mơ hồ, nhưng là một xác tín từ cuộc gặp gỡ cá vị của chúng ta với Chúa qua đức tin. Đức tin dẫn đưa chúng ta đối diện với một vị Thiên Chúa sống động và đầy lòng thương xót, cho nên việc chiếu tỏa ánh sáng đức tin cũng phải thực hiện cách sống động qua cuộc đời của từng Kitô hữu để thế gian nhận ra rằng có một vị Thiên Chúa hằng sống đang ở giữa thế gian này, để từ đó nhóm lên trong lòng mọi người một niềm hy vọng về những điều tốt đẹp sẽ đến. Quả thật, ánh sáng đức tin của người Kitô hữu không phải là ánh sáng của ngọn lửa rơm chóng tàn, nhưng là ánh sáng của ngọn lửa yêu thương được Thánh Thần hun đúc và thúc đẩy. Đức Phanxicô đã nói: “Chính Chúa Thánh Thần luôn hiện diện cùng Giáo hội lữ hành để chiếu tỏa ánh sáng hy vọng trên các tín hữu: Ngài giữ cho ánh sáng ấy luôn cháy như một ngọn đuốc không bao giờ tắt để nâng đỡ và ban sinh lực cho chúng ta. Thật vậy, niềm hy vọng Kitô giáo không lừa dối cũng không làm thất vọng vì nó dựa trên niềm xác tín rằng không có gì và không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa”.[23] Vâng, chứng nhân cho niềm hy vọng, cũng là chứng tá về một hành trình với bao gian nan thử thách, nhưng “trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” (Rm 8,35.37-39). “Đó là lý do tại sao niềm hy vọng này không nhượng bộ trước khó khăn: vì nó đặt nền tảng trên đức tin và được nuôi dưỡng bởi đức ái. Nó giúp ta tiến bước trong cuộc sống”.[24]

Chúng ta phải chiếu soi ánh sáng niềm hy vọng vì đây là bổn phận, bởi trước đây chúng ta ở trong bóng tối sự chết không có niềm hy vọng, nhưng nhờ tình thương và lòng thương xót, Chúa đã biến đổi chúng ta thành con cái sự sáng, con cái của ban ngày (1Ts 5,1-11), cho nên ánh sáng cần được để trên giá đèn để chiếu soi cho mọi người cùng nhìn thấy tình thương của Chúa, để nói như Thánh Phaolô: “Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5,8-9). Quả thật, “hạt giống sự sống mới được gieo vãi nơi chúng ta trong bí tích Rửa tội giống như tia lửa, giúp thanh lọc chúng ta trước hết, khi thiêu rụi sự ác trong trái tim chúng ta và cho phép chúng ta tỏa sáng và chiếu sáng với ánh sáng của Chúa Kitô đến cho mọi người”.[25]

Như người lữ hành tiến bước trong niềm hy vọng, mỗi người Kitô đều được mời gọi lan tỏa niềm vọng Kitô giáo đến cho mọi người bằng chính cuộc sống của mình, để những ai gặp chúng ta sẽ cảm nhận được niềm vọng đang bừng cháy trong chúng ta. Chúng ta sống niềm hy vọng bằng hành vi yêu thương được xây dựng trên nền tảng của việc từ bỏ chính mình, đi ra khỏi tình yêu vị kỷ để nung nấu con tim bừng cháy ngọn lửa tình yêu hướng tha. Sống niềm hy vọng không xây dựng trên những lý thuyết, nhưng bằng hành vi cụ thể để nói như Đức thánh cha Phanxicô: “Chúa Kitô đã thể hiện tình yêu sâu thẳm của Người dành cho chúng ta không phải bằng những giải thích dài dòng mà bằng những hành động cụ thể. Xem xét những tương tác của Người với người khác, chúng ta có thể nhận ra cách Người đối xử với mỗi người chúng ta, mặc dù đôi khi có thể khó nhận ra điều này”,[26] chúng ta cũng hãy hành động như Đức Kitô, và chỉ có như thế chúng ta mới thực sự tỏ bày niềm hy vọng của chúng ta về một thực tại Nước Trời sẽ đến.

Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 145 (Tháng 01 & 02 năm 2025)

---------

[1] Đức Phanxicô, Sắc chỉ Spes non confundit (Đức trông cậy không làm thất vọng), số 7.

[2] Đức Phanxicô, Tông huấn Gaudete et Exultate (Hãy vui mừng hoan hỉ), số 87

[3] Ibid., số 89.

[4] Đức Phanxicô, Thông điệp Dilexit nos (Người đã yêu thương chúng ta), số 168.

[5] Đức Phanxicô, Tông huấn Gaudete et Exultate (Hãy vui mừng hoan hỉ), số 148

[6] Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng tại buổi Tiếp kiến chung 16/2/2011. Nguồn: https://giaophanthanhhoa.net/linh-dao/linh-dao-thanh-gioan-thanh-gia-21418.html

[7] Đức Phanxicô, Tông huấn Gaudete et Exultate (Hãy vui mừng hoan hỉ), số 149.

[8] X. Ibid., số 154

[9] Gradi di Perfezione, 2: Opere, Roma 1979, 1079, trích lại trong Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 148

[10] Đức Phanxicô, Tông huấn Gaudete et Exultate (Hãy vui mừng hoan hỉ), số 147.

[11] Đức Phanxicô, Sắc chỉ Spes non confundit (Đức trông cậy không làm thất vọng), số 21.

[12] Lm Giuse Nguyễn Đình Trọng, Cái Tôi Trong Nhận Thức Của Người Kitô Hữu Việt Nam, nguồn: http://daminhvn.net/suy-tu-nghien-cuu/cai-toi-trong-nhan-thuc-cua-nguoi-kito-huu-viet-nam-6299.html 

[13] Đức Phanxicô, Thông điệp Dilexit nos (Người đã yêu thương chúng ta), số 179

[14] Charles de Foucauld, Écrits spirituels, Paris 1947, 67.

[15] Đức Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm vui Tin Mừng), số 85

[16] Ibid., số 95.

[17] Ibid., số 98.

[18] Đức Phanxicô, Sắc chỉ Spes non confundit (Đức trông cậy không làm thất vọng), số 20.

[19] Đức hồng y Raniero Cantalamessa, O.F.M Bài giảng thứ hai cho Mùa Chay, 1/3/2024 “Ta Là Ánh Sáng Thế Gian”, nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/bai-giang-tinh-tam-giao-trieu-roma-mua-chay-2024-bai-2-ta-la-anh-sang-the-gian-54617

[20] Ibid.

[21] Ibid.

[22] Đức Bênêđictô XVI, “Đức tin Kitô giáo không phải là một lý tưởng, mà là một sự sống”, trả lời phỏng vấn của Đức thánh cha với Cha Jacques Servais, SJ, được đăng tải trên L’Osservatore Romano, 17-3-2016, nguồn: https://dcctvn.org/duc-tin-kito-giao-khong-phai-la-mot-y-tuong-ma-la-mot-su-song/

[23] Đức Phanxicô, Sắc chỉ Spes non confundit (Đức trông cậy không làm thất vọng), số 3

[24] Ibid.

[25] Đức Phanxicô, Bài giảng trong buổi đọc Kinh Truyền Tin tại Thư viện Dinh Tông tòa vào ngày 22/3/2020.

[26] Đức Phanxicô, Sắc chỉ Spes non confundit (Đức trông cậy không làm thất vọng), số 33.