NÉT MỚI MẺ TRONG VIỆC ĐÀO TẠO LINH MỤC HÔM NAY
Giám mục Giuse Đỗ
Mạnh Hùng
Chủ tịch Ủy Ban
Giáo sĩ & Chủng sinh
Ngày 30-8-2020
Mục lục
I. VÀI NÉT LỊCH SỬ VỀ VĂN KIỆN “ĐÀO TẠO LINH MỤC” TỪ CÔNG
ĐỒNG VATICAN II
II. NÉT MỚI MẺ TRONG VIỆC ĐÀO TẠO LINH MỤC HÔM NAY VỚI
BẢN RATIO 2016
III. KẾT LUẬN: “KHO TÀNG TRONG CHIẾC BÌNH SÀNH”
I. VÀI NÉT LỊCH SỬ VỀ VĂN KIỆN “ĐÀO
TẠO LINH MỤC” TỪ CÔNG ĐỒNG VATICAN II[1]
1. Văn kiện
chính yếu về việc “Đào Tạo Linh Mục” được gọi là Ratio Fundamentalis
Institutionis Sacerdotalis (viết tắt là RF) của Tòa Thánh, được dịch là “Quy Chế
Nền Tảng Về Đào Tạo Linh Mục”. Mỗi Hội Đồng giám mục sẽ dựa vào bản Ratio
Fundamentalis này để soạn cho quốc gia của mình một Ratio riêng, một “Quy chế địa
phương về đào tạo linh mục”.
2. Với Sắc lệnh
“Cum Adolescentium Aetas” năm 1563, Công đồng Trentô đã công bố việc thiết lập
các Chủng viện. Sắc lệnh đòi buộc các giám mục tại giáo phận của mình phải
thành lập một chủng viện để đào tạo linh mục. Sau này, khởi đi từ những kinh
nghiệm tại các Giáo hội địa phương về việc đào tạo linh mục, Tòa Thánh soạn ra
một “Quy Chế Nền Tảng” (Ratio
Fundamentalis), được coi là “luật chung” hay
“phổ quát”. “Quy Chế Nền Tảng” sẽ được
áp dụng sau đó vào những bối cảnh và yêu cầu của mọi nơi mọi thời.
3. Qua Công đồng
Vatican II, một luồng gió mới của Chúa Thánh Thần đã thổi vào Giáo Hội. Công đồng
đã xác định rằng việc canh tân Giáo Hội “phần
lớn tùy thuộc việc thi hành chức vụ linh mục”, từ đó Công đồng tuyên bố “việc đào tạo linh mục là việc vô cùng quan
trọng”:
“Mọi người mong ước canh tân toàn thể Giáo Hội, Thánh
Công đồng ý thức rõ ràng như thế, và công cuộc canh tân này phần lớn tùy thuộc
việc thi hành chức vụ linh mục đã được Thần Linh Chúa Kitô thúc đẩy, do đó
Thánh Công đồng tuyên bố việc đào tạo linh mục là việc vô cùng quan trọng” (OT
1).
Chính vì tầm
quan trọng của linh mục trong đời sống, trong sự canh tân và phát triển của
Giáo Hội, mà các nghị phụ đã dành trọn 2 sắc lệnh trong số 16 văn kiện của Công
đồng để bàn về linh mục:
- Sắc Lệnh về Chức
Vụ và Đời Sống Các Linh Mục - Presbyterorum Ordinis - được công bố ngày 7 tháng
12 năm 1965.
- Sắc Lệnh về
Đào Tạo Linh Mục - Optatam Totius - được công bố ngày 28 tháng 10 năm 1965.
Công đồng
Vatican II đã bế mạc ngày 8-12-1965. Và để áp dụng những giáo lý của Công đồng
vào trong những hoàn cảnh sau này, trước khi bế mạc, Đức Thánh Giáo Hoàng
Phaolô VI đã cho thiết lập Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới vào ngày
15-9-1965.
4. Trở lại việc
hình thành “Quy Chế Nền Tảng” (Ratio
Fundamentalis), chính Công đồng Vatican II với sắc lệnh về đào tạo linh mục Optatam Totius đã quy định trong số đầu
tiên:
“Vì các dân tộc và các vùng miền quá đa dạng, chỉ có
thể đưa ra những luật chung. Vì vậy chúng ta sẽ thiết lập trong mỗi quốc gia
hay trong mỗi nghi thức một ‘quy chế [ratio] đào tạo linh mục’ riêng, được các
Hội Đồng Giám Mục ấn định, được chỉnh sửa vào những thời điểm nhất định và được
Tòa Thánh chuẩn nhận. Như thế, những luật phổ quát sẽ được thích nghi cho phù
hợp với hoàn cảnh riêng của mọi nơi mọi thời, ngõ hầu việc đào tạo linh mục
luôn đáp ứng cho những nhu cầu mục vụ ở những vùng miền mà thừa tác vụ phải
được thi hành” (OT, số 1).
5. Bản Ratio
Fundamentalis I: Tại Khóa I của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới vào
năm 1967, các giám mục đã xin Tòa Thánh một văn bản khung với những quy tắc
căn bản về đào tạo, để thực hiện những Ratio quốc gia. Vì thế, ngày 6 tháng 1 năm 1970, bản Ratio
Fundamentalis đầu tiên đã được Bộ Giáo Dục Công Giáo biên soạn và công bố để chỉ
dẫn cho các Hội Đồng Giám Mục một số tiêu chuẩn hay nguyên tắc chung, ngõ hầu
các Hội Đồng Giám Mục có thể biên soạn “Quy
chế địa phương” cho quốc gia mình
về đào tạo linh mục.
Rồi, ngày 19
tháng 3 năm 1985, bản Ratio Fundamentalis
đầu tiên này đã được chỉnh sửa lại để ăn khớp với giáo luật mới theo Bộ Giáo Luật năm 1983 (phần lớn những chỉnh sửa
gần như chỉ liên quan đến các ghi chú).
6. Sau đó, hướng
dẫn và bổ túc vô cùng quan trọng của các Đức Giáo Hoàng là Tông Huấn Pastores
Dabo Vobis của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, về “Việc Đào Tạo Linh Mục Trong Hoàn Cảnh Hiện Nay”, ban hành ngày
25/3/1992, và Tự sắc Ministrorum
Institutio (Quy chế các thừa tác viên), ban hành ngày 16/1/2013 của Đức
Bênêđictô XVI. Tông Huấn Pastores Dabo Vobis là kết quả của Khóa Họp thông thường
lần thứ 8 của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới năm 1990. Hai điểm quan trọng
mà Tông Huấn PDV đã khai triển thật rõ khi bàn về đào tạo linh mục đó là: 4 chiều kích đào tạo (nhân bản, thiêng
liêng, trí thức, mục vụ) và giai đoạn thường
huấn (sau Chủng viện). Còn Tự sắc Ministrorum
Institutio đã cho thấy rõ rằng việc đào tạo chủng sinh phải được tiếp nối
một cách tự nhiên bởi việc thường huấn
linh mục và cùng với việc thường huấn này làm nên một thực tại duy nhất.
7. Chính yếu dựa
trên Văn kiện Ratio Fundamentalis I (năm 1970 cùng với bản chỉnh sửa năm 1985)
và Tông Huấn Pastores Dabo Vobis (năm 1992) nhiều Bản Ratio của các quốc gia đã
được hình thành trong đó có Bản Ratio của Việt Nam “Đào Tạo Linh Mục - Định Hướng và Chỉ Dẫn” được Bộ Rao Giảng Tin Mừng
cho các Dân Tộc phê chuẩn ngày 31-10-2011 và được Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
ban hành ngày 11-04-2012. Bản Ratio này được chính thức áp dụng cho tất cả các
đại chủng viện tại Việt Nam từ ngày 01-9-2012.
8. Bản Ratio Fundamentalis Institutionis
Sacerdotalis mới 2016: Kể từ năm 1970 đến 2016, sau 46 năm, với nhiều thay
đổi về mặt văn hóa xã hội và chuyển biến trong Giáo Hội, và do việc áp dụng
từng bước giáo lý của Công đồng Vatican II cùng với những cố gắng đáp ứng những
nhu cầu mới của Dân Chúa và thách đố của việc tân phúc âm hóa, ngày 8-12-2016,
Văn kiện Ratio Fundamentalis mới đã ra đời với tựa đề HỒNG ÂN ƠN GỌI LINH MỤC
- RATIO FUNDAMENTALIS INSTITUTIONIS SACERDOTALIS.
Sự kiện mà văn
kiện này được công bố ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội nói lên vai trò của Đức
Mẹ trong việc đào tạo các linh mục: “Bản Ratio mới này nhắm đến lợi ích của các linh mục, những người đặt
cuộc đời và công cuộc đào tạo bản thân mình dưới tấm áo choàng của Đấng là Mẹ của
lòng thương xót và Mẹ các linh mục […]” (Ratio 2016, Kết luận).
II. NÉT MỚI MẺ TRONG VIỆC ĐÀO
TẠO LINH MỤC HÔM NAY VỚI BẢN RATIO 2016
Trong giới hạn của
bài, xin được trình bày vài nét mới mẻ quan trọng trong việc đào tạo linh
mục hôm nay trong bản Ratio 2016: (1) về tổ chức đào tạo với tính bó buộc, liên
tục, tiệm tiến của các giai đoạn đào tạo; (2) sợi chỉ đỏ xuyên suốt về thần học
liên quan đến nội dung đào tạo.
A. Về tổ chức đào tạo
Trong phần dẫn
nhập, bản Ratio mô tả 4 đặc tính của
đào tạo hiện nay: “đào tạo phải duy nhất,
toàn diện mang tính cộng đoàn và truyền giáo” (Ratio 2016, Dẫn nhập, 3).
4 đặc tính này
không phải tất cả đều mới mẻ, nhưng nét mới mẻ ở trong nội dung và tầm quan trọng
của mỗi đặc tính cũng như sự phối hợp giữa các đặc tính lại với nhau cùng với
tính bó buộc, liên tục, tiệm tiến của các giai đoạn đào tạo.
Có thể phân 4 đặc
tính trên đây thành 2 nhóm:
a) Phương diện cá nhân người linh mục với 2 đặc tính: duy nhất và toàn diện;
- Duy nhất: nói đến thời
gian đào tạo sẽ kéo dài suốt cuộc đời linh mục.
- Toàn diện: nói đến nội
dung đào tạo bao trùm 4 chiều kích đào tạo: nhân bản, thiêng liêng, trí thức, mục
vụ.
b) Phương diện cộng đoàn với 2 đặc tính: cộng đoàn và truyền giáo;
- Cộng đoàn: nói đến cộng
đoàn Giáo Hội nơi ứng sinh linh mục được gọi, được đào tạo và sau khi làm linh
mục được sai đến để phục vụ.
- Truyền giáo: mục đích của
của ơn gọi linh mục được xác định trong sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội. Chúa
Giêsu lập Giáo Hội để tiếp tục sứ vụ loan báo Tin Mừng Cứu độ của Ngài.
1. Đặc
tính “duy nhất”
Đào tạo linh mục
là “một hành trình duy nhất cho đào tạo khởi đầu và thường huấn”. Bản Ratio tuyên bố trong phần dẫn nhập:
“Công cuộc đào tạo linh mục tiếp nối ‘hành trình
đào tạo duy nhất của người môn đệ’. Hành trình này bắt đầu với bí tích
Thánh Tẩy, được nên hoàn thiện với các bí tích khai tâm Kitô Giáo khác,
được đón nhận như tâm điểm của đời sống lúc vào chủng viện, và được tiếp tục
trong suốt cuộc đời” (Ratio 2016, Dẫn nhập, 3).
Trước hết, cụm từ
“hành trình đào tạo duy nhất của người môn đệ” đặt việc “đào tạo linh mục”
vào hành trình đào tạo của “kitô hữu” được gọi là “người môn đệ của Chúa
Giêsu”: “Hành trình này bắt đầu với bí
tích Thánh Tẩy, được nên hoàn thiện
với các bí tích khai tâm Kitô Giáo khác”.
Và “công cuộc
đào tạo linh mục tiếp nối ‘hành trình đào tạo duy nhất của người môn-đệ-kitô-hữu’. Như vậy, sau giai đoạn
đào tạo kitô hữu, việc đào tạo linh mục (người
môn-đệ-linh-mục/disciple-prêtres) gồm giai đoạn đào tạo tại chủng viện
(giai đoạn khởi đầu) và giai đoạn sau chủng viện (gọi là thường huấn).
Như vậy, nét mới
mẻ “duy nhất” về thời gian nhấn mạnh đến 3 yếu tố:
- Yếu tố suốt đời: Đào tạo người linh mục là đào tạo suốt
đời từ khi chịu bí tích Thánh Tẩy đến chết, gồm 3 giai đoạn:
+ trước chủng viện (từ khi
chịu bí tích Thánh Tẩy đến khi vào chủng viện);
+ tại chủng viện là “giai
đoạn đào tạo khởi đầu”;
+ sau chịu chức là “giai
đoạn thường huấn”.
- Yếu tố bắt buộc: sự “duy nhất” bao hàm tất cả những
thành phần trong đó với tính chất bắt buộc (cả 3 giai đoạn và những gì trong đó
đều là bắt buộc).
Ratio 2016 đã
khai triển thời gian đào tạo tại chủng
viện là “giai đoạn đào tạo khởi đầu” gồm 4 giai đoạn với 2 giai đoạn “mới thêm vào và mang tính bắt buộc” (giai
đoạn dự bị và giai đoạn tập vụ):
a) Giai đoạn dự bị (Ratio
2016, số 59-60), có mục tiêu làm cho ơn gọi đã được phân định lần đầu ăn
sâu vào trong một tiến trình bước theo Chúa Kitô cách say mê và triệt để.
Đồng thời, giai đoạn dự bị này giúp chủng sinh hiểu rõ bản thân hơn nhờ được
sống trong cộng đoàn. Giai đoạn này “được
trình bày vào dịp Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1990 (hội nghị khoáng đại thứ
tám), sau một thời kỳ thử nghiệm và đánh giá, với căn tính và cách đào tạo
chuyên biệt, nay đã trở nên cần thiết và bắt buộc” (Ratio 2016, Dẫn
nhập, 3).
b) Giai đoạn “đào tạo người
môn đệ”: ứng sinh linh mục được đào tạo để gặp Chúa Giêsu, biết Chúa Giêsu,
theo Chúa Giêsu và trở nên môn đệ của Chúa Giêsu (Ratio 2016, số 61-67). Giai
đoạn này tương ứng với chu kỳ triết học trước
đây.
c) Giai đoạn “đồng hình đồng
dạng” với Chúa Giêsu, Mục tử và Tôi tớ (Ratio 2016, số 68-73). “Giai đoạn này giúp chủng sinh từng bước nên
giống dung mạo của vị Mục tửNhân
lành, Đấng nhận biết chiên của
mình, trao ban mạng sống mình vì đoàn chiên và đi tìm những con chiên đang ởngoài ràn chiên (x. Ga 10,14-17)”. Giai đoạn này tương ứng với chu kỳ thần học trước đây.
d) Giai đoạn tập vụ hay tổng
hợp ơn gọi (Ratio 2016, số 74- 79). Ratio chỉ rõ là giai đoạn này “nằm giữa thời gian chủng viện và thụ phong
linh mục… Có hai mục tiêu cho giai đoạn này: một mặt là hòa nhập vào đời
sống mục vụ qua việc đảm nhận dần dần nhiều trách nhiệm hơn trong tinh thần phục
vụ; mặt khác là chuẩn bị cách thích đáng để chịu chức linh mục nhờ được đồng
hành một cách chuyên biệt. Trong giai đoạn này, ứng sinh được mời gọi bố
cách tự do, ý thức và dứt khoát, ý muốn trở thành linh mục sau khi đã lãnh
nhận chức phó tế” (Ratio 2016, số 74) và nói thêm rằng: “thông thường, giai đoạn này được thực hiện
bên ngoài môi trường chủng viện, ít ra là trong một phần quan trọng của khoảng thời gian này”(Ratio 2016,
số 75) .
- Yếu tố liên tục (tiệm tiến): các giai đoạn sẽ liên tục nối
tiếp nhau theo một tiến trình tiệm tiến.
Ví dụ: Năm dự bị là giai đoạn đầu tiên của đào
tạo khởi đầu; bước vào giai đoạn này không có nghĩa là cắt đứt với hành
trình đời sống Kitô hữu trước đây, hay cắt đứt với cội nguồn gia đình, cội
nguồn văn hóa và cội nguồn thiêng liêng. Tiến trình đào tạo người môn đệ bắt đầu với bí tích Thánh Tẩy, rồi hoàn thiện với những bí tích khai tâm khác; điều này có
nghĩa là ứng sinh nào chưa nhận lãnh bí tích Thêm Sức thì phải làm trước
năm dự bị.
Bước vào giai đoạn
khởi đầu của đào tạo là muốn theo một “tiến
trình đào tạo tiệm tiến duy nhất”, một tiến trình mà sẽ được tiếp tục thực
hiện trong đời sống người môn đệ ngay cả khi đã là linh mục; “người môn đệ linh mục vẫn luôn mãi khổ
nhọc theo Thầy và sẽ không bao giờ ngưng làm cho mình trởnên đồng hình
đồng dạng với Thầy” (Ratio 2016, Dẫn nhập, 3).
Tóm lại, về mặt
thời gian, tính “duy nhất”:
1. Đặt việc đào tạo người linh mục (hay người-môn đệ-linh-mục) trong
ơn gọi nền tảng của kitô hữu (hay người-môn-đệ-kitô-hữu). Việc đào tạo linh mục
bắt đầu từ khi vào chủng viện và là việc tiếp nối chương trình đào tạo kitô hữu,
đã bắt đầu từ bí tích Thánh Tẩy.
2. Chương trình đào tạo linh mục bao gồm 2 thời kỳ bắt buộc là “thời kỳ khởi đầu” (trước khi chịu chức
linh mục) và “thời kỳ thường huấn” (sau
khi chịu chức linh mục).
3. Thời kỳ khởi đầu gồm 4 giai đoạn:
- Giai đoạn dự bị: giúp
chủng sinh hiểu rõ bản thân hơn nhờ được sống trong cộng đoàn chủng viện.
- Giai đoạn “đào tạo người môn
đệ” tương ứng với chu kỳ triết học trước
đây.
- Giai đoạn “đồng hình đồng dạng”
tương ứng với chu kỳ thần học trước
đây.
- Giai đoạn tập vụ hay tổng hợp
ơn gọi “nằm giữa thời gian chủng viện
và thụ phong linh mục”, giúp chủng sinh hòa nhập vào đời sống mục vụ và chuẩn bị
cách thích đáng để chịu chức linh mục.
4. Thời kỳ Thường huấn gồm 3 giai đoạn kéo dài suốt đời linh mục:
- Những năm đầu đời linh mục: “Giai
đoạn đầu tiên của hành trình này là giai đoạn những năm liền ngay sau khi thụ
phong linh mục” (Ratio 2016, số 83).
- Những năm sau đó, khi làm cha sở hay khi thi hành sứ vụ linh mục với
nhiều vấn đề (x. Ratio 2016, số 84).
- Những năm về hưu hay đau yếu: “Các
linh mục cao niên và đau yếu là một chứng tá sống động cho cộng đoàn tín hữu
và linh mục đoàn, đồng thời là một dấu chỉ hữu hiệu và hùng hồn của một cuộc
đời dâng hiến cho Chúa” (Ratio 2016, số 85).
2. Đặc
tính “toàn diện”
Nói đến nội dung
đào tạo bao gồm 4 chiều kích đào tạo: nhân bản, thiêng liêng, trí thức, mục vụ.
Tính “toàn diện”
với 4 chiều kích đào tạo phải được thể hiện cả trong giai đoạn tại chủng viện
là “giai đoạn đào tạo khởi đầu” và
giai đoạn sau chủng viện là “giai đoạn thường huấn”. Nghĩa là trong
mỗi giai đoạn đều phải lưu ý đến cả 4 chiều kích đào tạo: “những chiều kích luôn có mặt trong hành trình của mỗi chủng sinh; tuy
nhiên, tùy theo giai đoạn đang diễn ra mà chúng ta chú ý đến khía cạnh này hay
khía cạnh kia nhiều hơn, nhưng không vì thế mà bỏ qua các khía cạnh khác”
(Ratio 2016, số 57).
Ví dụ, trong thời
gian tại chủng viện, “chu kỳ triết học” được
gọi là “giai đoạn đào tạo người môn đệ” và
“chu kỳ thần học” được gọi là “giai đoạn đồng hình đồng dạng”. Cách gọi
mới này khẳng định tính “toàn diện”, bởi vì: “điều này muốn nhấn mạnh rằng, với việc học triết học và thần
học, chúng ta không thể chỉ xem xét chiều kích tri thức để đánh giá chủng
sinh về tiến trình đã hoàn thành và về tiến bộ đạt được ỗi giai đoạn. Trái
lại, nếu các nhà đào tạo nhận định chung mọi chiều kích đào tạo, thì chỉ
những chủng sinh nào không những đã thành công các môn thi dự kiến, mà còn
đạt được sự trưởng thành cần thiết về nhân bản và trong ơn gọi cuối mỗi
giai đoạn, mới được phép bước sang giai đoạn sau” (Ratio 2016, Dẫn nhập, 3).
3. Đặc
tính “cộng đoàn”
Bản Ratio lưu ằng nền đào tạo toàn diện
được thực hiện nhờ việc đào tạo mang tính cộng đoàn.
Trong truyền
thông từ lâu tại các chủng viện, việc đồng hành cá nhân, thường được gọi là “việc linh hướng”. Trong bản Ratio 2016
này, ngoài việc “đồng hành cá nhân”, việc “đồng hành cộng đoàn” được
đề cao và nhấn mạnh (x. Ratio 2016, 50-53).
Chính cộng đoàn
giúp đào tạo người linh mục thành “con
người hiệp thông” (PDV 18):
- hiệp thông với
Thiên Chúa, nên đồng hình đồng dạng với
Chúa Kitô: “Đời sống cộng đoàn phải ảnh hưởng trên mỗi chủng sinh, thanh lọc
ý hướng của họ và biến đổi cách sống của họ, để từng bước họ nên đồng
hình đồng dạng với Chúa Kitô” (Ratio 2016, 50).
- hiệp thông với
anh em trong tình huynh đệ và hiệp thông với đoàn chiên sau này: “Cộng đoàn chủng viện là một gia đình mà bầu
khí trong đótạo thuận lợi cho tình bằng hữu và huynh đệ. Khi đã sống kinh
nghiệm ấy, sau này chủng sinh sẽ hiểu rõ hơn những đòi hỏi, những năng động
và cả những vấn đề của các gia đình được giao cho họchăm sóc trong mục vụ”
(Ratio 2016, 52).
Tóm lại, đời sống
cộng đoàn trong chủng viện sẽ giúp người linh mục tương lai hiệp thông với
“Chúa Kitô-toàn-thể” (le Christ-total) bao gồm: Chúa Kitô là Đầu và Thân Thể mầu
nhiệm là Giáo Hội.
4. Đặc
tính “truyền giáo”
Một điều mới
quan trọng trong Ratio 2016 là truyền
giáo được gắn liền với người linh mục trong thuật ngữ “đào tạo người môn đệ
truyền giáo”.
“Ý tưởng căn bản là làm sao các chủng viện có thể
đào tạo được những người môn đệ truyền giáo “say mê” đối với Thầy,
những mục tử mang “mùi chiên”, những người sống giữa đàn chiên để phục vụ
và mang đến cho đàn chiên lòng thương xót của Thiên Chúa. Do đó, mỗi linh mục
phải luôn nhận thức mình là một môn đệ đang tiến bước và luôn cần được
đào tạo một cách toàn diện, nghĩa là luôn cần được làm cho nên đồng hình đồng
dạng với Chúa Kitô” (Ratio 2016, Dẫn nhập, 3).
Từ đây, có thể
nói rằng Ratio 2016 đã định nghĩa “linh mục
là người môn đệ truyền giáo”; trong đó có 2 yếu tố: (1) người môn đệ; (2)
truyền giáo.
- “ Người môn đệ”
là “môn đệ của Chúa Giêsu”: biết Chúa Giêsu, yêu mến Chúa Giêsu, đi theo Chúa
Giêsu.
- “truyền giáo”
là “rao giảng Chúa Giêsu”, làm cho
người khác biết Chúa Giêsu, yêu mến Chúa Giêsu, đi theo Chúa Giêsu.
Ý niệm này đã được
trình bày thật rõ trong số 61: “Người môn
đệ là người được Chúa gọi để ở với Người (x. Mc 3,14), đi theo Người và trở
thành người truyền giảng Tin Mừng. Người môn đệ học hỏi hằng ngày để hiểu thấu
những bí mật của Nước Thiên Chúa, trong tương quan mật thiết với Chúa Giêsu. Việc
ở cùng Chúa Kitô trở nên con đường mang tính sư phạm và thiêng liêng, làm biến
đổi đời sống và khiến nên chứng nhân cho tình yêu của Người trong thế giới”
(Ratio 2016, số 61).
Trong thư luân
lưu[2] về căn tính truyền giáo của
linh mục, ngày 29/6/2010, Bộ Giáo Sĩ đã khẳng định: “Căn tính truyền giáo của linh mục trong Giáo Hội như là chiều kích nội
tại của việc thi hành ba chức năng (tria munera): dạy dỗ (munus docendi), thánh
hóa (munus sanctificandi), cai trị (munus regendi)”.
Thánh Phaolô đã
khẳng định thật rõ về sứ mạng rao giảng Tin Mừng của người tông đồ: “Thưa anh em, Đức Kitô đã chẳng sai tôi đi
làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải bằng
lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu” (1 Cr 1,17).
Thực vậy, khi thi hành 3 chức năng, linh mục sẽ “giảng thế nào, dạy
giáo lý thế nào” để loan báo Tin Mừng, để loan báo Chúa Kitô, chứ không phải để
trình bày kiến thức. Linh mục sẽ “cử hành thánh lễ thế nào” để loan báo Chúa
Kitô cho những người tham dự. Linh mục sẽ tổ chức, điều hành cộng đoàn thế nào
để loan báo Chúa Kitô, chứ không phải để đạt tới sự phát triển một cộng đoàn
thành công “về mặt trần thế”.
Điểm mới mẻ và
tinh tế trong bản Ratio 2016 chính là nhấn mạnh đến “con người truyền giáo” chứ
không phải đến “việc truyền giáo”.
Tên gọi “giai đoạn đào tạo người môn đệ” (thay
cho ‘chu kỳ triết học’) và “giai đoạn đồng hình đồng dạng” (thay
cho ‘chu kỳ thần học’) cho thấy rõ điểm
nhấn này: nhấn mạnh đến “con người” hơn là “những kỹ năng, kiến thức”. Đào tạo
linh mục tại chủng viện là đào tạo “người
môn đệ của Chúa Giêsu” biết, gặp gỡ, ở với Chúa Giêsu (trong chu kỳ triết học:
2 năm) và rồi “nên đồng hình đồng dạng với
Chúa Giêsu” (trong chu kỳ thần học: 4 năm). Và kết quả khi đã ở, đã biết,
đã thấm nhuần, đã có được những tâm tình, thái độ của Chúa Giêsu (đồng hình đồng
dạng), người linh mục “sẽ giống Chúa Giêsu” bày tỏ cho người chung quanh biết về
Thiên Chúa là Cha yêu thương, muốn cho con người được cứu độ.
B. Về mặt thần học
1. Về mặt thần học,
nét mới mẻ trong bản Ratio 2016 chính là một tổng hợp khéo léo các chiều kích
thần học (một bên là chiều kích Kitô Học,
bên kia là chiều kích Ba Ngôi, chiều
kích Thánh Thần, chiều kích Giáo Hội) khi trình bày “linh mục là người môn đệ truyền giáo”.
Thật vậy, khi
trình bày về “chức vụ và đời sống linh mục” (sắc lệnh Presbyterorum Ordinis) và
“đào tạo linh mục” (sắc lệnh Optatam Totius), Công đồng Vatican II đã nhấn mạnh
đến chiều kích Kitô[3] (linh mục nên đồng
hình đồng dạng với Chúa Kitô để hành động nhân danh Chúa Kitô-là-Đầu: ‘in persona Christi Capitis’); tiếp đến,
trong viễn tượng thần học của PO và OT, Tông huấn Pastores Dabo Vobis đã trình
bày rõ hơn về “đào tạo linh mục” với điểm nhấn về chiều kích Ba Ngôi và chiều
kích Giáo Hội[4]
(x. PO 2; 4; PDV 11; 12; 15-18).
Một cách tóm tắt,
Tông Huấn PDV đi từ chiều kích Kitô đến chiều kích Ba Ngôi nhờ vai trò của Chúa
Thánh Thần trong Giáo Hội. Như vậy, chiều kích Ba Ngôi của chức linh mục được nổi
bật qua mối tương quan của linh mục với Giáo Hội. Công đồng Vatican II đã trình
bày Giáo Hội như là hoa trái của Mầu nhiệm Ba Ngôi[5].
Tiếp đến, Tông huấn Pastores Dabo Vobis đã
khẳng định: “Chính trong lòng Giáo Hội
xét như là mầu nhiệm hiệp thông giữa Thiên Chúa Ba Ngôi trong nỗi day dứt thi
hành sứ vụ truyền giáo mà mọi căn tính Kitô hữu được mạc khải và đồng thời căn
tính biệt loại của linh mục và của thừa tác vụ linh mục cũng được mạc khải” (PDV
12). Như thế, ơn gọi linh mục trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa Ba Ngôi
được thực hiện trong Giáo Hội và qua Giáo Hội.
2. Ở đây, bản
Ratio 2016 đã khéo léo trình bày việc đào tạo linh mục với điểm nhấn về Chúa
Giêsu (triết học: “giai đoạn đào tạo
người môn đệ [của Chúa Giêsu]” - thần học: “giai đoạn nên đồng hình đồng
dạng [với Chúa Giêsu]”), nhưng việc đào tạo này được thực hiện trong cộng
đoàn Giáo Hội dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Hai chiều kích “Kitô học” và
“Giáo Hội học” đan xen dưới tác động của Chúa Thánh Thần.
- chính Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi ứng sinh linh mục nên “người môn
đệ Chúa Giêsu” qua việc đào tạo trong Giáo Hội;
- chính Chúa Thánh Thần, qua Bí tích Truyền chức do Giáo Hội trao
ban, sẽ biến đổi ứng sinh linh mục tự bản chất để nên đồng hình đồng dạng với
Chúa Giêsu, từ đó người linh mục có thể hành động “in persona Christi Capitis” (nhân danh Chúa Kitô-là-Đầu);
- sau khi chịu chức, người linh mục sẽ được Giáo Hội sai đi Loan báo
Tin Mừng, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, ”Sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội, cũng như sứ mệnh của Chúa Giêsu,
là công việc của Thiên Chúa, hay nói theo thánh Luca, là công việc của Chúa
Thánh Thần” (Redemptoris Missio 24). Nói cách khác, sứ mạng truyền giáo của
Giáo Hội (‘họa ảnh của Ba Ngôi’/icône de la Trinité) đang phản chiếu chương
trình cứu độ của Ba Ngôi Thiên Chúa: “Như
Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” (Ga 20,21) và như “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức
dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,18).
3. Một nét thần
học nữa trong đào tạo linh mục liên quan đến “chiều kích Giáo Hội”, đó là Ratio 2016 nhấn mạnh rất nhiều đến việc
“đào tạo nhân bản” về mọi phương diện: sức khỏe thể lý, tâm lý (trưởng thành tình cảm,
tính dục), phán đoán, giao tiếp xã hội...; nhất là, chủng sinh cần biết về
chính mình, lịch sử của cuộc đời mình, lịch sử của gia đình mình với những điểm
mạnh và điểm yếu (x. Ratio 2016, số 94).
Điều này phản ảnh
một nét của mầu nhiệm Giáo Hội. Giáo Hội là thánh thiện nhưng bao gồm những con
người tội lỗi. “Chúa Kitô thánh thiện, vô
tội và tinh tuyền, không hề phạm tội chỉ đến để đền tội lỗi dân chúng, còn Giáo
Hội, vì ôm ấp những kẻ có tội trong lòng, nên vừa thánh thiện vừa phải luôn
thanh tẩy mình. Do đó, Giáo Hội luôn thực hiện việc sám hối và canh tân”
(Lumen Gentium 8).
Như Giáo Hội,
khi cố gắng khám phá bản thân trong bối cảnh lịch sử của gia đình và xã hội nơi
mình sống, ứng sinh linh mục ý thức về bản thân những yếu đuối, lỗi lầm của
mình, để rồi sẽ luôn “sám hối và canh tân”, để ân sủng Thiên Chúa biến đổi
mình.
III. KẾT LUẬN: “KHO TÀNG TRONG CHIẾC
BÌNH SÀNH”
Với tựa đề “Hồng Ân Ơn Gọi Linh Mục”, bản Ratio 2016 muốn nói đến nguồn gốc ơn gọi linh mục
đến từ Thiên Chúa, do Thiên Chúa ban cho con người đầy yếu đuối mỏng manh. Từ
đó, đứng trước ơn gọi cao quý này, người linh mục cũng cảm nhận tâm tình của
thánh Phaolô khi đứng trước sứ mạng cao cả làm chứng và rao giảng Chúa Kitô: “Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng
trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa,
chứ không phải từ chúng tôi.” (2 Cr 4, 7).
Và hồng ân ơn gọi
linh mục này chính là hồng ân trở thành “người
môn đệ truyền giáo” trong lòng Giáo Hội hôm nay, dưới tác động của Chúa
Thánh Thần.
Trung thành với
hồng ân ơn gọi linh mục cùng với sứ mạng truyền giáo trong bối cảnh hôm nay cả
là một điều khó khăn[6]. Người linh mục cần phải
luôn khiêm tốn, ý thức về thân phận mỏng dòn của mình, và phó thác để cho quyền
năng của Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời và sứ vụ của mình. Và “thường huấn nhằm nâng đỡ linh mục luôn trung thành với thừa tác vụ
linh mục theo một hành trình hoán cải liên tục, ngõ hầu làm sống lại ơn ban đã
lãnh nhận vào lúc truyền chức” (Ratio 2016, 81).
Và một điều kiện
để có Chúa trong cuộc đời đó là gắn bó với Giáo Hội, ở trong Giáo Hội. Thật vậy,
thánh Tôma chỉ có thể gặp được Chúa Phục Sinh khi ông hiện diện trong cộng đoàn
các tông đồ (x. Ga 20,24-29). Vì “ở đâu
có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt
18,20).
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM
VN, Số 121 (Tháng 11 & 12 năm 2020)
WHĐ (27.03.2021)
[1] x. Tham luận thứ nhất của Đức Tổng giám mục J.-C. Patrón Wong, Khóa
họp với Giám đốc và đội ngũ đào tạo các Chủng viện Pháp về bản Ratio Fundamentalis mới, Paris ngày 18
và 19 tháng 3 năm 20173.
[2] Congregation of Clergy,
Circular Letter to Priests on Missionary Identity: “The missionary identity of the priest in the Church which is intrinsic
to the exercise of the ‘Tria Munera”, 29-6-2010.
[3] Gilles Routhier, L’écho de l’enseignement de Vatican II sur le presbytérat dans la situation actuelle (Première partie), Revue Théologique de Louvain, Année 2010/41-1, pp. 86-112; [https://www.persee.fr/doc/thlou_0080-2654_2010_num_41_1_3813], 27.8.2020
[5] x. Hiến chế Lumen Gentium, số 2-4: Giáo Hội từ Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
- Giáo Hội khai sinh từ ý định
tự do của Chúa Cha hằng hữu (số 2);
- Ý định đó được thực hiện qua
sứ mệnh của Chúa Con (số 3);
-
Được bổ túc nhờ sự thánh hóa mà Chúa Thánh Thần mang đến (số 4).
[6] Theo thống kê vào cuối năm
2019, tổng số dân của Việt Nam là 96,2 triệu người, trong đó, khoảng có khoảng
7 triệu người công giáo, chiếm 6,7%. Truyền giáo vẫn đang là một thách đố rất lớn
đối với Giáo Hội Việt Nam. Nhất là đối với việc đào tạo là 2.746 chủng sinh
đang theo học tại 10 Đại Chủng Viện ở Việt Nam trong niên khóa 2019-2020.