Các vị trong Hội thừa sai Paris lên đường truyền giáo vào năm 1856
LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH HỘI THỪA SAI PARIS
Tác giả: Michel Trương
1. Đôi dòng thành kính ghi ân
Hầu như mọi đồng bào tín hữu Công
giáo sinh hoạt nơi Giáo hội Việt nam, ngay trong thời buổi hiện nay, không ai
có thể quên mà không nhắc đến bao công lao của các Tiền nhân trong Hội Thừa Sai
Paris. Một số đồng liêu ngoài Tôn giáo, đặc biệt vài tác giả ở các lãnh vực
khác không thuộc Sử học, cũng có người tỏ vẻ khâm phục, nhưng đôi lúc thì vài kẻ
vẫn buông lời luận tội. Dẫu sao thì những thành quả cống hiến của các Vị cho xứ
sở, bằng tính chân thật của Lịch sử mà khẳng định, thật là vô tiền khoáng hậu.
Làm sao có thể phủ nhận được đối với các công trình xây dựng nền tảng nhân bản,
góp phần tạo nên một khung cảnh sinh hoạt xã hội văn minh trong vùng Đông Nam
Á. Nếu chưa kể đến các yếu tố hiển nhiên mà các Ngài đã kiên trì sáng tạo như:
Phát quang Chân lý Tôn giáo; Gầy dựng những Cộng đoàn tu trì chăm
lo phục vụ đồng bào lương giáo; Tác chế Ngôn ngữ hòa nhập với Thế giới; Dựng
nét mỹ quan tôn ti trật tự xã hội; Nhận vai Quới nhân chia sẻ tình đồng loại
cho người bất hạnh v.v... Người ta còn ghi nhận ngay cả trong phong cách giao tế
ứng xử tình người giữa quần thể Người Việt, cũng mang nét độc đáo riêng, mà nó
được ảnh hưởng từ quá trình lâu dài do các Ngài dạy dỗ cho Dân tộc. Tất nhiên,
trong môi trường nội bộ mà đàm luận nhắc lại chuyện xưa thái quá thì cũng không
mấy gì hay, nhưng hiện thực quá khứ quả là như thế, khó mà cho chìm vào quên
lãng.
Việc một số tác giả trong Đạo bỏ công ghi chép
quá trình hoạt động của các Ngài trên Quê hương đất nước Việt Nam như là, để ôn
lại Lịch sử và tỏ lòng ghi ơn thì đếm ra cũng không ít. Nếu theo dõi cặn kẽ
trên các phương tiện Truyền thông đại chúng, xem ra như đã khá phong phú, nhất
là một số truyền nhân ở vài Giáo phận, còn thực hiện những án văn tường thuật
có pha vào những tâm tình bày tỏ nhắc lại kỷ niệm xưa với các Vị như hồi còn phục
vụ tại địa phương mình, xem qua thấy thật cảm động. Trong niềm phấn khởi từ bối
cảnh ấy, nhóm biên soạn cũng xin mạn phép chung bút đóng góp các tư liệu sau
đây và nhã ý thân mời Quý độc giả dành ít thời gian để cùng theo dõi, và nếu có
thể, cũng xin bổ túc thêm đôi điều còn thiếu sót trong bài viết, liên quan đến
tiến trình hình thành của Hội Thừa Sai Paris chúng ta.
2. Những tháng ngày ảm đạm trong xứ
Cochin
Bối cảnh khi Cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes)
đến hoạt động truyền giáo tại Việt Nam thì đất nước đang trong thời kỳ Trịnh
Nguyễn phân tranh, vì thế người Tây phương đến đây gọi xứ Đàng Ngoài là Tonkin
và xứ Đàng Trong có tên Cochin.
Lúc đó vào tháng 7-1644, một phụ nữ có tên Tống
Thị, xem như là Chính phi của Chúa Thượng (chính danh của Chúa Nguyễn Đàng
trong: Nguyễn Phúc Lan), bà ta từ lâu đã có thái độ thù ghét Đạo, đồng thời cấu
kết với quan trấn Quảng Nam (ông Nghè Bộ) cũng là người mang nhiều thành tích
mưu toan phá Đạo, tên quan này đã không ít lần làm cho Cha Đắc Lộ phải
điêu đứng.[1]
Khi vừa ở phủ Chúa về thì quan ra lệnh bắt giam một cụ già có tên Thánh là
Anrê, vì người này đã công khai tuyên xưng niềm tin của mình ở Hội An. Sau đó
quan cho lính tiến về nơi ở của Cha Đắc Lộ để bắt một Thầy giảng tên là
Inhaxiô, nhưng trước đó không lâu Cha và Thầy Inhaxiô đã rời nhà đi lên trấn,
nên chúng không gặp được người cần tìm, bèn bắt một Thầy khác đang có mặt ở đó
để thế lại, Thầy này cũng trùng tên Anrê. Người ta không nắm rõ lai lịch bao
nhiêu về Thầy giảng Anrê này, chỉ biết Mẹ của Thầy đem gởi để theo giúp việc và
học Đạo với Cha Đắc Lộ khi còn ở Phú Yên, cũng là nơi sinh quán của Thầy. Sau
đó được Cha Đắc Lộ rửa tội đặt tên Thánh là Anrê, nên mọi người quen gọi theo
tên Thánh và nơi xuất xứ, Anrê Phú Yên.[2]
Khi vào tù, Thầy Anrê còn rất trẻ tuổi này, gặp được cụ già giống với tên Anrê
cũng mới vừa vào chung căn ngục trước đó không lâu. Suốt cả đêm hai người trao
đổi với nhau những lời lẽ nhằm động viên tinh thần can đảm để sẵn sàng hy sinh
vì Đạo.
Sáng hôm sau Cha Đắc Lộ cùng với vài lái buôn người Bồ Đào Nha đến trình diện với quan trấn Quảng Nam để xin miễn xá cho hai tội phạm. Cha là người được Chúa Thượng kính nể vì lý do muốn giữ mối giao hảo với người Tây phương trong quan hệ mua bán súng ống đạn dược. Quan trấn tỏ ra không nhượng bộ, nhưng rốt cuộc thì cũng phải đồng ý tha bổng cho cụ già Anrê, còn Thầy trẻ tuổi Anrê vì cứng đầu từng dám nói với ông là: “Dù có chết cũng nhất định không chịu bỏ tên người có Đạo”, nên không thể dung tha. Không còn cách cứu sống cho Thầy Anrê, vì thế Cha Đắc Lộ chỉ đành biết an ủi, động viên và ban các Bí tích sau hết cho Thầy. Thầy vui vẻ bước đi, vai mang gông nặng mà chân bước rất mau. Trước khi lãnh án, Thầy ngậm ngùi nhìn Cha Đắc Lộ lần cuối như bày tỏ lời từ biệt, Cha cũng làm dấu, chỉ lên Trời như muốn nói nơi mà Thiên Chúa đang chờ để trao Triều thiên tử đạo cho Thầy. Bọn lính liên tiếp đâm Thầy ba nhát đao, nhưng Thầy vẫn quỳ ngay ngắn, mắt nhìn lên trời, thấy thế chúng vung đao chém vào cổ Thầy, nhát thứ nhất chém hụt, nhát sau mới làm Thầy rơi đầu. Một ngày đáng kính nhớ, đó là ngày 26 tháng 7 năm 1644. Của lễ hy sinh đầu mùa của Giáo Hội Việt Nam được dâng lên cho Thiên Chúa, đồng thời đó cũng là hồi chuông cảnh báo cho các Vị anh hùng khác trên đất Việt, sẽ còn nối gót theo gương Thầy mà tuyên xưng danh Chúa trong những ngày sắp tới.
Hình Thầy Anrê tử đạo do Giacinto Brandi vẽ năm 1652
Sau khi xử xong Thầy Anrê, quan trấn Quảng Nam
ra lệnh trục xuất Cha Đắc Lộ. Đối với suy nghĩ của Cha khi ấy, nếu bỏ đi trong
lúc này là hèn nhát, nên Cha lên tàu người Bồ Đào Nha nhổ neo lúc ban ngày,
nhưng đêm đến thì lại lén vào bờ để thăm các Giáo đoàn. Lúc đó vào trung tuần
tháng 9-1644, Cha Đắc Lộ thấy tình hình ở lại đó không được ổn, Cha chia
thầy Inhaxiô lên miền bắc là vùng từ Hội An ra đến Huế, phần Cha tránh về phía
nam (Nam Hội An) là vùng Quảng Ngãi – Qui Nhơn. Nhiều người lũ lượt đến gặp
Cha để xin nhận các Ơn Bí tích và tìm hiểu Đạo, vì là thời kỳ hoạt động trong
bóng tối nên Cha phải hết sức dè dặt khi tiếp xúc cùng lúc đông người. Từ trước
đến giờ tuy bách hại giáo dân, nhưng quan trấn Quảng Nam vẫn không dám phạm đến
tính mạng của Cha Đắc Lộ, dẫu sao Cha cũng là người được Chúa Thượng kính nể.
Mùa Sinh nhật năm 1644, một lần quan trấn đã từng bắt giam Cha nhưng rồi Chúa
Thượng lại ra lệnh phóng thích.
Nguyên vào năm 1643, Trịnh Tráng đem đại binh
đến Bắc Bồ Chính để đánh Chúa Nguyễn, nhưng vì tiết trời nóng bức nên bị thiệt
hại quân sĩ rất nhiều, Trịnh Tráng đành phải ra lệnh rút quân trở về. Sau đó
thì thuyền tuần tra của Chúa Nguyễn hoạt động rất nghiêm nhặt vì đề phòng sợ
quân Trịnh sẽ thừa dịp trở lại tấn công. Lần này thuyền của Cha Đắc Lộ trong
khi đi thăm các xứ đạo thì bị bắt và tình nghi là quân thám thính của phương bắc,
họ thấy có Cha là người Tây phương nên đối đãi tử tế nhưng vẫn giam giữ và báo
về phủ Chúa. Được tin báo, Chúa Nguyễn liền ra lệnh phải giải Cha và các Thầy về
kinh.
Tại phủ Chúa, triều thần họp lại để định đoạt
số phận của Cha Đắc Lộ. Chúa Thượng tuyên án xử tử tất cả và phải thi hành lệnh
ngay hôm đó, nhưng nhờ có vị đại thần Thái phó là thầy dạy của Chúa Thượng, đứng
ra can ngăn xin cho Cha, Ông tâu rằng, Đạo này không dạy điều chi xấu mà kết án
như thế là vấy máu người vô tội. Nhờ thế Cha Đắc Lộ được miễn tội chết nhưng phải
rời ngay khỏi xứ Đàng trong và không bao giờ được phép quay trở lại, còn những
người khác bị bắt chung trong chuyến đó đều bị giết.[3]
Sáng ngày hôm sau, chính vị quan trấn Quảng Nam được lệnh giải Cha ra cửa Hội
An để đưa xuống tàu người Bồ Đào Nha mà trở về Macao.
Đến đây chúng ta có thể hơi thắc mắc vì sao
trước đây có lần Cha Đắc Lộ bị các quan bắt giữ mà Chúa Thượng tỏ vẻ kiêng nể rồi
ra lệnh thả, còn lần này thì nhanh chóng kết án xử tử? Các nguồn sử liên quan
điểm này không có những tường thuật cặn kẽ, vài tác giả có đưa ra cách giải
thích theo suy đoán, như là: Tình hình chính trị thế giới lúc đó không còn thuận
lợi cho người Bồ Đào Nha tại vùng này nữa, vì có các cường quốc mới đang xuất
hiện như Tây Ban Nha, Hòa Lan, Anh Quốc, cũng đều đến gạ gẫm giao thương với Việt
Nam. Đồng thời tin tức từ cuộc cấm đạo ở Nhật lan dần đến Việt Nam qua các thương
gia ngoại quốc, các Chúa Nguyễn chịu ảnh hưởng của các hoàng đế Trung Hoa, các
Mạc Phủ và những tin tức đồn đại xuyên tạc, nên dần dần chuyển sang thái độ
nghi ngờ và ác cảm với Đạo Công giáo.[4] Và
như thế chúng ta hiểu, Cha Đắc Lộ trên danh nghĩa lúc đầu là người đã theo đoàn
tàu Bồ Đào Nha để đến Việt Nam.
Hôm đó ngày 03 tháng 7 năm 1645, Cha Đắc Lộ
vĩnh viễn từ giã đất Việt thân yêu sau bao nhiêu năm ra sức truyền giáo và để lại
di sản chữ Quốc ngữ cho dân tộc này. Ngày Cha ra đi có mang theo bảo vật quí
giá, đó là chiếc thủ cấp của Thầy Anrê Phú Yên. Trên đường đi khi ngang qua đảo
Hải Nam thì tàu gặp trận bão, mọi người trên tàu cầu khẩn với Vị tử đạo này nên
tai qua nạn khỏi, rồi về được đến Macao bình yên, trong khi 2 chiếc tàu khác,
cũng của thương buôn Bồ Đào Nha thì bị chìm trong cơn bão. Sau một thời gian
lưu trú ở Macao, Bề trên ra lệnh Cha Đắc Lộ phải về Rôma để báo cáo tình hình.
Ngày 20-12-1645, Cha xuống tàu trở về Châu Âu, Ngài bị người Hòa Lan bắt giam
trong vòng ba tháng, sau đó thì Cha theo tàu người Anh đi một chặng đường rồi
phải dùng đường bộ băng qua xứ Ba Tư đặng kết thúc hành trình. Lẽ ra chuyến đi
chỉ cần sáu tháng, thế nhưng phải mất tới ba năm rưỡi thì Ngài mới về đến được Rôma.[5]
3. Vận động bước đầu tại Rôma
Cha Đắc Lộ đặt chân lên Kinh thành Rôma ngày
27-6-1649, sau đó ngài được Ðức Inôcentê X cho tiếp kiến. Một năm sau, ngày
02-8-1650 Cha đã hoàn thành xong Bản tường trình cho Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin
về tình trạng Giáo Hội Việt Nam, với hiện tình nơi ấy có hơn 300.000 tín hữu và
mỗi năm còn tăng thêm khoảng 15.000 tân tòng.[6]
Từ số liệu bối cảnh đó, Cha Đắc Lộ tha thiết thỉnh cầu Thánh Bộ gởi Giám mục
giám quản Tông tòa đến hai xứ Ðàng Trong và Ðàng Ngoài. Ngày 26-9-1650, cùng với
sự hiện diện của Ðức Inôcentê X, các Hồng y đã họp lại chuẩn xét lời thỉnh cầu
này. Năm 1651, Thánh Bộ đề nghị chọn Cha Ðắc Lộ đảm nhiệm chức vụ Giám mục giám
quản Tông tòa, nhưng Cha lại từ chối, vịn theo lý do bởi các báo cáo của Vị thư
ký Thánh Bộ là Cha Francesco Ingoli, thì các thừa sai Bồ Ðào Nha sẽ không thể
nào chấp nhận được điều này và tình thế sẽ còn tệ hại hơn nữa. Nếu như không được
sự đồng thuận của người Bồ Ðào Nha, Cha sẽ có nguy cơ bị cầm tù. Ngày
30-7-1652, Thánh Bộ lại họp lần nữa cũng có sự hiện diện của Ðức Giáo Hoàng,
nhưng vấn đề bổ nhiệm Giám mục giám quản Tông tòa cho Việt Nam vẫn bị bế tắc,
nguyên do vì những trở ngại bởi qui chế “Quyền Tài Phán” Bồ Ðào Nha, chủ yếu là
vì Cha Đắc Lộ không phải gốc đào tạo và điều động bởi Bồ Đào Nha, mà là người gốc
Pháp với quốc tịch của Nước Tòa Thánh. Do đấy Ðức Inôcentê X vẫn chưa thể đi đến
một quyết định dứt khoát nào.
Không hy vọng tìm được giải pháp gì cho tương
lai Giáo Hội Việt Nam tại Rôma, Cha Ðắc Lộ đành rời chốn Kinh thành ngày
11-9-1652 để đi Marseille, nước Pháp, rồi sau đó tới lưu trú ở Lyon. Tại đây,
Ngài biên soạn quyển “Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài trong giai đoạn từ năm 1627
tới năm 1646”. Vào tháng Giêng năm 1653, Cha lên đường trực chỉ Paris, tại đây
sẽ có nhiều hy vọng mà Cha Ðắc Lộ nghĩ có thể tìm được giải pháp thỏa đáng cho
một Giáo hội mà Ngài hết sức yêu quí: Giáo Hội Việt Nam.
4. Thánh Bộ Truyền bá Đức tin
Vừa qua ở đoạn trên có đề cập đến một cơ cấu
trong Giáo Hội vào thời kỳ này, đó là Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin, để tiện theo
dõi tình huống, thiết nghĩ chúng ta cũng cần dành ra đôi dòng để mô tả những
nguyên do hình thành và cách hoạt động của tổ chức này.
Phong trào truyền giáo phát động tại Mỹ châu
và Á Châu đã làm cho Giáo Hội ý thức được rằng: Chế độ Bảo trợ (Patronato: tiếng
Tây Ban Nha, hoặc Padroado: tiếng Bồ Đào Nha), được thiết lập từ Trọng sắc
Inter Caetera 1493 và Hiệp ước Tordesillas 1494, mà Đức Alexandre VI ban hành
và cam kết với hai Đế quốc hàng hải Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Tuy nó cũng đã
đóng góp và bảo vệ ít nhiều cho công cuộc truyền giáo, nhưng dần dần cũng đưa đến
lắm ngăn trở cho nỗ lực rao truyền Phúc Âm ngày càng đòi hỏi cao hơn.[7]
Vì mục tiêu lợi ích kinh tế và quyền khai thác thuộc địa của các Quốc gia
có liên quan, mà họ luôn coi trọng ưu tiên lợi nhuận hàng đầu, nên đã gây ra
không ít những phiền nhiễu cho việc Truyền giáo. Kế hoạch mở rộng thành trì
Kitô giáo, nếu muốn giảm bớt tính cách thế tục mà chỉ nhắm vào mưu ích Thiêng
liêng, thì tất phải trực thuộc thẩm quyền Giáo Hội một cách trọn vẹn. Đã đến
lúc cần xem xét để hủy bỏ Chế độ Bảo Trợ này mà thay vào là Thẩm quyền Tòa
Thánh, để nắm giữ vai trò trực tiếp đặc cử những Giám mục đại diện Tông tòa đi
tới các vùng vừa mới khám phá đặng thực hiện công việc truyền giáo, như thế mới
hợp lý hơn.
Xin được mở ngoặc giải thích ngôn từ: Cùng một
Qui chế về thực trạng hiện hữu thời đó, nhưng các tác giả Sử hay dùng hoán chuyển
cách gọi. Nếu tiền ngữ là Chế độ thì nói “Chế độ Bảo trợ”; còn với tiền ngữ Quyền
thì “Quyền Tài Phán”, cả hai gần như chỉ một thực thể. Theo Trọng sắc Inter
Caetera: 2 cường quốc hàng hải Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha phải chiết ra một phần
tỉ lệ lợi nhuận từ việc khai thác thuộc địa để chịu trách nhiệm gánh chi phí và
cung cấp nhân lực cho việc truyền bá Kitô giáo trong các xứ ấy.[8]
Ý tưởng đã được manh nha từ khi Công Ðồng
Trentô kết thúc năm 1563, Đức Pi-ô V đã lập một Ủy Ban lo việc hoán cải dân ngoại.
Đến năm 1600, Ðức Clêmentê VIII thay thế Ủy Ban này bằng một cơ cấu khác tên là
Thánh Bộ Ðức Tin. Khi Ðức Grêgôriô XV được bầu làm Giáo Hoàng năm 1621, thì
Ngài rất quan tâm đến việc thiết lập Hàng Giáo sĩ địa phương, do vậy, vào ngày
lễ Ba Vua 06-01-1622, Ngài đi đến quyết định thành lập Thánh Bộ Truyền Bá Đức
Tin (Sacra Congregatio de Propaganda Fidei). Thánh Bộ này gồm 13 Hồng y, hai vị
cao cấp khác trong Giáo Hội và một thư ký, Đức Thánh Cha giao phó bổn phận chủ
yếu cho Thánh Bộ này là quản trị sứ mệnh truyền bá Ðức tin.
Vừa khi ra đời, một loạt các công việc mà
Thánh Bộ có nhiệm vụ phải thực hiện: Tổ chức nội bộ của Thánh Bộ, phân chia
toàn thế giới ra làm 13 tỉnh hạt truyền giáo, phổ biến lệnh cấm các vị Thừa sai
không được hoạt động chính trị và loại bỏ mọi mưu toan chính trị ra khỏi mục
tiêu thi hành tôn giáo và mục vụ, thiết lập trung tâm học vấn chuyên ngành truyền
giáo nhằm đào tạo các Thừa sai và huấn luyện Hàng Giáo sĩ địa phương, lập ấn
quán xuất bản các sách phụng vụ và giáo lý ngoại ngữ, thu thập các báo cáo về
tình hình thừa sai. Đặc biệt là điều đình với triều đình Madrid và Lisbonne về
những lãnh thổ hải ngoại do họ bảo trợ, bổ nhiệm Giám mục làm Giám quản Tông toà,
đặc trách điều khiển các Giáo hội địa phương. Trong tất cả những công việc ấy,
Cha Ingoli, thư ký Thánh Bộ, đã có công gánh vác rất nhiều.
Như vậy vào đầu thế kỷ XVII mọi người đã ý thức
được những hạn chế của chính sách Chế Độ Bảo Trợ liên quan đến hai nước Tây Ban
Nha và Bồ Đào Nha. Ban đầu từ nguyên do tranh chấp về hàng hải, rồi dẫn đến
tham vọng mở rộng ảnh hưởng Kitô giáo. Nhưng kết cuộc thì, nỗi bận tâm dành ưu
tiên cho quyền lợi vật chất bao giờ cũng tỏ ra có ưu thế vượt trội hơn. Lịch sử
thường cho thấy, khi có sự đụng chạm giữa 2 thế lực đạo đời, thì thành quả bên
bổn phận vì Nước Chúa, nhiều lúc cũng có thể thu về một số lợi điểm nào đó,
nhưng đều phải trải qua lắm nhiêu khê và xương máu. Bối cảnh thời Cha Đắc Lộ vận
động cho Việt Nam, mọi người muốn áp dụng và hưởng nhờ theo những qui định mới
như Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin chủ trương, tuy nhiên song hành cùng lúc, thì ảnh
hưởng của cơ chế cũ liên quan đến Quyền Tài phán của Bồ Đào Nha hãy còn đó,
tình hình bấy giờ người ta chưa có biện pháp để loại trừ hẳn. Chính vì thế mới
thấy được tài khéo léo của Cha Đắc Lộ cũng như những Vị tiên khởi lãnh mệnh xuất
tiến sang vùng Châu Á này. Song song đó, cũng có quyền nhận xét ở điểm này, những
biểu hiện thật hiển nhiên cho thấy, dường như Ý Định Quan Phòng đã thương đoái
cách riêng đến xứ sở Đất Việt chúng ta, xin hãy theo dõi tiếp câu chuyện và sẽ
nhận thấy ra điều minh chứng.
5. Tiến triển mối quan hệ khi đến
Paris
Ba năm lưu lại ở Rôma từ năm 1649-1652, sau
nhiều lần tiếp kiến với Ðức Inôcentê X và Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin, Cha Ðắc Lộ
nhận thấy ra chủ yếu ba điểm khó khiến cho Giáo triều chưa thể gởi Giám mục
Tông tòa đi Việt Nam: Một là thiếu tổ chức hậu cần ở Châu Âu; hai là thiếu quỹ
tài trợ chi phí cho việc gởi người đi, và cuối cùng là, thiếu những thừa sai đủ
nhiệt huyết và khả năng để giải quyết những yêu cầu đối với truyền giáo tại xứ
phương xa.[9]
Mà mục tiêu công việc này hiện đang đối mặt với hai thách thức lớn: Phải
thích ứng với người bản địa xứ phương Đông nhằm thu hút được tân tòng, và hai
là, phải đương đầu với những thế lực của Chế độ Bảo Trợ, là kẻ tham vọng độc
quyền quản trị truyền giáo tại vùng này, để nhờ song song đó, cũng bảo vệ luôn
tư lợi quốc gia họ. Từ những nguyên nhân phức tạp ấy, Cha Ðắc Lộ quyết định chọn
hành trình tiến về nước Pháp để tìm phương hướng cho câu giải đáp.
Tàu từ Kinh thành Rôma sau khi cặp được bến
Marseille, bờ nam nước Pháp, Cha Ðắc Lộ cất bước ngay hướng về Paris, giữa chặng
đường thì Ngài có dừng chân lại Roanne. Nơi đây Cha may mắn được làm quen với Ðức
Cha Henri de Maupas du Tour, Giám mục Giáo phận Puy và cũng là tuyên úy của
Hoàng Hậu đương thời. Dịp may lúc ấy, cũng đúng vào lúc Ðức cha De Maupas có việc
và đang chuẩn bị để đi Paris, Ngài đề xuất ý mời Cha Ðắc Lộ đồng hành cùng chuyến.
Hành trình 11 ngày giữa Roanne và Paris, kể từ ngày 17 đến 28-01-1653, đã cho
phép Cha Ðắc Lộ được dịp kể hết mọi chuyện tại vùng Châu Á và đặc biệt cách
riêng về Giáo Hội Việt Nam, những gì diễn ra ở xứ Tonkin cũng như trong xứ
Cochinchine (vì bên Ấn Độ cũng có một địa danh trùng tên Cochin, nên người
Phương tây gọi bên Ấn là Cochin-inde và tại Việt Nam là Cochinchine). Đồng thời
Cha Ðắc Lộ cũng tường thuật cặn kẽ về tình hình rao giảng và những cuộc trở lại
Đạo, về văn hóa và niềm tin của người Việt, gồm luôn những khó khăn, bách hại,
nhu cầu thừa sai, niềm hy vọng tương lai cho một Giáo hội tiềm năng thịnh vượng…
Thật là một cơ hội thuận lợi không thể ngờ, nhờ đó mà như là duyên cớ để dẫn đến
những biến chuyển thành lập Hội Thừa Sai Paris sau này.
Ðức cha Henri de Maupas là một người đặc biệt
có rất nhiều mối quan hệ quen biết tại Paris. Ngài được Vua Louis XIII và hoàng
hậu Anne d’Autriche bảo trợ, đồng thời cũng là một phát ngôn viên của Hội Thánh
Thể (Compagnie du Saint-Sacrement). Hội này được thành lập từ năm 1627 do Henri
de Lévis, công tước Vantadour, Hội hoạt động từ thiện mạnh mẽ như: Chữa trị bệnh
nhân, tài trợ dưỡng đường, cứu giúp người nghèo, hoàn lương kẻ lỡ bước, thăm viếng
tù nhân, dẹp trừ tà giáo, ủng hộ các chương trình Mục vụ ở thành thị cũng như
thôn quê. Hội qui tụ được nhiều Giáo sĩ và nhân vật quyền thế tiếng tăm, trong
đó có Thánh Vincent de Paul (1581-1660) và nhà giảng thuyết lừng danh Bossuet
(1627-1704), sau này trở thành Giám mục Giáo phận Meaux (1681-1704). Hội đặt trụ
sở tại Paris, hàng tuần đều có những buổi họp cho hội nghị chung hoặc cho từng ủy
ban, trên toàn quốc có 40 chi hội địa phương. Mục tiêu Truyền giáo là một trong
những ưu tư chính của Hội trong những năm ấy. Năm 1639, Hội tài trợ các đoàn thừa
sai Hừng đông, 1642 góp phần thành lập Hội Ðức Bà Montréal – hoạt động truyền
giáo vùng Tân Pháp ở Canada. Chính bản thân Vị sáng lập Hội là công tước
Vandatour, được thụ phong Linh mục vào năm 1641, còn đứng ra thành lập “Hội các
chủng viện Tông đồ và Vương quốc” để truyền bá Đức tin cho dân ngoại. Vị này
còn đề nghị lập Hội các thừa sai Ấn Ðộ, nhiều thân cận của Công tước Vantadour
cũng đã góp phần mở mang giao thương với Ba Tư, Ấn Ðộ, Madagascar…
Ðến Paris vào cuối tháng giêng 1653, Cha Đắc Lộ
đã được Đức Cha Henri de Maupas giới thiệu để gặp gỡ nhiều vị Giáo sĩ và các
nhân vật quan trọng ở Paris. Cha đã được tiếp xúc với Hoàng Hậu Anne
d’Autriche; Cha de Lingendes, Bề trên giám tỉnh Dòng Tên Pháp lúc bấy giờ; Cha
Charles Lalemant, bề trên Nhà tập Dòng Tên; cha Charles Paulin, linh hướng của
vua Louis XIV. Cũng trong dịp này, Cha Đắc Lộ đã được giới thiệu với triều
đình, được tiếp xúc cấp lãnh đạo của Hội Thánh Thể, gặp cha Vincent de Paul; Nữ
Bá Tước d’Aiguillon, là cháu thừa tự của Hồng y Richelieu và bà ta cũng là người
điều hành một Hội phụ nữ trợ tá cho Hội Thánh Thể. Nữ Bá Tước đứng đầu nhiều hội
từ thiện rất có ảnh hưởng ở Paris và Rôma, bà đặc biệt quan tâm đến hoàn cảnh của
các Giám mục Pháp, cùng làm việc bên cạnh Nữ Bá Tước, có bà De Miramion và cô
De Bouillon, là những Vị tích cực và hăng say đi làm việc thiện bất cứ nơi đâu.
Cũng trong khoảng thời gian này, Ðức Cha Henri
de Maupas còn giới thiệu cho Cha Ðắc Lộ một nhân vật quan trọng khác, đó là Ðức
Khâm Sứ “di Bagno”, biệt danh Bagni. Sau cuộc gặp gỡ, Ðức Khâm Sứ Bagni đã gởi
một bản phúc trình, trong đó thấy có hết lời khen ngợi về Cha Ðắc Lộ và đệ
trình lên Hồng y Fabio Chigni, Quốc Vụ Khanh của Ðức Inôcentê X, mà vị Hồng y
này sau được bầu làm Giáo Hoàng trong danh hiệu Alexandre VII. Năm 1654, trong
một buổi họp có Cha Ðắc Lộ tham dự, Vị phát ngôn viên Hội Thánh Thể cho hay là
đã qui tụ được một quỹ tài trợ và có thể giúp cho các Giám mục thừa sai. Do vậy,
nhiều dấu hiệu tích cực cho thấy các khó khăn thuộc hai khâu tổ chức hậu cần và
tài trợ kinh phí, như đã manh nha tìm ra giải đáp. Thành quả ấy có được là nhờ
những sáng kiến và sự nhiệt tình đóng góp của các nhân vật chủ chốt trong Hội
Thánh Thể.
6. Nhóm thừa sai đầy khả năng và nhiệt
huyết
Ðầu tháng 2 năm 1653, Ðức Cha Henri de Maupas
còn giới thiệu cho Cha Ðắc Lộ, Cha Jean Bagot (1580-1664), giáo sư tín lý, bề
trên nhà tập Dòng Tên và là người điều hành trong một hội tư, gọi là “Hội Bạn
Hiền” (Associatio amicorum, Les Bons Amis).[10]
Ý nghĩa “Bạn Hiền” với chí hướng như “một tâm, một lòng”, là một hội dành
riêng cho các Giáo sĩ hướng tới đời sống thiêng liêng qua tình bạn, đồng thời
cũng nhằm giúp đỡ những sinh viên nghèo và cô đơn. Vào thời điểm này, Cha Jean
Bagot đang điều động một nhóm khoảng mười hai người trẻ, tất cả đều sẵn sàng
đáp lại Tiếng gọi thừa sai mà Cha Ðắc Lộ nêu ra.
Với danh tiếng từ quyển Tự điển Việt-La-Bồ, ấn
hành tại Rôma năm 1651, Cha Ðắc Lộ đã được mời để đến nói chuyện ở Nhà tập Dòng
Tên trước một cử tọa gồm Tập sinh Dòng và các Ðại chủng sinh Triều sắp chuẩn bị
được làm linh mục. Ðây cũng là buổi nói chuyện đầu tiên mà Cha Ðắc Lộ thực hiện
trong tháng 2-1653 với các thành viên của Hội Bạn Hiền và dẫn đến một kết quả
thật mỹ mãn. Cha đã hoàn toàn chinh phục được các thính giả trẻ tuổi đầy nhiệt
huyết để sẵn sàng dấn thân đi thừa sai. Có ba vấn đề đã được Cha đề cập trong
bài diễn văn vào dịp này, nội dung Ngài phát biểu hôm đó, người ta còn ghi lại
như sau:
Trước tiên Cha thuật lại một cách cụ thể và tỉ
mỉ về những chuyến mạo hiểm của Ngài ở Việt Nam, và về việc thế nào Cha thích ứng
với các điều kiện sinh hoạt, văn hóa địa phương, cũng như việc học tiếng Việt,
Cha nói: “Trong thời gian 12 năm lưu trú trong xứ này, ở Ðàng Trong cũng như
Ðàng Ngoài, tôi đã học Tiếng Việt với dân chúng địa phương. Tôi lại còn có một
người thầy dạy: Cha Francisco de Pina, người Bồ Ðào Nha, là cộng sự đầu tiên
trong nhóm Dòng Tên nhỏ bé của chúng tôi đã hiểu biết một cách thấu đáo ngôn ngữ
Việt và giảng đạo mà không cần thông dịch. Thêm vào đó, tôi dùng các tài liệu của
các Linh mục dòng Tên khác, đặc biệt là những công trình của hai Cha Gasparil
de Amoral và Antoine Barbosa, mỗi Cha đều đã soạn thảo một tự điển, Cha
Gasparil de Amoral tự điển Việt-Bồ và Cha Antoine Barbosa tự điển Bồ-Việt. Tôi
đã sử dụng công trình của các Ngài và thêm vào đó cột chữ La-tinh tương ứng. Rốt
cuộc có khoảng bảy đến tám ngàn từ chữ Việt quốc ngữ được đối chiếu với ngôn ngữ
Bồ và La-tinh, mà không cần sử dụng đến loại kiểu chữ nôm hay chữ nho Việt
Nam.”
Kế đến sang điểm thứ hai, Cha mô tả về tổ chức
thừa sai tại Ðàng Trong và Ðàng Ngoài thích ứng với những phong tục tập quán địa
phương. Tổ chức đời sống của các Thầy Giảng dựa theo khuôn mẫu của các sư sãi
trong các chùa Phật giáo. Sau cùng, về điểm thứ ba, Cha trình bày nhu cầu khẩn
thiết phải gởi Giám mục đại diện Tông tòa đến Việt Nam để truyền chức Linh mục
cho người bản địa. Những cuộc bách hại liên tục hiện nay sẽ không cho phép người
ngoại quốc được ở lại trong xứ, phải tránh những sai lầm như đã từng gặp ở Nhật,
vì hiện nay không còn một Linh mục ngoại quốc nào có thể lưu lại nơi đấy. Phải
sử dụng hết mọi biện pháp có thể, chính Ðức Inôcentê X và Thánh Bộ Truyền Bá Đức
Tin cũng phải công nhận rằng, Giáo Hội sẽ không đủ khả năng thực hiện ý định nếu
như từ khước sự nhờ cậy vào tài trợ vật chất của hoàng gia Tây Ban Nha hoặc Bồ Ðào
Nha trong việc di chuyển và bảo vệ các thừa sai, cũng như việc xây cất nhà nguyện,
thánh đường, nhà xứ, cơ sở… Chính Cha Ðắc Lộ, bản thân cũng phải nhờ vả tàu bè
Bồ Đào Nha và Hòa Lan trên đường trở về Châu Âu.
Kế đến Cha Ðắc Lộ còn có thêm một buổi nói
chuyện khác, cũng được thực hiện vào tháng 2-1653, lần này tại nhà Nữ Bá Tước
d’Aiguillon và mang tính cách quan trọng hơn lần trước. Đây là buổi gặp gỡ có sự
tham dự của các thành phần quan trọng trong Hội Thánh Thể mà Cha Ðắc Lộ hy vọng
sẽ tìm được nguồn tài chính, nhân lực, cũng như những hợp tác khác... Nhờ lần
này mà có 3 Linh mục trẻ đặc biệt gây nên sự thu hút bởi Cha Jean Bagot và Cha
Ðắc Lộ, vì họ tỏ ra có đủ khả năng và xứng đáng để được phong Giám mục. Ðó là
các Vị: Cha François de Montmorency-Laval, Cha François Pallu và Cha Pierre
Piques.
Cha François Pallu, sinh năm 1626, là con thứ
10 trong một gia đình 18 anh em, giàu nhất thành phố Tours; 7 người chết sớm, 4
người lập gia đình, 7 người dâng mình cho Chúa, trong đó có 2 vị thuộc dòng
Tên, 3 nữ tu và 2 Linh mục Triều phụ tá Giám mục. Cha Pallu xin đi tu lúc 9 tuổi,
học Thần học ở trường Clermont, cư ngụ tại cư xá sinh viên “La Rose blanche”, ở
chung với Cha François de Montmorency-Laval, Bernard Gontier, Luc Fermanel de
Favery và Henri Boudon, sau này cùng là thành viên trong Hội Bạn Hiền. Được thụ
phong Linh mục lúc 24 tuổi, tức năm 1650, Cha François Pallu đã tham dự trong một
số sinh hoạt do Hội Thánh Thể tổ chức, có ý định muốn đi làm thừa sai ở Ðàng
Ngoài Việt Nam, nhưng thân phụ không bằng lòng nên đành nhờ đến một người bạn của
thân mẫu là Bà mẹ Marie de Saint-Bernard, nữ tu Dòng kín, can thiệp và bảo đảm
rằng, Cha đã suy nghĩ chín chắn chứ không phải là một quyết định nhẹ dạ.
Còn cha François de Montmorency-Laval sinh
ngày 30-4-1622, quê quán ở làng Montigny-sur-Avre, Giáo phận Chartres. Cha có
tham dự trong Hội Thánh Nữ Ðồng Trinh do cha Jean Bagot điều hành. Cha Bagot
cũng là giáo sư thần học của Cha François de Montmorency-Laval tại trường
Clermont.
Qua các Linh mục trẻ đầy nhiệt huyết và lắm khả
năng này, Cha Ðắc Lộ đã tìm ra được giải đáp cho yếu tố thứ ba về nhân sự thừa
sai. Ngày 07-3-1653, Cha soạn thảo một thỉnh nguyện thư để trình lên cho Ðức
Cha Bagni, Khâm Sứ Tòa Thánh. Trong đó trước tiên Cha nhắc lại rằng, từ năm
1615 ở Việt Nam đã có một cộng đồng tín hữu Công giáo được hình thành và qui tụ
với trên 300.000 giáo dân; thứ đến là báo tin cho hay hiện nay trong nước Pháp,
Cha đã tìm được một số Linh mục Triều với tấm lòng đầy nhiệt huyết và nhận thấy
có đủ khả năng để lãnh nhận chức Giám mục, họ sẵn sàng đi đến những miền xa xôi
ấy nhằm đáp ứng các nhu cầu truyền giáo của Giáo Hội.
Vậy là ba khó khăn lớn hầu như đều có được những
giải pháp thỏa đáng. Vào tháng 7-1653, một thỉnh nguyện thư rất cảm động đã được
soạn thảo để đệ trình lên Ðức Inôcentê X, trong đó có các chữ ký của Cha
Vincent de Paul; Cha Colombet, chánh sở Saint-Germain, một Họ đạo trọng điểm của
Paris; và Cha Ðắc Lộ. Nội dung chủ yếu trong thư như sau:
“… chúng con khiêm tốn thỉnh nguyện lên Ðức
Thánh Cha xin tiến hành truyền chức Giám mục Hiệu tòa và trao cho họ trách nhiệm
Đại diện Tông tòa trong hai vùng truyền giáo Ðàng Trong và Ðàng Ngoài. Tại
Paris, chúng con đã tìm được một số Linh mục Triều có đủ khả năng thi hành những
chức vụ này. Chúng con dám xin giới thiệu vì nhận thấy họ có tâm hồn trong sạch,
có nhiệt tình, khôn ngoan và đủ kiến thức về Tín lý. Vả lại, họ sẵn sàng để đón
nhận sự khảo hạch bởi những Vị mà do Ðức Thánh Cha đề cử ... chúng con xin dâng
lên lời thỉnh nguyện này với hết tấm lòng chân thành.”
Một điều đáng tiếc xảy đến, những nỗ lực hoạt động của Cha Đắc Lộ muốn dâng hiến cho Việt Nam giờ đây buộc phải đến hồi kết thúc. Do áp lực từ hoàng gia Bồ Đào Nha, Ngài được Bề trên Dòng thuyên chuyển và bổ nhiệm làm Giám tỉnh Dòng Tên trong xứ Ba Tư. Tháng 8-1654, Cha Ðắc Lộ từ giã Paris, vào phút chia tay, Cha François Pallu còn ghi lại những lời sau cùng của Ngài: “Tôi luôn luôn xác tín rằng Chúa là Đấng lo liệu và tổ chức thời gian, một ngày nào đó Người sẽ ban Ơn phù trợ cho dân chúng Ðàng Ngoài và Đàng Trong vào lúc thuận tiện nào đó, hẳn sẽ có Giám mục được gởi đến cho họ”. Cha Đắc Lộ đã cống hiến cho Giáo Hội phần còn lại của đời mình ở Ispahan (Thủ đô Ba Tư lúc bấy giờ, cách Teheran khoảng 350 km về phía nam), với chức vụ Giám tỉnh dòng Tên xứ Ba Tư. Không lâu sau, Ngài đã qua đời ngày 05 tháng 11 năm 1660 và được chôn cất tại đó.[11]
Ba vị François Pallu, François de
Montmorency-Laval và Pierre Piques có hy vọng được chọn làm giám mục từ tháng 2
năm 1653, các Ngài được Ðức Khâm Sứ Bagni điều tra theo Giáo luật, nhưng rốt cuộc
thì vẫn chờ đợi quyết định của Ðức Thánh Cha. Sở dĩ có sự chậm trễ vì Tòa Thánh
còn đang nghi ngại những chống đối từ phía Bồ Ðào Nha, họ đe dọa sẽ cầm tù và bắt
giam những Giám mục Pháp mà Tòa Thánh đang dự định gởi sang Châu Á. Vua Jean IV
của Bồ Ðào Nha đã xúi dục Dòng Tên bất cộng tác với dự án nước Pháp và đề nghị
một bảo trợ khác bởi 60 Tu sĩ dòng Tên. Từ đó những công việc thực hiện do Hội
Thánh Thể cực lực vận động đã không tiến triển gì thêm, suốt trong năm 1654 chẳng
thấy nhúc nhích chi cả.
7. Hành trình Rôma vận động xin duyệt
xét
Paris năm 1655, thêm một nhân vật khác xuất hiện,
Cha Vincent de Meur, người gốc Bretagne duyên hải Côtes d’Armor (tây bắc nước
Pháp), đã theo học ở đây từ năm 1643, Ngài cũng là tùy viên phòng tuyên úy
Hoàng triều, được thừa kế chức Tu viện trưởng Saint-André-de-la-Bellière.[12]
Cha quyết định về ở chung phố Coupeau cùng với các bạn : Louis Chevreuil,
Jean Dudouyt, Michel Gazil de la Bernardière, Pierre Piques ... họ tất cả gồm
13 người sống quây quần với cha Jean Bagot. Mỗi thứ năm, và đôi khi cả thứ ba,
Cha Vincent de Meur cùng với người bạn là Cha Vincent de Paul đi giảng thuyết
cho một Hội thừa sai hoạt động khắp vùng nước Pháp, nhằm phát triển việc truyền
giáo ở thành phố cũng như thôn quê. Trong một buổi họp, họ bàn bạc với nhau rồi
lấy quyết định tổ chức một chuyến công du sang Rôma, coi như biện pháp quyết định
cuối cùng để vận động cho chương trình thừa sai Việt Nam.
Ðược báo tin, Cha François Pallu rời ngay
thành Tours để quay về Paris, rồi cùng với Cha Vincent de Meur và ba người khác,
tất cả năm người đều thuộc nhóm Bạn Hiền, chuẩn bị khởi hành đi Rôma. Bấy giờ
là mùa xuân 1656, họ ghé chân qua Marseille rồi lấy tàu để sang Kinh đô, đoàn đến
nơi ngày 03-6-1657, chỗ lưu trú cho Phái đoàn được sắp xếp tại nhà các Ðệ Tử
Thánh Vincent, đường Missione, Monte Citario. Trong khi nhóm lữ hành trên đường
tiến về Rôma thì hay tin được tăng cường thêm người thứ sáu nhưng Vị này không
đi cùng một lượt, đó là cha Pierre Lambert de la Motte. Vị Linh mục này sinh
năm 1624 tại Lisieux, thụ phong linh mục ngày 27-12-1655 ở Coutances, từng hành
nghề Luật sư và sau đó còn được bổ nhiệm làm giám đốc một bệnh viện tại thành
phố Rouen. Cha Pierre Lambert de la Motte, do quen biết Cha François de
Montmorency-Laval nên mỗi lần lên Paris, đều ghé qua trụ sở nhóm Bạn Hiền ở phố
Couteau để thăm một người em của mình, cũng là một thành viên thuộc nhóm này.
Chính ở đây mà Ngài được hay tin về dự tính đi
Rôma của các bạn Vincent de Meur và François Pallu. Bản thân mình, Ngài cũng từng
mơ ước được đi Canada hay Trung Quốc, khi nói chuyện với cha Vincent de Paul
thì cha Lambert De la Motte được động viên, nên quyết định cũng lấy hành trình
nhằm có ý trợ giúp với đoàn công du Rôma một tay. Ghé qua Dijon, rồi Lyon, kế đến
trên hành trình, Cha hay tin rằng, mình cũng là một trong ba ứng viên được đề cử
chức Giám mục, thay thế cho cha Pierre Piques. Cha liền ghé Annecy viếng mộ
thánh François de Sales, viếng Notre-Dame de Myans, viếng tu viện Grande
Chartreuse (một Đan viện danh tiếng ở Pháp), rồi sau đó lên đường đi Toulon để
chặng cuối lấy tàu tiến về Thành thánh Kinh đô Giáo hội.
Giờ đây bối cảnh Giáo triều vừa chuyển sang một
bước ngoặt mới, Tân Giáo Hoàng với danh hiệu Alexandre VII được bầu lên ngày
07-4 và đăng quang ngày 18-4-1655. Ðoàn hành hương gồm các Cha François Pallu
và Vincent de Meur, vừa khi đến Rôma đã được Ðức Hồng y Bagni, cựu khâm sứ
Paris, tiếp đón nồng nhiệt và chỉ dẫn tận tình về những thủ tục Giáo triều. Họ
được gặp Ðức Hồng y Corrado, bạn của Ðức Giáo Hoàng, gặp Bộ trưởng Thánh Bộ
Truyền giáo là Ðức Hồng y Mario Alberici, và sau cùng đã xin được cuộc hẹn để yết
kiến Ðức Alexandre VII, ấn định vào ngày 17-7-1657. Cha Vincent de Meur dịp này
được trình bày lời thỉnh cầu với Ðức Giáo Hoàng về tình hình Kitô giáo tại
Trung Quốc, Bắc và Nam Việt Nam. Trong thỉnh nguyện thư lần này Cha Vincent de
Meur đã tỏ ý với Ðức Alexandre VII về một vài điểm tương đối tế nhị, đại khái
qua những lời sau đây :
“… Chính vì lẽ đó mà chúng con dám đích
thân mạo muội đệ trình công việc này với Ðức Thánh Cha ... , xác tín về những
thành công mà các thừa sai sẽ mang lại trong những vùng truyền giáo này. Chúng
con không dám đề cập đến vấn đề Giám mục vĩnh viễn, mà chỉ xin Ðức Thánh Cha gởi
các Giám mục hiệu tòa. Còn như việc thực hiện dự án này, chúng con xin hứa tự
lo liệu mọi chi phí mà không có ý đòi hỏi gì nơi Thánh Bộ Truyền Giáo. Chúng
con sẵn sàng làm một đảm bảo đặt tại thành phố Avignon, mà thấy là đủ để lo liệu
phương tiện cho các thừa sai sẽ được gởi đi. Ngoài ra chúng con cũng hy vọng rằng,
chính quyền Bồ Ðào Nha từ hai năm nay đã thuận phép cho 12 thừa sai quốc tịch
khác, lưu chuyển trên đất Bồ và những miền thuộc địa của họ, thì tin rằng cũng
sẽ giúp chúng con như vậy. Giả như họ có muốn gây ra khó dễ, thì chúng con vẫn
có hướng đi khác không phải lệ thuộc họ, bằng cách dùng đường băng qua Ba Tư và
Mông Cổ...”
Nhiệt tình của nhóm linh mục trẻ này đã làm Ðức
Alexandre VII rất cảm động, chính bản thân Ngài hồi còn trẻ cũng từng mơ ước để
trở thành thừa sai. Nghe phúc trình xong, Ngài khích lệ họ và hứa sẽ triệu tập
một ủy ban gồm 4 Hồng y Rospigliosi, Spada, Albizzi và Azzolini để lo xúc tiến
thủ tục. Như vậy mọi chuyện đều đã ổn, Cha François Pallu vui mừng báo tin cho
Nữ Bá Tước d’Aiguillon. Các thành viên đoàn hành hương đều trở về Pháp chỉ còn
một mình Cha François Pallu ở lại Rôma để theo dõi hồ sơ. Tại đây Cha được Linh
mục Guillaume Lesley, thư ký của hai Ðức Hồng y Charles Barberini và Mario
Alberici, tận tình giúp đỡ nhưng vẫn là, công việc xúc tiến rất chậm.
Bốn tháng sau vào ngày 18-11-1657, Cha Pierre
Lambert de la Motte cuối cùng thì cũng tới được Rôma. Đây là một con người mưu
lược và lắm tài ngoại giao, Cha Lambert đã tìm dịp để xin được yết kiến Ðức Hồng
y Alberici, trưởng Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin. Qua suốt 11 giờ bàn thảo, cuộc yết
kiến đã đề cập đến hết mọi khía cạnh của công việc, trong đó có hai vấn đề đặc
biệt quan trọng được đem ra mổ xẻ. Khó khăn thứ nhất: Vấn đề ngân khoản tài trợ
cho các thừa sai, Cha Lambert đang thừa hưởng một tài sản khá dồi dào, Ngài liền
làm giấy tại chỗ với một luật sư người Ý, xin lấy tài sản riêng này để đảm bảo
chu cấp cho các thừa sai. Khó khăn thứ hai: Vấn đề mối cấu kết gần đây được thiết
lập giữa Dòng Tên và chính quyền Bồ Ðào Nha, nhằm cản trở việc gởi các thừa sai
Pháp đến những miền trong khu vực Quyền Tài Phán của họ. Cha thư ký Guillaume
Lesley trong ý phát biểu tại buổi họp cho rằng, dẫu biết đây là một khó khăn lớn,
có khi nó còn lớn hơn cả việc rao giảng Phúc Âm cho lương dân nữa, nhưng Ngài
bày tỏ vẫn chủ trương phải quyết chí tiến hành trong nhẫn nại.
Với biết bao nhiêu nỗ lực của nhiều con người
rốt cuộc thì, cũng tới lúc phải đi đến kết quả. Ngày 13-5-1658 Thánh Bộ Truyền
Giáo đệ trình đề nghị nhằm bổ nhiệm Cha François de Montmorency-Laval làm Giám
mục đi Canada, Cha François Pallu và Cha Pierre de la Motte làm Đại diện tông
tòa đi các xứ truyền giáo ở Trung hoa và các nước lân cận. Ngày 08-6-1658, Ðức
Alexandre VII chuẩn y các đề nghị này. Sau đó qua bổ nhiệm thư đề ngày
29-7-1658, Ðức Alexandre VII bổ nhiệm Cha François Pallu làm Giám mục hiệu tòa
Héliopolis, Cha Pierre Lambert de la Motte làm Giám mục hiệu tòa Béryte, cả hai
làm Giám Quản Tông Tòa cho các xứ truyền giáo Nam Trung Hoa và Việt Nam.[13]
Chính ngày này được coi là ngày thành lập Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris,
tên tiếng Pháp: La Société des Missions Etrangères de Paris (cách viết tắt: Les
MEP, sở dĩ phải có thêm chữ “de Paris”, vì muốn phân biệt với một Hội thừa sai
khác tại Pháp do Cha Vincent de Paul thành lập để đào tạo người đi truyền giáo
Ba Tư). Ngày 17-11-1658, Cha Pallu được tấn phong Giám mục tại Rôma và ngày
02-6-1660, Cha Lambert thụ phong Giám mục tại Paris.
8. Sắc chỉ Super Cathedram
Ngày 09-9-1659, Ðức Alexandre VII ban hành Sắc
chỉ Super Cathedram thiết lập 2 Giáo phận truyền giáo đầu tiên tại Việt Nam: Ðức
Cha François Pallu được bổ nhiệm làm Giám Quản Tông Tòa Đàng Ngoài, kiêm quyền
cai quản 5 tỉnh Vân Nam, Quí Châu, Hồ Nam, Hồ Bắc và Tứ Xuyên của Trung Quốc
cùng với nước Lào. Đức Cha Pierre Lambert de la Motte được bổ nhiệm làm Giám Quản
Tông Tòa Đàng Trong, kiêm quyền các tỉnh Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng
Tây và Đảo Hải Nam của Trung Quốc và gồm cả Chiêm Thành. Theo đề nghị của 2 Ðức
Cha Pallu và Lambert, ngày 20-9-1660, Cha Ignace Cotolendi cũng được tấn phong
Giám mục hiệu tòa Métellopolis, bổ nhiệm Giám Quản Tông Toà Nam Kinh, Vị này được
tiến hành tấn phong Giám mục vào ngày 07-11-1660 tại Nhà tập Dòng Tên Paris.
Với biến cố ngày ra Sắc chỉ Truyền giáo này,
cũng được coi là ngày mở đầu chuyển sang thời kỳ thứ hai trong lịch sử truyền
giáo tại Việt Nam: đó là Thời kỳ phát triển với Hàng giáo phẩm Tông tòa. Cần nắm
sơ qua, các tác giả khi ghi lại quá trình hình thành Giáo hội Việt nam, thường
hay phân chia thành 3 thời kỳ: Một là, Bước thăm dò và bảo trợ; kế đến là thời
kỳ Phát triển, cai quản bởi Giáo phẩm Tông tòa; và sau hết là Trưởng thành
trong cơ chế tự lập Hàng giáo phẩm Việt nam.[14]
Có thể xem rằng Sắc chỉ Super Cathedram được
ví như một “Sứ vụ lệnh” mà Đức Alexandre VII ban cho hai Đức Cha, Lambert de la
Motte và François Pallu, được hiểu như là lệnh bổ nhiệm Giám Mục Tông Tòa, mỗi
bản giao cho từng người được viết giống nhau, chỉ khác ở mục ghi tên và nhiệm sở
Tông tòa. Trong đó có ba ý tưởng chính, xin được trích yếu lược mô tả sau
đây:
Về mục tiêu: “... Nới rộng tầm nhìn trên toàn
thể thế giới Kitô, để lo lắng tận tâm có thể được và trong Ơn Chúa, hầu hướng dẫn
và săn sóc tinh thần cho toàn tín hữu trong các quốc gia chỉ định”.
Về sứ mệnh và công việc: “... Ta cắt đặt và đề
cử Ngài (Tên Đức Cha Pallu) làm Đại diện Tông Tòa (xứ Đàng Ngoài), với quyền
cai quản các tỉnh mà Ta đã nêu ra ở phần trên, cùng khả năng được nới rộng địa
hạt cai quản ra các tỉnh khác. Được quyền phân chia cho một Giám mục khác, nếu
Ngài thấy rằng đó là điều cần thiết để đáp ứng nhu cầu tinh thần cho các giáo
dân, hầu để họ không phải rơi vào hoàn cảnh không có Mục tử”.
Về quyền hạn: “... Để cho việc phong chức các
Linh mục bản xứ được dễ dàng hơn, và để cho Đạo Công giáo được thiết lập một
cách chắc chắn hơn. Với sự chúc lành của Chúa, với uy tín và nội dung của Sắc lệnh
này, Ta cho phép và nhượng quyền cho Ngài, trong tư cách là Đại Diện Tông Tòa,
chỉ trong vòng bảy năm, được miễn trừ cho các Giáo sĩ nói trên trong Giáo phận
của Ngài không cần hiểu biết tiếng La-tinh, miễn là họ phải biết đọc tiếng
La-tinh và biết giải thích qui định của Giáo Luật về Thánh lễ và về thể thức của
các phép Bí tích trong Giáo Hội”.
Và còn thêm “Trong những điều kiện trên, những
Giáo sĩ địa phương sẽ có thể được tiến chức vào mọi Chức thánh, kể cả chức Linh
mục, miễn là họ phải biết chấp hành mọi luật định. Ngài sẽ có toàn quyền giản
lược việc đọc các Nghi thức Thánh, nghĩa là đối với việc thi hành các Giờ kinh
phụng vụ theo Giáo luật, họ có thể đọc những Lời kinh nguyện ấy bằng ngôn ngữ địa
phương”.
Về hiện tình và hướng hoạt động cho hai Địa phận
Ðàng Trong và Ðàng Ngoài trong tương lai như vậy đã được định đoạt, những nhiệm
vụ cần phải hoàn thành là: Truyền chức Linh mục để thiết lập Hàng Giáo sĩ địa
phương. Ngoài ra các vị Đại diện Tông tòa còn phải làm gương sáng cho Hàng Giáo
sĩ bản địa, tuyệt đối không dính líu vào chính sự, phải thích ứng với tập tục
và thói quen địa phương. Song song đó còn lo thiết lập các Chủng viện hay Học
viện để đào tạo Linh mục bản xứ, liên lạc chặt chẽ và vâng phục tuyệt đối
vào Tông Tòa.[15]
Vậy là giờ đây đến phần các Vị phải bắt đầu
nghĩ đến nhu cầu lo chuẩn bị hậu cần, một tương lai đường dài. Làm sao vẫn còn
người tiếp nối theo sau công việc của kẻ đi trước và lo toan đảm bảo cung cấp
tài chánh để gánh vác cho mọi nhu cầu đòi hỏi của tất cả sinh hoạt của Hội
trong thời gian tới.
9. Tổ chức Chủng viện Thừa sai và nguồn
kinh phí
Song song với ý định tiến hành ra đi truyền
giáo, những Vị sáng lập Hội Thừa Sai Paris, ngay từ buổi ban đầu đã nghĩ đến việc
đào tạo nhân lực. Hồi còn bên Rôma đang khi vận động thành lập Hội,
thì trong hồi ký hai Vị Lambert và Pallu có đề ra phương án thành lập một
chủng viện chuyên lo việc hoán cải cho dân ngoại.[16] Ngày
01-7-1658, ba Đấng là François de Laval, François Pallu và Pierre Lambert de la
Motte đã làm một thỉnh nguyện thư lên Thánh Bộ Truyền Giáo xin phép mở một chủng
viện mà mục đích duy nhất chỉ là đào tạo kỹ năng rao giảng tin mừng cho các Thừa
sai. Trong kế hoạch đó người ta sẽ nhận tất cả các Linh mục nào muốn sống thử
Ơn gọi thừa sai của mình và sẽ tiến hành đào tạo họ bằng mọi cách để có thể
thích ứng với khả năng và môi trường hoạt động truyền giáo xa xôi. Thánh Bộ tiếp
nhận thỉnh nguyện thư một cách thuận lợi, nhưng cũng để cho 3 Vị sáng lập ấy
hoàn toàn tự do, lấy sáng kiến của mình áp dụng trong việc gầy dựng và tổ chức.
Từ buổi sơ khai tại Paris, cũng vẫn luôn là
hai nhóm Hội này đảm nhận dự án: Hội Bạn Hiền tuyển chọn nhân sự thừa sai, còn
Hội Thánh Thể huy động ngân quỹ tài chánh đồng thời lo xây dựng cơ sở.[17]
Ðức Cha François Pallu ngay sau khi thụ phong Giám mục ở Rôma, thì đầu năm 1659
đã quay về Paris gặp lại Hội Bạn Hiền ở phố Coupeau và phố Saint-Dominique, nhằm
tìm kiếm và tuyển chọn các thừa sai trẻ cho chương trình huấn luyện để gửi sang
Việt Nam. Nhóm Bạn Hiền ở Paris và các tỉnh đã gởi về khoảng 20 Linh mục trẻ sẵn
sàng tình nguyện đi truyền giáo. Một người trong thân tộc Cha Pallu, bà De
Miramion, đã bằng lòng cấp dưỡng nơi ăn chốn ở cho các ứng sinh tại một dinh thự
của bà trong trấn La Couarde gần La Queue-les-Yvelynes, cách Paris khoảng 50
cây số về phía đông nam. Nơi đây, Ðức Cha Pallu đã thiết lập một chương trình
đào tạo gồm 2 lãnh vực: giảng dạy lý thuyết bằng cách học hiểu các tác phẩm nói
về Châu Á và cho thử việc qua thực tập cụ thể các phương pháp giảng đạo bình
dân nơi ba làng quê trong nước Pháp: Haute-Marne, Oise và Dreux. Ngày 27-9-1659
người ta cũng giới thiệu thêm cho Ðức Cha khoảng 40 ứng viên mới tại La
Couarde, vì xét thấy phù hợp với những tiêu chuẩn do Ngài đã đề ra, là sức khoẻ,
khả năng khoa học, tinh thần vâng lời, nhân đức siêu thoát ... Ðức Cha chỉ chọn
được có 6 người.
Như vậy Chủng Viện Thừa Sai có được một nơi
đóng cứ tại La Couarde từ mùa hè cho đến cuối năm 1659, sang đầu năm 1660 thì dời
về Paris, đường Quincampoix, cạnh bên nhà thờ Saint-Josse. Lúc ấy nhân lực tất
cả gồm 2 Giám mục, 11 Linh mục, 5 Tu sĩ và 8 giáo dân. Vậy là chương trình đào
tạo đã được khởi động, còn tiếp đến tình hình cơ sở chủng viện và ngân quỹ truyền
giáo sẽ diễn biến ra sao ? Hội Thánh Thể chính là nhân tố tích cực chủ động
trong việc kiến tạo Chủng Viện Thừa Sai. Năm 1658 Hội đã lập một Hội Ðồng Thừa
Sai và chỉ định những ủy viên để lo xây dựng một cơ sở chủng viện dành cho “Thừa
Sai hải ngoại”, một trong những ủy viên này là ông Du Plessis, người đã tỏ ra rất
hăng say tích cực. Để huy động nguồn tài chánh và nhân lực, năm 1659, Hội Thánh
Thể cho phát hành một tờ bướm tin và một tập tư liệu nhỏ để phổ biến trong toàn
nước Pháp. Tờ loan tin đó mang tựa đề “Thông báo về các phái đoàn thừa sai đến
xứ Bắc Việt và Nam Việt”, trong đó đề cập tới tình hình hiện có khoảng từ 20 đến
30 thừa sai đang chuẩn bị hành trang để cùng lên đường với hai Giám Mục Ðại Diện
Tông Tòa, và kêu gọi các ân nhân hãy rộng lượng giúp đỡ hầu gầy dựng một ngân
khoản tài trợ cho chuyến hành trình và cuộc sống hải ngoại xa xôi của các thừa
sai.
Trước khi lên đường đi nhận nhiệm sở mình, bốn
Giám mục thừa sai tiên khởi, cũng là các Đấng sáng lập Hội Thừa Sai Paris là
Laval, Pallu, de la Motte và Cotolendi đã chỉ định cho 6 nhà quản lý để lo việc
quản trị cơ sở ở Paris trong khi các Ngài vắng mặt. Sáu người quản lý ấy gồm 3
Giáo sĩ, đó là các Cha Vincent de Meur, Luc Fermanel de Favery và Michel Gazil
de la Bernardière; 3 giáo dân là các ông Jean de Garibal, René de Voyer và
Antoine Pajot de la Chapelle. Năm 1660, Ðức Cha Lambert de la Motte cũng đã ký
một giấy ủy quyền khác cho các quản lý của Ngài, trao phó trách nhiệm phải kiến
thiết một chủng viện để đào tạo thừa sai nhằm phục vụ cho các Giám Mục Ðại Diện
Tông Tòa. Năm 1663, Ông Du Plessis, được sự ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè, đã điều
đình để mua lại căn nhà của Ðức Cha Bernard de Sainte-Thérèse. Đến ngày
16-3-1663 thì Ðức Cha này đã ký giấy bán các dãy nhà của Ngài ở địa chỉ: 128,
Rue du Bac, Paris quận 7 để làm cơ sở Chủng Viện Thừa Sai, cơ sở này vẫn còn tiếp
tục duy trì điều hành cho đến ngày nay.
Sau khi lo xong cơ sở, các Vị quản lý bắt đầu
tiến hành thủ tục xin được chính thức công nhận bởi chính quyền và giáo quyền
cho Chủng Viện Thừa Sai này. Ngày 26-7-1663 vua Louis XIV ký ngự chỉ công nhận
Chủng Viện Thừa Sai, Vua xác nhận hợp đồng được ký kết mua bán giữa đôi bên và
thừa nhận tính hợp pháp của “Chủng Viện truyền giáo cho lương dân tại các xứ hải
ngoại”, ngày 07-9-1663 Nghị viện Paris đã tiến hành thủ tục đăng ký tính pháp
quyền của ngự chỉ ấy. Ngày 10-10-1663, Viện trưởng tu viện
Saint-Germain-des-Prés, Henry de Verneuil, phê chuẩn xác nhận cho hai nhà quản
lý Gazil de la Bernardière và Armand Poitevin được toàn quyền điều hành Chủng
viện. Ngày 11-6-1664, đại hội đầu tiên của Chủng Viện được triệu tập, Cha
Vincent de Meur được bầu làm Bề Trên tiên khởi cho Chủng Viện Thừa Sai;
François Bésard làm phụ tá và Luc Fermanel làm quản lý. Ðại hội cũng đã chỉ định
ra một giáo sư thần học coi chuyên khoa và một giám đốc đặc trách chủng sinh vụ.
Tất cả các nhân viên điều hành tiên khởi của Chủng Viện Thừa Sai đều xuất thân
từ nhóm Bạn Hiền, do cha Jean Bagot điều động.
Được bầu làm bề trên, Cha Vincent de Meur lo
liệu ngay việc xin Tòa Thánh công nhận Chủng Viện Thừa Sai. Ngày 11-8-1664, Ðức
Hồng Y Chigni, là cháu của Ðức Giáo Hoàng Alexandre VII đang làm đại diện tại
Paris, đã nhân danh Tòa Thánh cấp Thánh chỉ công nhận Chủng Viện Thừa Sai Hải
Ngoại. Như vậy, Chủng Viện này dẫu là được thành lập do các Đấng Bậc chức quyền
trong Giáo hội Pháp, nhưng họ cũng sát cánh cùng với Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin
và Các Giám Mục Ðại Diện Tông Tòa để đào tạo và tiếp tục gởi đi khắp nơi những
nhân sự mà Thánh Bộ có yêu cầu cho công việc mở mang Kitô giáo.
Sau khi được bổ nhiệm Giám mục Tông tòa và thu
xếp xong việc hậu cần, các Ngài chuẩn bị lên đường để nhận nhiệm sở. Lực lượng
từ Châu Âu khởi hành sang Viễn đông gồm Giám mục, Linh mục và giáo dân tất cả
có 16 nhân sự, thì hết 8 Vị phải bỏ mạng trên đường đi. Trong số đó đau buồn nhất
là có cả Đức Cha Ignace Cotolendi. Sau cuộc hành trình vất vả xuyên Ấn Độ, khi
đến cảng Masulipatam để lấy tàu đi Ayuthia, Ngài mắc bệnh ruột và lên cơn sốt nặng,
rồi vì kiệt sức nên đành vĩnh viễn bỏ cuộc ngày 16-8-1662, thi thể Ngài được
mai táng ngay tại bờ biển Đông Ấn.[18]
Số còn lại, kẻ thì đến trước người tới sau, các Vị chọn điểm dừng chân đầu
tiên để khởi sự cho Sứ vụ là tại Ayuthia, kinh đô nước Xiêm thời bấy giờ. Với số
còn lại gồm 8 người, thì 3 người thuộc phái đoàn thừa sai Ðàng Trong đã đến nhiệm
sở trước vào ngày 22-08-1662, là các Vị: Ðức Cha Lambert với 2 Cha Jacques de
Bourges và François Deydier. Năm người thuộc đoàn thừa sai Ðàng Ngoài đến ngày
27-01-1664, đó là Ðức cha Pallu và 4 Cha: Pierre Brindeau, Louis Laneau, Louis
Chevreuil và Antoine Hainques. Tuy nhiên trước đó, ngày 14-10-1663 Cha Jacques
de Bourges được Ðức Cha Lambert ủy thác trở về Châu Âu với sứ mệnh trình bày
cho Tòa Thánh biết về những khó khăn gặp phải trên đường đi đối với các Cha
Dòng tên Bồ Ðào Nha và xin nới rộng quyền cho các Giám mục Đại diện Tông tòa.
Như vậy tính vào thời điểm đầu năm 1664, thì số có mặt tại Ayuthia chỉ có 7
nhân sự để khởi phát cho một công trình truyền giáo trường kỳ lịch sử của Hội
Thừa sai Paris tại Châu Á.[19]
10. Vài nhận định kết thúc
Đến đây bài tường trình xin được mạn phép dừng
lại việc ghi chép những bối cảnh về quá trình hình thành của Hội Thừa Sai Hải
Ngoại Paris. Về sau nếu trong một dịp nào để tìm hiểu thêm phần hoạt động của lực
lượng Thừa sai này, thì nội dung nối tiếp sẽ là những gì mà Hội cống hiến cho
Giáo Hội Việt Nam. Dĩ nhiên chúng ta không thể phác họa hết cho đầy đủ, dù chỉ
là ngắn gọn, của khoảng thời gian hơn 350 năm hoạt động truyền giáo của Hội. Dẫu
vậy, hẳn là cần thiết để dựng lại một nội dung trình thuật về buổi gầy dựng ban
đầu, mà họ đã trải qua một thời kỳ với không biết bao nhiêu nghịch cảnh và thử
thách. Đồng thời người ta cũng không quên ghi nhận lại các thành tích đạt được
cũng như những phương pháp ngoạn mục mà Hội đã vận dụng để đi tới thành công mỹ
mãn. Nỗ lực trọng yếu của các Ngài và các Đấng kế tục là làm sao thực thi cho
phù hợp với những chỉ dẫn của Tòa Thánh, thể hiện vai trò Đại diện Tông tòa,
quan tâm đến việc đào tạo các Linh mục bản xứ.
Sau khi đến Ayuthia, từ tháng Giêng 1663 Ðc
Lambert lập một địa sở thường trực tại đây và đặt tên là Nhà Thánh Giuse, có thể
xem đây như là địa chỉ đầu tiên của Tòa Giám Mục Ðịa phận Ðàng Trong. Ngày
31-3-1668, vọng lễ Phục Sinh tại Ayuthia, Đức Cha Lambert de la Motte đã
tiến hành nghi thức tấn phong cho Linh mục người Việt đầu tiên là thầy Giuse Trang,
một người thuộc Đàng Trong quê ở An Chỉ, Quảng Ngãi, nay thuộc Giáo phận Qui
Nhơn, lúc ấy Thầy chỉ mới 29 tuổi. Biến cố này như đánh dấu cho một bước ngoặt
quan trọng hình thành Giáo hội Việt nam.[20]
Hơn 2 tháng sau, đến phiên hai thầy từ Đàng ngoài, là Gioan Huệ và
Bênêđictô Hiền, được thụ phong Linh mục vào ngày 8-6-1668; cũng trong năm ấy,
có thêm một người Đàng Trong được chịu chức là thầy Luca Bền. Thật đáng tiếc
vài năm sau đó, chính quyền Siam (nay là Thái Lan) bắt đầu bách hại những người
Kitô hữu và Chủng viện buộc phải dời sang nơi khác. Đầu tiên, được chuyển đến
Cam Bốt, rồi Ấn Độ và cuối cùng trụ về đến Penang thuộc Malaysia, và nơi đấy vẫn
còn duy trì sinh hoạt cho đến ngày nay. Thời gian sau đó, các nhà Thừa sai
Paris đã tiếp tục mở thêm những tiểu và đại chủng viện trong nhiều quốc gia
khác nhau. Năm 1850 họ điều hành 19 chủng viện, năm 1900: con số là 41, năm
1939 lên đến 75. Rồi dần dần các chủng viện này đều được giao lại cho các Giám
mục điều hành sở tại.[21]
Đồng thời với việc thi hành bổn phận đào tạo
các Linh mục được coi như là trọng tâm hoạt động chính yếu, thì ở lãnh vực khác
rộng lớn hơn, chính là lo thành lập các cộng đồng Tân Giáo hội địa phương. Từ
hình ảnh được ghi nhận vào tháng 10-1663, cộng đoàn người Công giáo coi như đầu
tiên sinh hoạt với các Thừa sai Paris đếm được khoảng 150 người, mà đa số là Việt
Nam và Nhật Bản.[22]
Thì cho đến ngày nay đã có hơn một trăm Giáo phận tại Châu Á do các
Nhà truyền giáo của Hội Thừa Sai Paris giữ vai trò thiết lập, truyền bá Tin Mừng
và khai sinh những cộng đồng Kitô hữu. Họ đã dạy giáo lý, mua đất đai, xây dựng
nhà thờ, mở các trường học, các chủng viện, bệnh viện và tất cả những cơ sở này
về sau, đều chuyển giao lại cho Giáo Hội địa phương.
Ngày nay song song với việc gửi người ra hải
ngoại, Hội còn lo điều hành một chương trình hoạt động Thừa sai tại chỗ, thường
xuyên có khoảng hơn 100 Linh mục, Tu sĩ đến từ các Xứ truyền giáo khi xưa, nay
đang được cứu mang trên nước Pháp để theo học các khóa tu nghiệp hoặc nâng cấp
trình độ Thần học. Rất nhiều Giám mục hiện tại và sẽ còn thêm không ít trong
tương lai, nhờ chương trình này mà được tiến chức, đồng thời cũng do sự cống hiến
đó, mà các Giám mục hội đủ mọi kỹ năng cần thiết để phục vụ đắc lực cho Giáo Hội
địa phương mình.
Cần phải có một
trường thiên bất tận về Lời cảm tạ mà tỏ bày dâng lên cùng Đấng Quan Phòng, và
hẳn nhiên, cũng hướng tấm lòng tri ân đến các vị Tiền nhân Đáng kính trong một
Hội Thừa Sai thật là huyền diệu./.
[1] x. Lm Nguyễn Hồng, Lịch
sử Truyền giáo ở Việt nam; Quyển I; chương VI: Cha Đắc lộ với những trang sử
máu đầu tiên.
[2] x. VPPK Tông đồ VN hải ngoại, Sơ lược tiểu sử Chân phước Anrê Phú Yên,
trang Web: vntaiwan.catholic.org.tw/andre/4andre.htm
(truy cập ngày 20.8.2021)
[4] x. Antôn Nguyễn Trường Thăng, Tìm hiểu lịch sử Công giáo tại Việt nam,
chương VI: Lý do Dòng Tên đến Đàng Trong; Phụ lục: Dấu ấn Công giáo Nhật Bản.
Trang Web: antontruongthang.wordpress.com/tim-hieu-lich-su-cong-giao-tai-viet-nam/
(truy cập ngày 20.8.2021)
[6] x. Gs. Trần văn Cảnh, Thừa Sai Hải Ngoại Paris / 350 năm xây dựng Giáo hội Việt nam; Bài
2, tại: http://ghhv.quetroi.net/63TVCANH/63TVCANHMEP03.htm
(truy cập ngày 20.8.2021)
[8] x. Antôn Nguyễn Trường Thăng; Tìm hiểu lịch sử Công giáo tại Việt nam,
chương II: Quyền Bảo trợ và thành lập Thánh bộ Truyền giáo.
[9] x. Gs. Trần văn Cảnh. Thừa Sai Hải Ngoại Paris / 350 năm xây dựng Giáo hội Việt nam; Bài
3, tại: http://ghhv.quetroi.net/63TVCANH/63TVCANHMEP04.htm
(truy cập ngày 20.8.2021)
[12] x. Gs. Trần văn Cảnh. Thừa Sai Hải
Ngoại Paris / 350 năm xây dựng Giáo hội Việt nam; Bài 3, tại: http://ghhv.quetroi.net/63TVCANH/63TVCANHMEP04.htm
(truy cập ngày 20.8.2021)
[13] Nếu cần hiểu thêm về ý từ gọi chuyên: Hiệu
Tòa, xin tham khảo ý giải thích ở: Lm. Nguyễn Hồng; Lịch sử Truyền giáo ở Việt nam quyển II, trang 31.
[14] x. Những mốc Lịch sử quan trọng của GH Công
giáo VN, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/nhung-moc-lich-su-quan-trong-cua-ghcgvn-31228
(truy cập ngày 20.8.2021)
[15] x. Gs Trần văn cảnh, đề mục: Sắc chỉ Super
Cathedram ngày 09.9.1659; trang Web: http://ghhv.quetroi.net/63TVCANH/63TVCANHLichSuTruyenGiaoVietNam01.htm
(truy cập ngày 20.8.2021)
[16] x. Tạp chí Hội Thừa sai bằng Pháp ngữ, Revue
des Missions Etrangerès de Paris, Asie et Océan Indien (hors série No1 mars
2009) trang 15.
[17] x. Gs. Trần văn Cảnh. Thừa
Sai Hải Ngoại Paris / 350 năm xây dựng Giáo hội Việt nam; Bài 4, tại: http://ghhv.quetroi.net/63TVCANH/63TVCANHMEP05.htm
(truy cập ngày 20.8.2021)
[19] x. Gs. Trần văn Cảnh. Thừa Sai Hải Ngoại Paris / 350 năm xây dựng Giáo hội Việt nam; Bài
6, tại: http://ghhv.quetroi.net/63TVCANH/63TVCANHMEP07.htm
(truy cập ngày 20.8.2021)
[22] Gs. Trần văn Cảnh. Thừa Sai Hải Ngoại Paris / 350 năm xây dựng Giáo hội Việt nam; Bài
5, tại: http://ghhv.quetroi.net/63TVCANH/63TVCANHMEP06.htm
(truy cập ngày 20.8.2021)