LỜI CHÚA TRONG KINH MÂN CÔI
Giê-ru-sa-lem
ngày 23 tháng 9 năm 2020
Linh mục Giu-se Nguyễn Công Đoan, S.J.
WHĐ (24.9.2020) –
Tháng 10, tháng Mân Côi lại về. Tôi muốn viết một chút về Kinh Mân Côi dưới góc
độ Lời Chúa trong Kinh Mân Côi.
Tôi sinh ra và lớn
lên trong một gia đình nông dân ở miền Bắc, công giáo “đạo gốc” [không phải
theo nghĩa của một số người trẻ ngày nay ở Sàigòn, ngồi trên xe gắn máy dưới “gốc
cây” ngoài sân nhà thờ để dự lễ…]. Ở quê tôi, trẻ bắt đầu tập nói thì đã học chắp
tay “ạ!” trước tượng Chúa, tượng Đức Mẹ, rồi học làm dấu Thánh Giá, học kinh
Kính Mừng… Tối nào gia đình cũng tụ họp trước bàn thờ lần chuỗi “năm chục”. Còn
bé thì làm dấu thánh giá rồi đi ngủ. Thước đo độ lớn là kinh Kính Mừng, một, rồi
ba, rồi một chục kinh chung với cả gia đình… tới tuổi lãnh phép Thêm Sức thì ngồi
đọc năm chục kinh chung với cả nhà.
Tôi 6, 7 tuổi thì
bà nội tôi mắt đã lòa, trời mưa thì bà ngồi ở nhà lần chuỗi đủ 15 ngắm, trời nắng
thì bà bảo dắt bà qua nhà một người bà con ở gần nhà, bị liệt hai chân, hai bà
lần chuỗi với nhau, như một niềm vui, niềm an ủi. Tôi ngồi với bà một chục
kinh, rồi bà cho tôi đi chơi. Bà lần chuỗi xong thì gọi dắt bà về. Nhà tôi ở
cách nhà thờ giáo xứ cũng khá xa. Ngày Chúa nhật đi lễ thì bọn trẻ rủ nhau vừa
vui đùa vừa đi lễ, người lớn thì vừa đi vừa lần chuỗi, khoảng năm chục kinh thì
tới nhà thờ. Tôi lớn lên dưới bầu trời ven sông Hồng, mỗi buổi tối, trên thì
sao lấp lánh gọi nhau, dưới là lời Kinh Mân Côi vọng từ nhà này qua nhà khác.
Nay tôi là ông
lão 80, từng sống 9 năm “hơn hẳn thầy tu
một dấu huyền”, chẳng được phép mang đồ đạo nào trên mình. Hết 6 tháng “làm
việc” đến những tháng nhàn rỗi: “Một mình
một cỗ thảnh thơi ngồi”, cơm bưng nước rót, một mình một cõi, chẳng có gì để
làm, chẳng có gì để đọc, chỉ có bốn bức tường để ngắm và thiên thần bổn mạng
làm bạn… thì mười đốt ngón tay là xâu chuỗi, ngày ngày đếm thời giờ bằng chuỗi
Mân Côi.
Hai chục năm sau
đó thì ngược lại, sáu năm trời được Bề Trên Dòng sai đi khắp năm châu bốn bể vì
nhiệm vụ trong Dòng, trước khi “định cư định canh” từ mười hai năm nay tại miền
đất mà Chúa đã chọn làm quê hương khi từ trời xuống thế, chờ ngày song ca với
ông già Si-mê-ôn.
Tại miền đất này,
Tổng Lãnh Thiên Thần Gáp-ri-en đã xướng phần đầu kinh Kính Mừng và lời xin vâng của
Trinh Nữ làng Na-da-rét mở ra Tin Mừng do các Tông Đồ rao giảng, nay được tóm tắt
trong 20 mầu nhiệm Kinh Mân Côi. Rồi
bà Y-sa-ve được đầy Thánh Thần, tiếp lời Thiên Sứ Gáp-ri-en cho trọn kinh Kính
Mừng, các thiên thần đồng ca lời “Sáng
Danh” và sau đó Con Thiên Chúa đích thân dạy kinh Lạy Cha. Tất cả nội dung Kinh Mân Côi xảy ra ở miền đất này.
Các nhà thờ chánh tòa lớn và cổ kính bên Tây thì dùng tượng đá, bên trong bên ngoài, không phải chỉ để trang trí, nhưng là “sách giáo lý” và Kinh Thánh cho mọi người. Bên Đông thì dùng nghệ thuật “tranh thánh”, tiếng Hy-lạp gọi là “i-kôn”, dùng nhiều biểu tượng và có thể gom nhiều chi tiết trên cùng một mặt phẳng để giúp người xem đi sâu vào từng mầu nhiệm. Người ta không nói là “vẽ i-kôn”, nhưng là “viết i-kôn”, vì mỗi “i-kôn” giống như cả một chương sách thần học kinh thánh, tín lý và thiêng liêng, giải nghĩa một mầu nhiệm. Người “viết i-kôn” xuất phát từ một kinh nghiệm chiêm niệm mầu nhiệm và “viết” ra để giúp cho người nhìn ngắm i-kôn đi vào cảm nghiệm thiêng liêng mà chính mình đã được trong chiêm niệm. Vì thế từ màu sắc tới các đường nét, cách bố cục đều có những “qui ước”, giống như viết văn vậy. Bức “i-kôn” nhiều người biết là bức của Rublev, diễn tả mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, gợi hứng từ câu chuyện “Ba Vị Khách tới viếng ông Áp-ra-ham” (St 18)
Có lẽ Kinh Mân
Côi khởi sự từ cách cầu nguyện bên phương Đông với những lời vắn tắt được lặp
đi lặp lại, dấu vết rõ nhất là câu “Kyrie
eleison”, “xin Chúa thương xót”,
và lời kinh Lạy Cha mà Chúa Giê-su dạy.
Chúa Giê-su căn dặn: “Hãy tỉnh thức và cầu
nguyện” (Mt 26, 41). Thánh
Phao-lô nhắc nhở các tín hữu “cầu nguyện
không ngừng” (1Tx 5,17). Sau này
trong các tu viện, các tu sĩ cầu nguyện theo sát lời chỉ dẫn của thánh Phao-lô:
với các thánh vịnh (của Cựu Ước), thánh ca được Thánh Thần linh hứng mà chúng
ta còn gặp thấy trong Tin Mừng theo thánh Lu-ca
và các thư của thánh Phao-lô:
Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh,
thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát
chúc tụng Chúa. 20Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân
danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha. (Ep 5,19-20;
x. Cl 3,16-17).
Rồi đến thời phần
đông giáo dân và cả những tu sĩ không biết đọc, họ đọc 150 lần kinh Lạy Cha thay cho 150 thánh vịnh. Dần dần
lời Thiên Sứ truyền tin cho Đức Ma-ri-a và lời bà chào của bà Y-sa-ve được
dùng, sau này thêm phần thứ hai của kinh Kính Mừng… Cứ như thế mà Kinh Mân Côi
thành hình như chúng ta đọc ngày nay vào thế kỷ 15.
Hai mươi mầu nhiệm
trong Kinh Mân Côi giống như tựa đề của hai mươi bức “tranh thánh” diễn tả từng mầu nhiệm trong các sách Tin Mừng và tín
lý của Hội Thánh, xướng lên để chúng ta tự hình dung theo Tin Mừng, chiêm ngắm
trong khi nhẩm đi nhẩm lại những lời kinh rút ra từ sách Tin Mừng và phụng vụ,
cũng là những lời gợi lên khởi đầu (Sứ Thần truyền tin) và kết quả của ơn cứu độ
trong Đức Giê-su, là chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, và được trực tiếp
thân thưa với Cha chúng ta ở trên trời, ngợi khen và giãi bày những tâm tình và
những nhu cầu của chúng ta trong đời sống làm người và làm con Thiên Chúa, được
hiệp với thần thánh trên trời và Hội Thánh trên trần gian tung hô Ba Ngôi Thiên
Chúa là nguồn ơn cứu độ (kinh Sáng Danh), cầu xin với Đức Ma-ri-a, Đấng vừa là
Mẹ của Đấng Cứu Chuộc vừa là Mẹ chúng ta, những kẻ được hưởng ơn cứu chuộc.
Trẻ thơ nào cũng
cần nghe và cảm nghiệm những lời, những cử chỉ âu yếm. Có gì ngọt ngào âu yếm
cho trẻ thơ hơn là hai tiếng “Ba”, “Má”. Vui, buồn, khổ, đau, hay sung sướng thì “Ba”, “Má”, cũng là lời diễn tả đầu
tiên ở sẵn ngay đầu môi. Có bàn tay nào êm ái bằng bàn tay của mẹ; bàn tay nào
chở che mạnh mẽ hơn bàn tay của cha… Kinh Mân Côi cho chúng lặp đi lặp lại tiếng
kêu “Cha”, và “Mẹ”…
Những lời kinh và
các mầu nhiệm trong Kinh Mân Côi giúp chúng ta cảm nghiệm Tình Thương của Thiên
Chúa là Cha. Chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, thân thưa với Cha. Nhớ đến,
ôn lại những gì Cha đã làm cho chúng ta trong mầu nhiệm cứu độ, như thánh
Gio-an diễn tả:
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con
Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn
đời. 17Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian,
không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người, mà
được cứu độ. (Ga 3,16-17).
Và Thánh Phao-lô
cảm nghiệm: “Người đã yêu thương tôi và
hiến mình vì tôi” (Gl 2,20).
Tình Thương ấy là
nguồn sức mạnh và cậy trông của chúng ta trong mọi hoàn cảnh:
Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu
của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt
bớ, gươm giáo? 36Như có lời chép: chính vì Ngài mà mỗi
ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh. 37Nhưng
trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. 38Đúng
thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương
quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, 39trời
cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được
chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su,
Chúa chúng ta.
Và khi chúng ta cảm
nghiệm được hạnh phúc ấy thì chúng ta cũng được thôi thúc yêu mến đồng loại và
có gương mẫu để biết yêu mến như Chúa Giê-su dạy:
Thầy ban cho anh em một điều răn mới là
anh em hãy yêu thương nhau ; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương
anh em. 35Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm
này: là anh em có lòng yêu thương nhau. (Ga 13,34-35)
Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy
cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. 10Nếu
anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của
Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương
của Người. 11Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được
hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.
12Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy
yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. 13Không có tình
thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của
mình. (Ga 15, 9-13)
Chúng ta được gọi
Thân Mẫu của Chúa, Nữ Vương Thiên Đàng là Mẹ của mình, được cảm nghiệm Tình
Thương của Mẹ suốt từ khi Mẹ nhận sứ mạng làm Mẹ Đấng Cứu Chuộc cho đến khi Mẹ
đứng gần thập giá như Người Đàn Bà Mới, nghe Chúa Giê-su từ trên thập giá trao
chúng ta – qua đại diện là người môn đệ Chúa yêu mến - cho Thân Mẫu của Người,
để chúng ta thành con của Bà, và Bà làm Mẹ của chúng ta, “Mẹ của kẻ sống”, thay cho người Đàn Bà đầu tiên đã đem cái chết vào
trước khi thành mẹ của chúng ta. Rồi để kết thúc, chúng ta chiêm ngắm cuộc khải
hoàn của Mẹ, Mẹ được tham dự hoàn toàn vào cuộc khải hoàn của Đấng Cứu Chuộc do
Mẹ sinh ra.
Mẹ trở thành nguồn
cậy trông, bảo chứng cho chúng ta về quyền năng cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta
được tin tưởng thân thưa với Mẹ mọi nhu cầu của chúng ta “khi nay và trong giờ lâm tử”.
Kinh Mân Côi đưa
chúng ta vào trong đại dương của Tình Yêu Thiên Chúa qua các mầu nhiệm chúng ta
chiêm ngắm và lời kinh chúng ta lặp đi lặp lại. Kinh Mân Côi là nguồn an ủi,
nguồn sức mạnh trong mọi hoàn cảnh của đời người tín hữu.
Tôi xin kết thúc
bằng kinh nghiệm của “người tù xuyên thế kỷ” 38 năm, với hai năm ngồi trong
khám tử hình bị vợ bỏ, con trai con gái còn nhỏ, lớn lên thì nghèo nên chẳng ai
có điều kiện đi thăm cha.
Là sĩ quan đi cải
tạo, bị bắt lại một lần, với tội danh tuyên truyền phản cách mạng, bị bắt lại lần
nữa và lãnh án tử hình. Hai lần trước anh đã được bạn tù người công giáo dạy
giáo lý, thuộc Kinh Mân Côi và ngắm Đàng Thánh Giá, nhưng chưa chịu phép rửa. Trong
khám tử hình, hai chân cột vào một dây xích sắt dài. Anh nảy ra sáng kiến tự chế
xâu chuỗi để đọc Kinh Mân Côi: đếm mười mắt xích, xé áo lấy vải đánh dấu, làm
chuỗi Mân Côi. Ngày ngày lần chuỗi năm vòng 15 mầu nhiệm, rồi “ngồi Đàng Thánh
Giá” ba vòng nữa. Ngày nào anh cũng chờ trong hy vọng, không phải hy vọng được
tha, nhưng “nếu hôm nay người ta tháo xiềng đem ra bắn thì con sẽ được ở với
Chúa trên thiên đàng”. Hai năm sau, một ngày người ta mở cửa, tháo “xâu chuỗi”,
nhưng chưa cho anh lên thiên đàng với Chúa, chỉ đưa anh qua phòng án chung
thân. Ít lâu sau, anh được đưa lên trại lao động. Ở đây anh đã gặp cha Đaminh
Ngô Quang Tuyên và tôi, Cha Tuyên chuẩn bị và tôi làm phép rửa cho anh trong âm
thầm. Nhiều người đã nghe biết tên anh, vì ngày đầu tiên đi lễ, gặp lễ cầu cho
hòa bình và công lý, anh được mời lên chia sẻ. Lời đầu tiên của anh: “Tôi tha thứ tất cả, cho mọi người đã làm tôi
đau khổ 38 năm qua”. Anh xóa từ hận thù, oán hận trong các bài thơ, bài hát
anh đã viết hồi trước.
Khi anh được ra về thì tuổi đã cao, mắt đã gần lòa, sức khỏe suy yếu, con trai anh đã 45 tuổi, vẫn nghèo. Nhưng anh vẫn giữ được sự lạc quan và óc hài hước. Chuỗi Mân Côi và đàng thánh giá đã giữ tâm hồn anh bình an, lạc quan, vui vẻ sau ba mươi tám năm tù…