KHÍA CẠNH TÂM LÝ VÀ THỰC TẾ TRONG VIỆC NHẬN ĐỊNH ƠN GỌI
ĐỘC THÂN THÁNH HIẾN
Nữ tu Thecla Trần thị Giồng, Dòng Đức Bà
WHĐ (16.1.2021) -
“Tinh thần thì mạnh mẽ, nhưng xác thịt
thì yếu đuối” (Mt 14, 38). Cuộc đời muôn mặt. Đời tu cũng thế, thậm chí còn
phức tạp hơn vì dù sống chiều kích siêu nhiên, người tu sĩ vẫn mang phận người
với những mỏng dòn, yếu đuối, lầm lỡ. Hơn bao giờ hết, việc phân định ơn gọi trở
nên khó khăn hơn. Xin để dành công việc này cho các vị chuyên môn. Trong giới hạn
của mình, bản thân mạo muội chia sẻ đôi điều dựa trên những kinh nghiệm thực tế
qua hơn 20 năm dạy học, gặp gỡ, đối thoại, đồng hành nhất là tư vấn và chữa trị
cho một số anh chị em linh mục, nam nữ tu sĩ.
“Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”! Thường ai cũng muốn nghe những gì dễ nghe. Có thể trong phần chia sẻ
dưới đây, có một số điều đã rất quen thuộc nhưng cũng có những điều xem ra khó
nghe với quý tu sĩ. Sự thật thường nghịch nhĩ nên bản thân thấy khá ngại ngùng.
Tuy vậy, với thiện chí muốn góp phần nhỏ bé vào phẩm chất của đời tu nên xin
nói thật lòng và mong sự cảm thông của độc giả.
Chất lượng của đầu vào
Công việc phân định
ơn gọi không chỉ dừng lại khi nhận ứng sinh vào dòng nhưng vẫn còn tiếp diễn
trong những giai đoạn huấn luyện khởi đầu. Việc phân định là câu chuyện dài gồm
nhiều yếu tố. Ở đây xin phép được chạm đến một chút “phần người” liên quan đến
những ứng sinh tìm đến đời tu. Họ như những hạt mầm, những cây con mong thích ứng
và phát triển trong môi trường đời tu. Nuôi dưỡng và làm cho lớn lên là phần việc
quan trọng của các vị phụ trách các giai đoạn huấn luyện khởi đầu.
Người nông dân
có câu: “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ
giống”. Thật ra yếu tố nào cũng cần cả. Tuy nhiên có lẽ “giống”
tốt vẫn là cơ bản. Nếu hội đủ ba điều kiện đầu mà giống không tốt thì khó có thể
có một vụ mùa bội thu được. Cũng vậy, trong đời tu, có người ví các nhà đào tạo
như người nông dân. Điều đầu tiên các nhà đào tạo cần làm là tìm hiểu CON NGƯỜI
của ứng sinh trên nhiều góc độ: động lực,
gia cảnh, gốc gác, môi trường, quá khứ... nơi họ xuất thân.
Phẩm hay lượng?
Trong bài viết
“Đừng vội vui mừng vì có nhiều ơn gọi”, Linh mục Nguyễn Hồng Giáo đã nhắc nhở
chúng ta về phẩm chất đời tu. Tuy bài viết không mới nhưng ý nghĩa của nó vẫn
còn mang tính thời sự. Chúng ta có nhiều lý do để vui mừng vì số ơn gọi của Việt
nam thật đã gây phấn khích và hãnh diện so với các nước Âu châu.
Dẫu biết rằng yếu
tố ơn Chúa và con người thường song hành và Thiên Chúa có thể dùng mọi hoàn cảnh
để làm công việc của Người. Tuy nhiên, nhìn kỹ vào thực tế, có không ít điều phải
băn khoăn suy nghĩ. Sự bùng nổ ơn gọi tu trì ở Việt Nam sau thời gian mở cửa đã
kéo dài khá lâu. Mọi sự đều có hai mặt, khi số lượng tăng thì nguy cơ phẩm chất
sẽ giảm. Hiện nay, ngay cả một số dòng lâu năm cũng đã và đang đối diện không
ít vấn đề “phẩm chất”, hệ quả của việc phân định và đào tạo.
ĐẤU VÀO và HUẤN
LUYỆN, hai yếu tố cơ bản không thể lơ là. Vì thế, rất cần có một sự nhận định cẩn
thận, sự “biện phân” (discernment) sáng suốt, một nền huấn luyện thật kỹ và thật
tốt vì tương lai của các dòng tùy thuộc
rất nhiều vào chất lượng của việc huấn luyện cũng như phẩm chất của đầu vào.
Coi nhẹ khâu tuyển chọn và đào tạo thì tương lai khó tránh khỏi khó khăn.
Sau đây là một số điều nổi cộm:
1. Yếu tố môi trường xã hội, văn
hóa
“Em lớn lên
trong thời cách mạng”. Chúng ta không thể phớt
lờ những ảnh hưởng của môi trường. Quan điểm, hành vi của một người hình thành
dần qua nền giáo dục, môi trường sống. Những gì đã được nghe, được thấy và những
kinh nghiệm tuổi thơ thường để dấu ấn rất đậm nét và lâu dài trên đời sống của
một người. Cụ thể là có một số “hiện tượng” của tu sĩ hiện nay như: thiếu ý thức về trách nhiệm, về ứng xử, về
công bằng, về sự thật... Họ nhập dòng khi đã lớn trong khi thời gian được
chính thức huấn luyện trong dòng không đủ xóa đi những tác động tiêu cực của
quá khứ và môi trường xã hội lắm vấn đề như hiện nay.
Thời “mở cửa”,
có bao nhiêu điều hay đẹp tràn vào, nhưng đồng thời cũng mang theo nhiều “bụi”. Ở đây xin đưa ra một số tác động
tiêu cực của môi trường trên ứng sinh sống đời tu thôi. Đừng quên là dù người
Miền Nam hay Miền Bắc chúng ta đã sống rất lâu trong chế độ XHCN hay Cộng sản
và ta khó tránh khỏi ảnh hưởng về nhiều mặt. Sau đây là một số nét tiêu biểu.
- Đức tin, tu đức và tu thân không được xem trọng vì xã hội thiên về
thực dụng, vật chất, tục hóa và vô thần. Sống trong đó, ứng sinh bị cám dỗ tìm
tiện nghi, thoải mái và nghiêng chiều theo xu hướng tự nhiên là sự dễ dãi và
ham hưởng thụ.
- Giáo dục ít nhấn mạnh đến khía cạnh đạo đức, nhân văn, đời sống
tinh thần hay giá trị bản thân mà chú ý đến “bạn, thù” và củng cố phe nhóm, quyền
lực. Nền giáo dục xã hội cũng như gia đình chưa trang bị cho người trẻ khả năng
ứng phó nên người trẻ lạm dụng sự “tự do” một cách vô tổ chức.
- Xã hội đề cao cái mới mẻ, đẩy người ta tiến tới, phát triển và lên
cao mà không chủ trương xây đắp chiều sâu nên người trẻ có nguy cơ sống
lệch lạc, hời hợt, nông cạn... dễ gãy đổ.
- Lòng nhân, sự tử tế, khả năng nhạy cảm trước nỗi đau của người
khác, cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên càng ngày càng thiếu nên chúng ta dần mất
đi cảm thức về tình người và ích chung. Nhiều người lấy cái “TÔI” làm tâm điểm,
đặt quyền lợi và giá trị riêng lên trên tinh thần cộng đồng.
- Thiếu tôn tri trật tự - cá đối bằng đầu, cá mè một lứa, ý thức về
kỷ luật kém nên thiếu tinh thần tự chủ, thiếu đức hy sinh, ít khổ chế và khả
năng chịu đựng kém.
2. Môi trường gia đình
Có thể nói, hơn
90% các ứng sinh của chúng ta xuất thân từ các vùng nông thôn. Sau 1975, số
đông các bậc cha mẹ bước vào đời sống hôn nhân một cách khá đơn giản mà thiếu sự
chuẩn bị kỹ lưỡng phần đạo, phần đời. Đa số phụ huynh của ứng sinh khó khăn vất
vả vì mưu sinh. Hầu hết thì giờ và sức lực của họ bị cuốn hút vào cuộc sống cơm
áo gạo tiền nên không có đủ giờ và cơ hội gần gũi, theo dõi, hay nhắc nhở con
đúng lúc, đúng việc. Giáo dục gia đình còn nhiều lỗ hổng, tạo nên một số hệ lụy
trên nhân cách con cái. Sau đây là vài nét tiêu biểu:
- Thiếu gần gũi con: “Trời
sinh voi, trời sinh cỏ” nên con cái lớn lên tự khắc sẽ biết mọi sự.
Quan điểm này khá phổ biến trong tầng lớp bình dân. Chúng ta không thể phủ nhận
nhiều con trẻ cứ thế lớn lên “nhờ trời”. Vì bận rộn nhiều người chỉ lo cho con
ăn, học; mọi sự phó mặc cho trường, cho thầy dù nền giáo dục của Việt Nam còn rất
nhiều bất cập. Nhiều gia đình Công giáo sốt sắng vẫn thường nhắc nhở con em đi
lễ, đọc kinh, học giáo lý, nhưng ít khi đồng hành cùng con trong đời sống đức
tin.
- Ít nhận được sự quan tâm:
Các phụ huynh, nhất là các vị từ vùng nông thôn không có thói quen diễn tả tình
cảm với con, Không mấy khi chú ý đến nhu cầu tình cảm của trẻ. Những cử chỉ nồng
ấm, lời nói động viên và ngọt ngào thật hiếm hoi trong các gia đình Việt nam. Một
nữ tu truyền giáo người Hà Lan rất giỏi tiếng Việt và rất gần gũi giới bình dân
đã nhận định: “Người mẹ Việt nam hy sinh
cho con quá sức, nhưng lời nói và hành động thì khá cứng cỏi”. Sau nhiều
năm làm việc và quan sát tôi thấy những lời ấy khá xác thực. Theo một nghiên cứu
với tựa đề “Ai là người dễ sa ngã vào con đường tình dục?” mà tôi đã được
đọc (xin lỗi đã quên ghi lại nguồn), “vấn
đề sa ngã xảy ra không hệ tại ở giàu hay nghèo, học thức hay không, thành thị
hay nông thôn nhưng là do có những
con người trong quá trình lớn lên không được nhận những cử chỉ nồng ấm, âu yếm
và không được nghe những lời ngọt ngào của cha mẹ hoặc người thân” Có
nghĩa là nhu cầu được quan tâm và yêu thương không được đáp ứng đúng mực sẽ khiến
người ta dễ sa đà trong các mối quan hệ tình dục ngoài luồng. Sau một thời gian
làm việc với nhiều giới và suy nghĩ sâu xa, bản thân thấy điều này khá có lý.
Cơn đói của các ngũ quan chưa thỏa mãn sẽ đưa đến sự thèm khát trong vô thức và
vì thế có nguy cơ mất đề cao cảnh giác. Nhân gian đã chẳng nói về sự “bị dụ dỗ bởi những lời đường mật” đó
sao?
- Việc la mắng đánh đập trẻ, nhất là của các ông bố đối với con
trai: Dù không thể hiện rõ nét nhưng một số ứng sinh đã bị tổn thương thể chất
lẫn tinh thần từ trong gia đình. Nếu không được quan tâm thỏa đáng, phẩm chất của
đời tu sẽ bị ảnh hưởng không ít, đặc biệt về mặt cảm xúc, tự tin và tương
quan.
3. Mặc cảm
Thực tế dường
như không ít giới tu sĩ trẻ thường bị mặc cảm tự ti. Đâu là nguyên nhân? Có lẽ
do hoàn cảnh gia đình vất vả thiếu thốn. Khi còn ở với gia đình điều này không
rõ nét nhưng khi lên phố và sống chung trong một tập thể, họ có sự so sánh hơn
thua.
Thật ra mặc cảm
dù tự tôn hay tự ti đều là cản trở lớn
trong cuộc sống cá nhân và cộng đồng. Đặc biệt người tự ti thường khép kín,
nhút nhát, dễ chạnh lòng và hay “thu gom” những rác rến vào mình bởi những cái
nhìn tiêu cực về bản thân và cuộc đời. Nhiều khi họ che dấu yếu kém bằng cách
“nổ” hoặc bù trừ bằng lối sống đòi hỏi hoặc khá “thoải mái”. Mặc cảm sẽ ngăn chặn sự phát triển thực sự,
dẫn đưa đến những lệch lạc trong tương quan, tạo nên sự mất quân bình và bất hạnh
trong đời tu.
4. Tuổi thơ bị tổn thương
Trong quá trình
nhận định ơn gọi của các giai đoạn huấn luyện ban đầu chúng ta cần biết về tuổi
thơ của ứng sinh để giúp đỡ kịp thời. Một số bạn trẻ lớn lên đã từng bị tổn
thương thế chất và tinh thần cách này hay cách khác.
- Thể chất: làm việc quá
nặng nhọc, bị đánh, phạt nặng, bị xâm hại tình dục, chơi trò người lớn và ngay
cả chứng kiến những cảnh “người lớn”của bố mẹ. (nhà cửa chật chội, bố mẹ không cẩn trọng). Đây là những bóng đen cuộc
đời, nếu không được giúp đỡ đúng mực thì những người tu sĩ này phải chịu rất
nhiều áp lực tinh thần và thể chất lâu dài trong đời tu.
- Tinh thần: bầu khí gia
đình căng thẳng. Nếu gia đình thường xuyên bất hòa; bạo lực do bố say xỉn, ứng
xử kiểu gia trưởng; trẻ thường bị la mắng, nghe những lời chê bai, hạ giá, dọa
nạt hay bị phạt nặng, hoặc bị oan; bố mẹ quá bận rộn nên không có giờ gần gũi
con, lớn lên trong sự hững hờ, thiếu quan tâm; những mất mát lớn trong đời như
mất cha, mẹ, bà... những người quan trọng. Hệ quả là trẻ dễ trở nên nhút nhát,
tự ti, xa cách, khép kín với người khác hoặc trở nên chai lì, bất mãn và chống
đối ngầm kể cả với những người có quyền sau này.
Theo kinh nghiệm
làm việc với tu sĩ nam, nữ, linh mục, bản thân thấy rằng kể cả những vị có học
thức cao hay rất thành đạt về sau cũng còn những vết thương hoặc “vết sẹo” khó
lành của đầu đời dưới mái gia đình. Một số trục trặc trong đời tu nếu xét kỹ hầu
hết đều là di chứng của những kinh nghiệm tuổi thơ.
Ngoài những gì vừa
nêu trên, còn một số dấu ấn khó phai đeo bám cuộc đời của một người, đặc biệt
tu sĩ, vì đời tu dễ căng thẳng và có nhiều luật phải giữ. Khi chúng ta bận rộn
hay khỏe mạnh, bình an thì những dấu ấn ấy tạm ngủ yên, nhưng nó vẫn còn đó và
chờ dịp chỗi dậy. Nếu không có đời sống siêu nhiên hay nội lực hoặc sự giúp đỡ
thì không biết những ngày tháng đời tu sẽ ra sao. Chắc chắn mức độ ảnh hưởng rất
đa dạng tùy tính nết, tình trạng sức khỏe tinh thần và thể chất, tùy mức độ khó
khăn phải đối diện và tùy sự quan tâm nâng đỡ của người thân và những người
chung quanh. Dưới đây là những trường hợp tôi đã gặp trong quá trình làm việc với
tu sĩ, những người chưa vượt qua được những tổn thương của tuổi thơ.
- Bị chọc quê, bị dán nhãn hiệu vì cách ăn mặc, kiểu tóc hay mập, ốm, nói lắp, ghẻ lở, đen ...
- Bị ăn hiếp và bị cho ra rìa là trường hợp thường xảy ra ở trường
học. Có những điều người lớn chỉ cười, xem là chuyện trẻ con nhưng với trẻ đây
là những tổn thương có khi âm hưởng rất lâu dài trên cuộc đời về sau.
- Bị cho giả làm con trai hay con gái: Vì gia đình thiếu con
trai hay con gái và cha mẹ có thể chọn một em cho đóng vai giới tính mà họ mong
chờ, hoặc vì muốn làm vừa lòng ông bà. Bản thân đương sự thấy khổ nhưng không
làm gì được. Hệ quả là có sự băn khoăn, lúng túng hoặc lẫn lộn về giới tính của
mình. Khi ý thức họ thường bất mãn hay giận hờn bố mẹ...
- Bị phân biệt đối xử ngay
trong gia đình: Khi trong gia đình cha mẹ có thái độ trọng nam và coi thường
nữ hay ngược lại. Có khi có sự phân biệt đối xử rõ rệt giữa hai anh/ chị em kề
nhau hay giữa đứa lớn và nhỏ tạo nên những sự buồn tủi hay bất mãn. Những nỗi
buồn này thường giữ kín, nhưng lòng ấm ức và sự xa cách chống đối ngầm là điều
khó tránh.
Khi phân định
hay đào tạo xin chú ý đến tuổi thơ và khung cảnh lớn lên của ứng
sinh.
Tại sao họ lại
như thế? Tại sao họ làm cái họ đang làm?
- Tìm để hiểu, để cảm thông
và để giúp đỡ cụ thể, kịp thời. “Lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương”
5. Động lực
Trước khi nhận một
người vào dòng, chúng ta thường tìm hiểu những động lực khiến người ấy chọn đời
tu. Điều này quan trọng nhưng quan trọng hơn là giúp tu sĩ hiểu ý nghĩa đời tu
và điều chỉnh trước khi dấn thân sâu hơn.
Chúng ta phải thừa
nhận rằng một số gia đình Công giáo còn sống đạo sốt sắng. Dù nhiều thế hệ trước
không được học, được hiểu đạo như chúng ta bây giờ nhưng đức tin của họ rất
chân thành, đơn sơ, và vững chắc. Thế hệ con cháu của chúng ta còn thừa hưởng
được hoa trái của lòng tin đơn thành nhưng không kém phần sâu sắc ấy. Nhiều tu
sĩ chọn đi tu vì phụ huynh của họ quý trọng, khao khát, khuyến khích con vào đời
dâng hiến.
Ngoài động lực
siêu nhiên, một số ứng sinh không thích lập gia đình vì cảnh sống trong môi trường
lớn lên không có gì hấp dẫn thu hút, đôi khi còn ngược lại. Một số sợ hoặc tìm
tránh né trách nhiệm hoặc ngại đối diện với thực tế không dễ dàng trong cuộc đời.
Có em do kinh nghiệm chứng kiến đau thương trong gia đình mình nên quyết tâm
không chọn sống đời gia đình.
Một số khác thấy
đời tu có khi là một con đường thăng tiến, thoát nghèo, đỡ vất vả. Nhiều gia
đình nông thôn đốc thúc con cháu “tu cho
sướng…”, cho “hạnh phúc vì được ở
trong nhà Chúa”. Đời tu an toàn, nhẹ nhàng, thanh thoát hoặc hình ảnh uy
quyền, đời sống đầy đủ của các linh mục, tu sĩ lôi cuốn họ.
Ngoại lệ, có em
nghe theo sự rủ rê của bạn bè hay sự tiếp thị hấp dẫn của một số dòng tu, trong
đó có những trường hợp người nhập tu được hứa hẹn trước sẽ được học cao, hay được
gởi đi ngoại quốc. Chúng ta cũng không loại trừ nguy cơ là những người xin nhập
tu này đi tìm thăng tiến bản thân trước, rồi nếu được thì cũng tìm Chúa luôn thể
chăng
6. Yếu tố “lớn tuổi”, trải đời
Không khó để thấy
rằng việc huấn luyện hiện nay khó khăn phức tạp hơn trước nhiều. Các ứng
viên ngày nay thường lớn tuổi hơn, vì số đông các dòng không còn “đệ tử
viện” hay “tiểu chủng viện” nữa. Đây cũng là yếu tố thuận lợi, tuy nhiên có thể
có những lỗ hổng về nhân cách gây cản trở cho đời tu.
Khi đến với đời
tu, những ứng sinh lớn tuổi đã phần nào định hình về nhân cách rồi, đã tiêm nhiễm
nhiều “giá trị” văn hóa của một đất nước theo “Cộng sản chủ nghĩa”. Có người đã
học hành xong, xa gia đình, quen sống tự lập. Có người đã đi làm việc một thời
gian, Cuộc sống sinh viên và công nhân viên tiếp xúc với bầu khí thiếu lành mạnh
của xã hội này làm cho người ta khó tránh khỏi những cám dỗ của tiền bạc, tình
cảm và ngay cả kinh nghiệm về tình dục. Vì thế, để thích nghi với cuộc sống và
những đòi hỏi của đời tu không phải dễ. Một số nhà chuyên môn cho rằng những ai
đã từng có những kinh nghiệm về tình dục thường rất khó vượt qua những cơn cám
dỗ về sau, nhất là với khung cảnh mở của các phương tiện truyền thông và sự tự
do, vật chất dễ dãi...
7. Yếu tố “ngoan hiền”
Nhiều nơi, khi
chọn lọc ứng viên các vị có trách nhiệm hoặc phụ trách huấn luyện dường như có
xu hướng thích chọn những người “ngoan hiền” và không thích những em có bản
lĩnh hay “ngựa chứng”, khó kham, khó dạy. Họ tìm những em luôn dạ dạ, vâng vâng
và không bao giờ dám góp ý dù cũng có ý kiến vì sợ sai, sợ mất lòng; những người
mà bề trên hay ai đó “xướng” cũng được,
tôi sẽ “tùy” ngay. Chúng ta cần tìm
hiểu thêm một chút về các người ngoan hiền.
- Có những người hiền “tự chọn” nghĩa là hiền do tự chủ, do dùng ý
chí nghị lực để thắng mình, do muốn từ bỏ những sân si vì Đức Kitô và vì anh em
như Thánh Phaolô đã chủ trương: “Vì Đức
Kitô tôi đành chịu thua thiệt... và coi mọi sự như rác rến.so với cái lợi tuyệt
vời là được biết Đức Kitô...” (Pl 3, 7-9). Với cái Hiền tự nguyện, tôi có
thể nhưng không làm, không nói... vì tôi tự nguyện bỏ qua. Cái hiền của nhường,
của nhịn vì những giá trị cao hơn. Đây là cái hiền mà Đức Kitô đã dạy “hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng
trong lòng” (Mt 12, 29).
- Có người hiền theo bản tính tự nhiên, họ chủ trương “dĩ hòa vi quý”, thích sống êm ả, không
muốn có sự bất hòa, tranh chấp.
- Có người hiền vì thiếu bản lĩnh không có khả năng đương đầu với
khó khăn hay người khác, những người này thường “không dám” đối diện trực tiếp, nhưng lại hay nói sau lưng, khó kiểm
chứng, dễ tạo nên những sự hiểu lầm, hoặc vì sợ nên hay đổ lỗi cho người khác,
hoặc chối không dám mang trách nhiệm hay thừa nhận một số sai sót, đi vòng vo,
có khi nịnh bợ, tìm ô dù...
- Có người hiền vì chậm hiểu (hơi khờ) nên thường không có phản ứng
ngay, không biết cách đương đầu khi gặp vấn đề. Đây là một điều có lợi vì họ ít
có xung đột, tranh cãi hay tránh được bất hòa trong cộng đồng, nhưng đến khi hiểu
ra, họ lại tự trách mình và ngầm trách người., những người này có thể sống
trong ấm ức, căng thẳng, bất mãn và ức chế.
Xin được kể một
chuyện có thật - một hôm tôi nghe một người thân tính chuyện tương lai cho con
họ rằng: “Thằng B… nó hiền, nên cho nó đi
tu. Nó hiền, tu được đó…”. Tôi giật mình, buột miệng góp ý ngay: “Con ơi, tu phải có bản lĩnh mới đứng vững.”
Tôi cũng ngạc nhiên với chính mình sao lại phản ứng nhanh thế, vì tôi biết thằng
bé hơi khờ và yếu thần kinh, và có lẽ sau gần 50 năm trong đời tu và với kinh
nghiệm trong nghề nghiệp cũng như trách vụ tôi đã có cái nhìn méo mó chăng?
Thực ra, “ngựa chứng là ngựa hay” nếu biết “thuần
phục” chúng. Việc này mất nhiều công sức, nhất là với các vị phụ trách huấn luyện
còn “non” về nhiều phương diện tuổi đời,
tuổi tu, cũng như kiến thức và kinh nghiệm làm việc với giới trẻ (ví dụ có chị giáo vừa mới khấn xong, trình độ
cao đẳng mầm non, trong lúc các ứng sinh thì trình độ cử nhân, thạc sĩ và ngay
cả cao hơn). Đó là chỉ dám nói “non”
trên phương diện con người chứ chưa kể đến “non”
về nhân đức, chiều sâu là những điều chỉ có Thiên Chúa mới biết được.
8. Những dấu hiệu lệch lạc
- Phán đoán lệch lạc
Lệch lạc trong
phán đoán là nhìn mọi sự không đúng như sự thật khách quan. Đây là yếu tố tối
ưu quan trọng vì hành vi và cảm xúc của chúng ta được điều khiển bởi tư duy. Có
thể nói trí phán đoán như bánh lái. Con người có trí khôn để nhận định và phán
đoán hầu có thể ứng xử đúng mục, suy tư đúng hướng. Nếu phần này lệch thì không
biết cuộc đời sẽ xuôi về hướng nào. Người bảo thủ, tư duy kém thường có thể lệch
lạc trong những phán đoán, họ nhìn vấn đề một cách chủ quan, phiến diện và thường
cố chấp.
- Ám ảnh và mặc cảm tội lỗi
Một số ứng sinh
mang mặc cảm tội lỗi. Có lẽ vì do sự giáo dục quá khắt khe hay bị răn đe doạ nạt
thường xuyên, và luôn tự cho mình đã làm một điều gì đó sai trái, đi ngược lại
đạo lý, luật đời nên nhiều ứng sinh mang nặng trong mình mặc cảm mình là kẻ có
tội, là kẻ xấu xa, đáng nguyền rủa.
Đây chính là
tình trạng tâm lý báo động cần được chữa trị ngay và làm một cách nghiêm túc, nếu
không, nó sẽ trở thành nguyên nhân dẫn đến bệnh trầm cảm, mất tự tin, suy sụp,
luôn cho mình sai phạm nặng nề trong các hành động và rồi nhìn ngoại cảnh qua một
lăng kính đen tối và tiêu cực. Người ta gọi tình trạng tâm lý này là mặc cảm tội
lỗi bệnh hoạn.
Cảm giác tội lỗi
bệnh hoạn thường nhấn sâu các bệnh nhân vào một ảo tưởng nguy hiểm đó là luôn
cho mình đã sa phạm các trọng tội đáng phải án phạt trầm luân; mất niềm hy vọng
tìm được sự thông cảm và tha thứ của Thiên Chúa cũng như của đồng loại mặc dầu
trên thực tế những sai sót của họ chỉ là những điều lầm lỗi nhỏ nhặt mà đa số
chúng ta khó ai tránh khỏi.
- Những người “có vấn đề”
Mục này muốn nói
đến một số ứng sinh đã có những dấu hiệu lệch lạc hay dấu vết tâm thần. Ở đây
chưa có thể gọi là “bệnh” nhưng đã có dấu hiệu rối loạn. Có khi đương sự không
biết nhưng cũng có những trường hợp bản thân và cha mẹ họ biết nhưng dấu. Trong
thời gian đầu họ có thể cố gắng che đậy, hoặc vượt qua, nhưng đời đâu luôn bằng
phẳng, những khi khó khăn, những sự bất thường sẽ làm bộc phát hoặc tái phát. Ở
một số nước, thường có những bài trắc nghiệm tâm lý hỗ trợ cho việc phân định.
Nước ta phần lớn chưa có thói quen này, nhưng thiết nghĩ, trong những trường hợp
những ai có dấu hiệu “lạ” ta cũng cần sự hỗ trợ của phương tiện này. Đừng để
khám phá quá trễ, không đem lại lợi ích gì cho cả đôi bên, ứng sinh và nhà
dòng.
9. “Quý - thương - tiếc” ơn gọi
Dẫu biết rằng sự
khoan dung có sức thuyết phục và giúp biến đổi hơn chứng lý, để phân định một
điều liên quan đến một đời người, một hướng đi thì ta nên xem lại quan điểm
“thương, tiếc, tội nghiệp..." này.
Đời tu là con đường
hẹp, là một quá trình dài “trường kỳ
kháng chiến”. Khó khăn là chuyện thường tình. Những người đi trước đã chẳng
nói “Chúa gọi thì nhiều nhưng chọn thì
ít” đó sao? Thế nhưng trong thực tế có nhiều trường hợp thấy rõ ứng sinh có
vấn đề hoặc những điểm cơ bản không thích hợp với đời tu nhưng lại cảm thấy tiếc
khi chối từ vì lý do “quý ơn gọi,” “tiếc
công đã đào tạo,” “tội nghiệp”, có “thiện chí”, “ứng sinh rất muốn tu”... Đừng
quên rằng vấn đề hay khó khăn đầu đời sẽ tạm lắng vì ứng sinh còn trẻ, còn có sức
để cố gắng và tạm vượt qua. Khi lớn tuổi hơn, nhiều việc hơn, nhiều thử thách
hơn hay khi tinh thần trở nên yếu đuối, khi gặp khủng hoảng thì những vấn đề
trước kia thường “hiện nguyên hình” và có khi còn trầm trọng hơn trước. Vì thế,
hãy coi chừng việc xét ơn gọi, viêc quý ơn gọi, “thương người.” Hệ quả là nhà
dòng sẽ bị ảnh hưởng. Có khi một người bệnh tâm trí làm xáo trộn đời sống cộng
đoàn gấp nhiều lần những người bệnh về thể lý. Còn đương sự thì khó có thể tìm
thấy an bình và hạnh phúc trong đời tu.
10. Yếu tố dòng “Tây” và dòng “mới”
Dòng “mới” là những
nhà dòng đến VN sau 1975, đặc biệt là khoảng 20 năm trở lại đây. Con số này
không ít và phát triển khá nhanh. Đây là một niềm vui, một ơn huệ, nhưng cũng
là một nỗi bận tâm vì con số ứng sinh dường như không ít. Thật ra dòng tây hay
dòng ta, dòng xưa hay dòng mới đều có những vấn đề và những trăn trở. Dòng nào
cũng có khó khăn cách này hay cách khác nhất là những lấn cấn trong đời sống cộng
đoàn và vấn đề huấn luyện, cũng như tìm người phụ trách huấn luyện.
Có lẽ vì “sốt ruột”
ổn định nên đầu vào của một số dòng có vẻ nới lỏng chăng. Khi đến với dòng mới
có mặt tại Việt Nam, các ứng sinh thiếu khung cảnh và môi trường quy củ vì nhà
dòng còn phải xây dựng từ từ. Những thành phần nòng cốt của dòng đôi lúc là các
vị người Việt. Vì con số này rất giới hạn nên sự chọn lựa thành viên về nước để
mở nhà mới cũng khó khăn. Đây là một trong những nguyên nhân lấn cấn buổi đầu
cho một số dòng mới đến vì khi “cấp trên” chưa ổn thì khó khăn nội bộ và việc
huấn luyện cũng bị ảnh hưởng. Các dòng không có người Việt thì còn thêm rào cản
của ngôn ngữ và văn hóa ảnh hưởng không ít đến việc nhận định. Việc hiểu cho thấu
đáo về nhau và hiểu nội dung các bài học, bài giảng khi dùng ngoại ngữ thật khó
đi vào chiều sâu (rất xin lỗi nếu tôi quá chủ quan).
Mặt khác, các em
lại có những đặc quyền đặc lợi khác như: được chăm sóc về đời sống vật chất, được
học ngoại ngữ, công việc ít và còn viễn cảnh được xuất ngoại. Vì thế, động cơ
thực của đời tu có khi chưa sáng đủ. Dường như một số ứng sinh đến tìm hiểu
dòng mới lập là người đã rời dòng khác một hay vài lần. Những trường hợp này cần
tham khảo thêm nhà dòng họ đã ở trước đây.
11. Yếu tố bản thân ứng sinh
Nhân đây xin được
góp đôi điều với các bạn trẻ đang băn khoăn trước chọn lựa dâng hiến của mình.
Trước hết mong các bạn nhìn lại:
- Động lực: các bạn thành
thật nhìn vào nội tâm, xem xét lý do nào hình thành hay thúc đẩy đến việc muốn
dâng hiến đời mình. Vì muốn rời gia đình,
muốn một cuộc sống an bình, ổn định, ít sóng gió, muốn được học thêm, muốn thuộc
về Chúa hoặc muốn tu... chỉ đơn giản vậy thôi?
- Mức độ ước muốn và quyết
tâm: Ước muốn là một sức mạnh, một lực đẩy giúp chúng ta vượt nhanh hay có
thể vượt qua khó khăn. Nhiều bạn trẻ còn phân vân nên đi tu hay không. Các bạn
nên xem lại lòng mình khoảng bao nhiêu phần trăm muốn tu và bao nhiêu phần trăm
e ngại... Sự quyết tâm là yếu tố quan trọng trước khi lấy quyết định. Người
Pháp có câu: “muốn là được” điều này
không phải là vô căn cứ. Mặt khác có nhiều bạn trước khi vào tu mà cái “sợ” cứ
đeo đuổi mình trong quá trình tìm hiểu. Những ai “chưa tu mà sợ ra”, “chưa thi mà sợ rớt” thì mầm thất bại có vẻ như
đang chực sẵn. Không ai tự mình dám cho rằng mình có đủ sức nhưng nếu các bạn đầy
lòng khao
khát và có sự quyết tâm cao thì đây là hai yếu tố
tích cực trong việc chọn lựa.
- Lòng tin và lòng cậy trông. Có thể nói niềm tin vững chắc và hy vọng
cao độ là hai cột trụ giúp chúng ta
an tâm chọn lựa.
Dù yếu đuối và
còn nhiều khiếm khuyết, nhưng với lòng xác tín vào lời Chúa đã hứa: “Ơn
Ta đủ cho con” (2Cr 12, 9) và “Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt
28, 20) nhất là vững tin rằng: “Với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể” (Mt 19,
26)
Điều này không
loại trừ sự nỗ lực của bản thân và kiên trì tập luyện.
- Mối tương quan với Chúa. Đây là yếu tố
then chốt.
Đi tu không phải
là chọn một nếp sống, nhưng là chọn đáp trả lời mời gọi, đi theo và dâng mình
cho một Đấng, một “Người”. Nếu không biết, không tin, không mến hay không có tương
quan thân tình với Đấng ấy thì việc đi theo đó sẽ vô nghĩa và khi khó khăn đến,
nguy cơ gãy đổ sẽ khó tránh. Chúng ta có thể ví tình trạng này như “hôn nhân không có tình yêu”. Vì thế, đi
đôi với ước muốn dâng hiến, các bạn trẻ cần cố gắng tập sống thân tình với
Chúa. Thiết lập mối tương quan sâu đậm với Ngài. Độ bền và độ sâu của mối tương
quan này là điều không thể thiếu khi chọn dấn thân vào sống đời dâng hiến.
Thiết lập mối
tương quan thân tình với Chúa phải là điều ưu
tiên của ứng sinh và các vị trách nhiệm trong việc giúp các em trong thời kỳ
tìm hiểu và trong các giai đoạn huấn luyện khởi đầu.
Tóm lại
Việc phân định ơn gọi có phải
là lời mời gọi của Chúa hay không là việc của các vị đồng hành thiêng liêng. Những gì vừa nêu trên chỉ là những yếu tố tâm lý và thực tế mong
soi sáng thêm cho việc phân định, huấn luyện và đồng hành trong giai đoạn đầu của
đời tu. Những góp ý chắc chắn còn khiếm khuyết và khó tránh khỏi chủ quan. Tác
giả chỉ mong muốn giúp người trẻ tìm ra đúng con đường mà Chúa muốn cho họ, hoặc
giúp điều chỉnh hay thay đổi một số “lấn cấn” mà người trẻ phải đối diện hay
kinh nghiệm tiêu cực trong môi trường gia đình và xã hội mà họ lớn lên. Ngoài
những yếu tố siêu nhiên, phần “con người” cũng cần được quan tâm để tu sĩ sống
triển nở, hạnh phúc vì đó là điều đẹp ý Chúa: “Ta đến để chiên Ta được sống và
sống dồi dào...'' (Ga 10, 1-10).
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 103 (Tháng 11 & 12 năm
2017)