GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG
LỄ THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU NĂM A
(Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích)
WHĐ (15.06.2023) - Để
hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng,
Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh
Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và
Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được
công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.
Số 210-211, 604: Lòng Chúa Thương Xót
210. Sau khi dân Israel phạm tội, chối bỏ Thiên Chúa để quay sang thờ con bê bằng vàng[1], Thiên Chúa đã nghe lời chuyển
cầu của ông Môisen và chấp nhận đồng
hành giữa đám dân bất trung, qua đó
biểu lộ tình yêu của Ngài[2]. Khi ông Môisen xin được thấy vinh quang Thiên Chúa, Ngài trả lời: “Ta
sẽ cho tất cả vẻ đẹp của Ta đi qua trước mặt ngươi, và sẽ xưng danh Ta là Chúa
[YHWH] trước mặt ngươi" (Xh
33,18-l9). Và Chúa đi qua trước mặt ông Môisen và hô to: “Chúa, Chúa [YHWH,YHWH], Thiên Chúa nhân hậu và từ bi,
hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,5-6). Lúc đó ông Môisen
tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa hay tha thứ[3].
211. Thánh Danh “Ta Hiện Hữu” hoặc “Đấng Hiện Hữu” diễn tả sự trung
tín của Thiên Chúa, Đấng “giữ lòng
nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ” (Xh 34,7) cho dù con người có bất trung, tội lỗi, đáng phải trừng phạt. Thiên Chúa mạc khải rằng Ngài “giàu lòng
thương xót” (Ep 2,4), đến noi trao ban chính Con Một của Ngài. Chúa Giêsu, khi hiến mạng sống mình để giải thoát
chúng ta khỏi tội lỗi, sẽ mạc khải rằng
chính Người mang danh thánh của
Thiên Chúa: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là
‘Tôi Hiện Hữu’” (Ga 8,28).
604. Khi trao nộp Con của Ngài vì tội lỗi chúng ta, Thiên Chúa biểu
lộ kế hoạch của Ngài là một kế hoạch của tình yêu lân mẫn, đi trước mọi công trạng
của chúng ta: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên
Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Ngài đến làm của
lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10)[4].
“Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó
là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8).
Số 430, 478, 545, 589, 1365, 1439, 1825, 1846: Tình
yêu của Đức Kitô dành cho tất cả mọi người
430. Trong tiếng Do thái, “Giêsu” có nghĩa là “Thiên Chúa Cứu Độ”.
Khi Truyền tin, thiên thần Gabriel dạy đặt tên cho Người là Giêsu; tên gọi này
vừa diễn tả căn tính của Người, vừa diễn tả sứ vụ của Người[5].
Bởi vì không ai “có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa” (Mc 2,7), cho
nên, trong Chúa Giêsu là Con vĩnh cửu của Ngài, đã làm người, chính Thiên Chúa
“sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21). Như vậy, nơi Chúa Giêsu, Thiên
Chúa tóm kết toàn bộ lịch sử cứu độ của Ngài cho nhân loại.
478. Trong cuộc đời của Người, trong lúc Người hấp hối và trong lúc
Người chịu khổ nạn, Chúa Giêsu biết và yêu thương mọi người và từng người chúng
ta, và Người đã tự hiến mạng vì mỗi người chúng ta. Con Thiên Chúa “đã yêu mến
tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20). Người đã yêu mến tất cả chúng ta bằng một
trái tim nhân loại. Do đó Trái Tim cực thánh của Chúa Giêsu, bị đâm thâu vì tội
lỗi chúng ta và để cứu độ chúng ta[6], “được coi là dấu chỉ và biểu
tượng đặc biệt của tình yêu, qua đó Đấng Cứu Chuộc thần linh hằng liên lỉ yêu mến
Chúa Cha vĩnh cửu và yêu mến tất cả mọi người”[7].
545. Chúa Giêsu mời những kẻ
tội lỗi vào bàn tiệc Nước Thiên Chúa: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính,
mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2,17)[8].
Người mời gọi họ hối cải, vì không hối cải thì không thể vào Nước Người, nhưng
Người cũng dùng lời nói và hành động cho họ thấy lòng thương xót vô biên của
Cha Người đối với họ[9], và “trên trời cũng thế, ai
nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc l5,7). Bằng chứng cao
cả nhất của tình yêu này, là việc Người dâng hiến mạng sống mình “cho muôn người
được tha tội” (Mt 26,28).
589. Chúa Giêsu đã là cớ vấp phạm đặc biệt bởi vì Người đã đồng hóa
cách xử sự nhân từ của Người đối với các tội nhân, với cách xử sự của chính
Thiên Chúa đối với họ[10]. Người còn đi đến chỗ muốn
cho người ta hiểu rằng, qua việc Người đồng bàn với các tội nhân[11], Người đón nhận những người
đó vào bàn tiệc của Đấng Messia[12]. Nhưng đặc biệt khi Người
tha tội, Chúa Giêsu đã đặt các nhà cầm quyền tôn giáo của Israel trước một tình
thế tiến thoái lưỡng nan. Họ đã chẳng sửng sốt nói rất đúng sao: “Ai có quyền
tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?” (Mc 2,7)? Chúa Giêsu, khi Người tha tội,
thì hoặc là Người nói phạm thượng, bởi vì là người mà dám coi mình ngang hàng với
Thiên Chúa[13], hoặc là Người nói đúng,
thì như vậy, Con Người của Người làm hiện diện và mạc khải thánh Danh của Thiên
Chúa[14].
1365. Bởi vì là việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, nên bí tích Thánh Thể cũng là một hy tế.
Tính chất hy tế của bí tích Thánh Thể được biểu lộ trong chính các lời thiết lập
bí tích này: “Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em”. “Chén này là giao ước mới,
lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22,19-20). Trong bí tích Thánh Thể,
Đức Kitô ban chính thân mình đã bị nộp vì chúng ta trên thập giá, ban chính máu
mà Người đã đổ ra “cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).
1439. Chúa Giêsu đã mô tả tiến
trình hối cải và thống hối một cách tuyệt vời trong dụ ngôn quen được gọi
là dụ ngôn “Đứa con hoang đàng” mà trọng tâm của nó là “Người cha nhân hậu”[15]: sự quyến rũ của một thứ tự
do sai lạc, việc rời bỏ nhà cha; sự đau khổ cùng cực sau khi phung phí tất cả
tài sản; sự nhục nhã sâu xa khi thấy mình phải đi chăn heo, và còn tệ hơn nữa,
ước muốn ăn cám heo mà không được; việc suy nghĩ lại về những điều thiện hảo đã
bị đánh mất; sự hối hận và quyết định nhận mình có lỗi trước mặt cha; con đường
trở về; việc đón nhận bao dung của người cha; niềm vui của người cha: Đó là những
nét tiêu biểu của tiến trình hối cải. Áo đẹp, nhẫn và tiệc mừng là những biểu
tượng của một đời sống mới, thanh sạch. xứng đáng, tràn ngập niềm vui, đó là đời
sống của người trở về cùng Thiên Chúa, giữa lòng gia đình của Ngài, là Hội
Thánh. Chỉ trái tim Đức Kitô, Đấng thấu suốt các tầng sâu thẳm của tình yêu của
Cha Người, mới có thể mạc khải cho chúng ta tận đáy lòng thương xót của Thiên
Chúa một cách đơn sơ và đầy vẻ đẹp như vậy.
1825. Đức Kitô đã chịu chết vì yêu mến chúng ta, khi chúng ta còn
là “thù nghịch” (Rm 5,10). Chúa đòi chúng ta rằng, cũng như Người, chúng ta phải
yêu mến cả kẻ thù của chúng ta[16], rằng chúng ta phải trở
thành người lân cận cho những kẻ ở xa nhất[17],
rằng chúng ta phải yêu thương trẻ em[18]
và người nghèo như chính Người[19].
Thánh Tông Đồ
Phaolô đã mô tả một cách tuyệt vời về đức mến: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu,
không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính,
không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự
gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất
cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,4-7).
1846. Tin Mừng là sự mạc khải, trong Chúa Giêsu Kitô, lòng thương
xót của Thiên Chúa đối với các tội nhân[20].
Thiên thần loan báo điều này cho ông Giuse: “Ông phải đặt tên con trẻ là Giêsu,
vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21). Cũng chính điều
đó được nói đến trong Thánh Thể, bí tích của Ơn cứu chuộc: “Đây là máu Thầy,
máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).
Số 2669: Trái Tim Đức Kitô đáng tôn thờ
2669. Cũng như việc khẩn nguyện Danh cực thánh của Chúa Giêsu, kinh
nguyện của Hội Thánh còn tôn sùng Thánh
Tâm Người. Việc tôn sùng này tôn thờ Ngôi Lời Nhập Thể và Thánh Tâm của Người,
Thánh Tâm vì yêu thương loài người, đã để cho bị đâm thâu vì tội lỗi chúng ta.
Kinh nguyện Kitô giáo cũng mộ mến đi Đàng
Thánh Giá, theo chân Đấng cứu độ. Các chặng từ dinh Tổng trấn đến đồi
Gôlgôtha và Mộ Thánh làm thành con đường của Chúa Giêsu, Đấng đã cứu chuộc trần
gian bằng thánh giá của Người.
Số 766, 1225: Hội Thánh được sinh ra từ cạnh sườn bị
đâm thâu của Đức Kitô
766. Nhưng Hội Thánh được sinh ra một cách chủ yếu từ việc hiến
thân trọn vẹn của Đức Kitô để cứu độ chúng ta, việc hiến thân ấy được thể hiện
trước trong việc thiết lập bí tích Thánh Thể và được thực hiện trên thập giá.
“Sự khởi đầu và tăng trưởng của Hội Thánh được đánh dấu bằng việc máu và nước
trào ra từ cạnh sườn rộng mở của Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá”[21]. “Chính từ cạnh sườn của Đức
Kitô yên nghỉ trên thập giá đã phát sinh bí tích kỳ diệu là toàn thể Hội
Thánh”.[22] Như bà Evà được tạo ra từ cạnh
sườn của ông Ađam, thì cũng vậy, Hội Thánh được sinh từ trái tim bị đâm thâu của
Đức Kitô chết trên thập giá[23].
1225. Trong cuộc Vượt Qua của mình, Đức Kitô đã khai mở các nguồn mạch
của bí tích Rửa Tội cho tất cả mọi người. Quả vậy, Người đã nói về cuộc khổ nạn
Người sẽ phải chịu tại Giêrusalem như một “Phép Rửa” mà Người phải lãnh nhận[24]. Máu và nước chảy ra từ cạnh
sườn bị đâm thâu của Chúa Giêsu chịu đóng đinh[25],
là những điển hình của bí tích Rửa Tội và Thánh Thể, là những bí tích của đời sống
mới[26]: từ lúc đó, người ta có thể
được “sinh ra bởi nước và Thần Khí” để vào Nước Thiên Chúa (Ga 3,5).
“Hãy xem, bạn
được rửa tội ở đâu, bí tích Rửa Tội là từ đâu nếu không phải là từ Thánh Giá của
Đức Kitô, từ sự chết của Người. Toàn bộ mầu nhiệm là ở đó, bởi vì Người đã chịu
khổ hình vì bạn. Trong Người, bạn được cứu chuộc; trong Người, bạn được cứu độ”[27].
Số 1432, 2100: Tình yêu của Đức Kitô lay động tâm hồn
chúng ta
1432. Lòng người nặng nề và cứng cỏi. Con người phải được Thiên
Chúa ban cho một trái tim mới[28]. Hối cải trước hết là công
trình của ân sủng của Thiên Chúa, Đấng làm cho lòng chúng ta trở lại với Ngài:
“Xin đưa chúng con về với Ngài, lạy Chúa, để chúng con trở về” (Ac 5,21). Thiên
Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để chúng ta bắt đầu lại. Tâm hồn chúng ta, một
khi khám phá ra sự cao cả của tình yêu Thiên Chúa, sẽ bị chấn động vì sự khủng
khiếp và nặng nề của tội lỗi và bắt đầu sợ không dám phạm tội xúc phạm Thiên
Chúa và sợ bị xa lìa Ngài. Lòng người hối cải, khi nhìn lên Đấng đã bị tội lỗi
chúng ta đâm thâu[29].
“Hãy chiêm ngắm
Máu Đức Kitô và nhận biết rằng Máu ấy quý giá biết bao đối với Thiên Chúa là
Cha Người, Máu ấy, khi đổ ra để cứu độ chúng ta, đã mang lại cho toàn thế giới
ơn thống hối”[30].
2100. Hy lễ bên ngoài, để có thể là hy lễ thật, phải là sự diễn tả
của hy lễ tinh thần: “Tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát ...” (Tv 51,19).
Các tiên tri thời Giao Ước cũ thường tố cáo các hy lễ được thực hiện mà không
có sự tham dự nội tâm[31] hay không được liên kết với
tình yêu đối với người lân cận[32]. Chúa Giêsu nhắc lại lời của
tiên tri Ôsê: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9,13; 12,7)[33]. Chỉ có một hy lễ trọn hảo
duy nhất là hy lễ Đức Kitô đã dâng trên thập giá, bằng sự tận hiến cho tình yêu
của Chúa Cha và để cứu độ chúng ta[34].
Khi chúng ta kết hợp mình với hy lễ của Người, chúng ta có thể biến cuộc đời
mình thành hy lễ dâng lên Thiên Chúa.
Bài
Ðọc I: Ðnl 7, 6-11
"Chúa đã yêu thương và tuyển chọn các
ngươi".
Bài trích sách Ðệ Nhị Luật.
Môsê nói cùng dân chúng rằng: "Các ngươi
là một dân hiến thánh cho Chúa là Thiên Chúa các ngươi. Chúa là Thiên Chúa các
ngươi đã chọn các ngươi để làm dân riêng của Người giữa mọi dân tộc trên mặt đất.
Không phải vì các ngươi đông số hơn mọi dân tộc khác mà Thiên Chúa gắn bó với
các ngươi và tuyển chọn các ngươi, vì thực ra, các ngươi ít số hơn mọi dân tộc
khác; nhưng vì Chúa đã yêu thương các ngươi và giữ lời đã thề hứa với tổ phụ
các ngươi rằng: Người dùng tay mạnh mẽ mà dẫn đưa và cứu chuộc các ngươi khỏi cảnh
nô lệ, khỏi tay Pharaon vua Ai-cập. Các ngươi sẽ biết rằng Chúa là Thiên Chúa
các ngươi, chính Người là Thiên Chúa hùng mạnh, trung thành giữ lời giao ước và
lòng thương xót với những kẻ yêu mến Người, và những kẻ tuân giữ lề luật Người
cho đến muôn thế hệ. Người báo oán ngay những kẻ thù ghét Người, bằng cách tiêu
diệt chúng không trì hoãn, trả báo tức khắc như chúng đã đáng tội. Vì vậy các
ngươi hãy tuân giữ điều răn, nghi lễ và lề luật mà ta truyền cho các ngươi hôm
nay, để các ngươi thi hành".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 102, 1-2. 3-4. 6-7. 8 và 10
Ðáp: Lòng yêu thương của Chúa vẫn tồn tại, từ thuở
này tới thuở kia cho những ai kính sợ Người (c. 17).
Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa!
Toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy
chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
Ðáp: Lòng yêu thương của Chúa vẫn tồn tại, từ thuở
này tới thuở kia cho những ai kính sợ Người (c. 17).
2) Người đã thứ tha cho (ngươi) mọi điều sai lỗi,
và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân,
Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng.
Ðáp: Lòng yêu thương của Chúa vẫn tồn tại, từ thuở
này tới thuở kia cho những ai kính sợ Người (c. 17).
3) Chúa thi hành những việc công minh, và trả lại
quyền lợi cho những người bị ức. Người tỏ cho Môsê được hay đường lối, tỏ công
cuộc Người cho con cái Israel.
Ðáp: Lòng yêu thương của Chúa vẫn tồn tại, từ thuở
này tới thuở kia cho những ai kính sợ Người (c. 17).
4) Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất
bình và hết sức khoan nhân. Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội,
và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi.
Ðáp: Lòng yêu thương của Chúa vẫn tồn tại, từ thuở này tới thuở kia cho những ai kính sợ Người (c. 17).
Bài
Ðọc II: 1 Ga 4, 7-16
"Thiên Chúa thương yêu chúng ta trước".
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, chúng ta phải thương yêu
nhau, vì tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra. Vì lẽ hễ ai thương yêu, thì đã sinh bởi
Thiên Chúa, và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không yêu thương, thì không biết
Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Ðiều này biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với
chúng ta: là Thiên Chúa chúng ta đã sai Con Một Người đến trong thế gian, để nhờ
Ngài mà chúng ta được sống. Tình yêu ấy là thế này: Không phải chúng ta đã yêu
mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một
Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta.
Các con thân mến, nếu Thiên Chúa thương yêu
chúng ta dường ấy, thì chúng ta cũng phải thương yêu nhau. Chẳng ai thấy Thiên
Chúa bao giờ, nếu chúng ta thương yêu nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, và
tình yêu của Người nơi chúng ta đã được tuyệt hảo. Do điều này mà chúng ta biết
chúng ta ở trong Người và Người ở trong chúng ta: là Người đã ban Thánh Thần
cho chúng ta. Và chúng ta đã thấy và chứng nhận rằng Chúa Cha đã sai Con mình
làm Ðấng Cứu Thế.
Ai tuyên xưng Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì
Thiên Chúa ở trong người ấy, và người ấy ở trong Thiên Chúa. Còn chúng ta,
chúng ta đã biết và tin vào tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên
Chúa là Tình Yêu, và ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa
ở trong người ấy.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 11, 29ab
Alleluia, alleluia! - Các ngươi hãy mang lấy
ách của Ta, và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. -
Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 11, 25-30
"Ta hiền lành và khiêm nhượng trong
lòng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng nói rằng: "Lạy
Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người
hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn.
Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và
không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ mà
Con muốn mạc khải cho.
"Tất cả hãy đến cùng Ta, hỡi những ai khó
nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta
và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các
ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ
nhàng".
Ðó là lời Chúa.