GIÁO LÝ CỦA HỘI THÁNH CÔNG
GIÁO
CHO BÀI GIẢNG CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY A
(Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích)
WHĐ (18.3.2023) - Để hỗ trợ
các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc
Kinh Thánh của các Chúa nhật theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật
các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.
LỜI CHÚA
Bài Ðọc I: Sm 16, 1b. 6-7.
10-13a
"Ðavit được xức dầu làm vua Israel".
Bài trích sách Samuel quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Chúa phán
cùng Samuel rằng: "Hãy đổ dầu cho đầy bình và lên đường. Ta sai ngươi đến
nhà Isai dân thành Bêlem, vì Ta chọn một người con của ông ấy lên làm
vua".
Khi (họ) vào nhà, Samuel gặp ngay
Eliab và nói: "Có phải người xức dầu của Chúa đang ở trước mặt Chúa đây
không?" Và Chúa phán cùng Samuel: "Ðừng nhìn xem diện mạo, vóc cao,
vì Ta đã loại nó rồi. Ta không xem xét theo kiểu của con người, vì chưng con
người nhìn xem bên ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn". Isai lần
lượt đem bảy đứa con mình ra trình diện với Samuel. Samuel nói với Isai:
"Chúa không chọn ai trong những người này". Samuel nói tiếp: "Tất
cả con ông có bấy nhiêu đó phải không?" Isai đáp: "Còn một đứa út nữa,
nó đi chăn chiên". Samuel nói với Isai: "Ông hãy sai người đi gọi nó
về, vì chúng ta không ngồi vào bàn ăn trước khi nó về". Isai sai người đi
tìm đứa con út. Ðứa út này có mái tóc hoe, có đôi mắt xinh và gương mặt đẹp.
Chúa phán: "Ngươi hãy chỗi dậy, xức dầu lên nó, vì chính nó đó".
Samuel lấy bình dầu ra, xức lên nó trước mặt các anh em, và Thánh Thần Chúa ngự
trong Ðavít từ ngày đó trở đi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn
chi.
Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi
chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn
nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn
chi.
2) Người dẫn tôi qua những con đường
đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. Dù bước đi trong thung lũng tối, con không
lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi
lòng con.
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn
chi.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ,
ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu
con đầy tràn chan chứa.
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn
chi.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa
theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới
thời gian rất ư lâu dài.
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn
chi.
Bài Ðọc II: Ep 5, 8-14
"Từ trong cõi chết, ngươi hãy đứng lên và Chúa Kitô sẽ
chiếu sáng trên ngươi".
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ
gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, xưa kia anh em là
sự tối tăm, nhưng bây giờ, anh em là sự sáng trong Chúa. Anh em hãy ăn ở như
con của sự sáng, bởi vì hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành,
là công chính và chân thật. Anh em hãy nhận biết điều gì làm đẹp lòng Chúa, và
đừng thông phần vào những việc con cái tối tăm không sinh lợi ích gì, nhưng phải
tố cáo thì hơn. Vì chưng, việc chúng làm cách thầm kín, dầu có nói ra cũng phải
hổ thẹn. Nhưng tất cả những việc người ta tố cáo, thì nhờ sự sáng mà được tỏ
bày ra; vì mọi việc được tỏ bày, đều là sự sáng. Bởi thế, thiên hạ nói: "Hỡi
kẻ đang ngủ, hãy thức dậy, hãy vùng dậy ra khỏi cõi chết, và Chúa Kitô sẽ chiếu
sáng trên ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 8,
12b
Chúa phán: "Ta là sự sáng thế
gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống".
"Hắn đi rửa, rồi trở lại trông thấy
rõ".
Tin Mừng Chúa
Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua, thấy một người mù từ khi mới
sinh. Môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội, anh này hay cha mẹ
anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?" Chúa Giêsu đáp: "Không phải anh
cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa tỏ ra
nơi anh. Bao lâu còn ban ngày, Ta phải làm những việc của Ðấng đã sai Ta. Ðêm đến
không ai có thể làm việc được nữa. Bao lâu Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế
gian". Nói xong, Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi
xoa bùn trên mắt người ấy và bảo: "Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa" (chữ
Silôê có nghĩa là được sai). Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.
Những người láng giềng và những kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói:
"Ðó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?" Có kẻ nói: "Ðúng hắn!"
Lại có người bảo: "Không phải, nhưng là một người giống hắn". Còn anh
ta thì nói: "Chính tôi đây". Họ hỏi anh: "Làm thế nào mắt anh được
sáng?" Anh ta nói: "Người mà thiên hạ gọi là Giêsu đã làm bùn xức mắt
tôi và bảo: Ngươi hãy đến hồ Silôê mà rửa. Bấy giờ tôi đi, tôi rửa và tôi trông
thấy". Họ lại hỏi: "Ngài ở đâu?" Anh thưa: "Tôi không biết".
Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa
Giêsu hoà bùn và chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái
cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt? Anh đáp: "Ngài đã xoa bùn vào mắt
tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt". Mấy người biệt phái nói: "Người
đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat". Mấy kẻ khác lại rằng:
"Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?" Họ bất
đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: "Còn anh, anh
nói gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Ðó là một tiên
tri". Nhưng người Do Thái không muốn tin anh đã mù và đã được khỏi trước
khi đòi cha mẹ anh đến. Họ hỏi hai ông bà: "Người này có phải là con hai
ông bà mà ông bà bảo bị mù từ khi mới sinh không? Do đâu mà bây giờ nó lại
trông thấy?" Cha mẹ y thưa rằng: "Chúng tôi xác nhận đây chính là con
chúng tôi, và nó đã bị mù từ khi mới sinh. Nhưng làm sao mà bây giờ nó trông thấy,
và ai đã mở mắt cho nó thì chúng tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, các ông hãy hỏi
nó, nó sẽ tự thưa lấy". Cha mẹ anh ta nói thế bởi sợ người Do Thái, vì người
Do Thái đã bàn định trục xuất khỏi hội đường bất cứ ai dám công nhận Chúa Giêsu
là Ðấng Kitô. Chính vì lý do này mà cha mẹ anh ta nói: "Nó khôn lớn rồi,
xin các ông cứ hỏi nó". Lúc ấy người Do Thái lại gọi người trước kia đã mù
đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa! Phần chúng ta, chúng ta biết người
đó là một kẻ tội lỗi". Anh ta trả lời: "Nếu đó là một người tội lỗi,
tôi không biết; tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy".
Họ hỏi anh: "Người đó đã làm gì cho anh? Người đó đã mở mắt anh thế
nào?" Anh thưa: "Tôi đã nói và các ông đã nghe, các ông còn muốn nghe
gì nữa? Hay là các ông cũng muốn làm môn đệ Ngài chăng?" Họ liền nguyền rủa
anh ta và bảo: "Mày hãy làm môn đệ của người đó đi, còn chúng ta, chúng ta
là môn đệ của Môsê. Chúng ta biết Thiên Chúa đã nói với Môsê, còn người đó
chúng ta không biết bởi đâu mà đến". Anh đáp: "Ðó mới thật là điều lạ:
người đó đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết người đó bởi đâu. Nhưng
chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ
Thiên Chúa và làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới được Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng
nghe nói có ai đã mở mắt người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên
Chúa thì đã không làm được gì". Họ bảo anh ta: "Mày sinh ra trong tội
mà mày dám dạy chúng ta ư?" Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài. Chúa Giêsu hay
tin họ đuổi anh ta ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: "Anh có tin
Con Thiên Chúa không?" Anh thưa: "Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi
tin Người?" Chúa Giêsu đáp: "Anh đang nhìn thấy Người và chính Người
đang nói với anh". Anh ta liền nói: "Lạy Ngài, tôi tin", và anh
ta sấp mình thờ lạy Người. Chúa Giêsu liền nói: "Chính vì để luận xét mà
Ta đã đến thế gian hầu những kẻ không xem thấy, thì được xem thấy, và những kẻ
xem thấy, sẽ trở nên mù". Những người biệt phái có mặt ở đó liền nói với
Người: "Thế ra chúng tôi mù cả ư?" Chúa Giêsu đáp: "Nếu các
ngươi mù, thì các ngươi đã không mắc tội; nhưng các ngươi nói "Chúng tôi
xem thấy", nên tội các ngươi vẫn còn".
Ðó là lời Chúa.
Phúc Âm: Ga 9, 1. 6-9. 13-17.
34 (bài ngắn)
"Hắn đi rửa, rồi trở lại trông thấy rõ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua, thấy một
người mù từ khi mới sinh. Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi
xoa bùn trên mắt người ấy, và bảo: "Anh hãy đến hồ Silôe mà rửa" (chữ
Silôe có nghĩa là được sai)". Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông
thấy được.
Những người láng giềng và kẻ xưa
kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: "Ðó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin
sao?" Có kẻ nói: "Ðúng hắn". Lại có người bảo: "Không phải,
nhưng là một người giống hắn". Còn anh ta thì nói: "Chính tôi
đây".
Họ liền dẫn người trước kia bị mù
đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt cho anh
ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt.
Anh đáp: "Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt".
Mấy người biệt phái nói: "Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ
ngày Sabbat". Mấy kẻ khác lại rằng: "Làm sao một người tội lỗi lại
làm được những phép lạ thể ấy?" Họ bất đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay
lại hỏi người mù lần nữa: "Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho
anh?" Anh đáp: "Ðó là một Tiên tri". Họ bảo anh ta: "Mày
sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?" Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài.
Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ra
ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: "Anh có tin Con Thiên Chúa
không?" Anh thưa: "Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?"
Chúa Giêsu đáp: "Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với
anh". Anh ta liền nói: "Lạy Ngài, tôi tin", và anh ta sấp mình
thờ lạy Người.
Ðó là lời Chúa.
GIÁO
LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO
Số 280,
529, 748, 1165, 2466, 2715: Đức Kitô là ánh sáng muôn dân
280 Trước
sự hiện diện cuốn hút và huyền nhiệm của Thiên Chúa, con người nhận ra sự nhỏ
bé của mình. Trước bụi gai cháy bừng, ông Môsê cởi dép và che mặt trước tôn
nhan Thiên Chúa chí thánh [X. Xh 3,5-6]. Trước vinh quang của Thiên Chúa
ba lần thánh, tiên tri Isaia thốt lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất, vì tôi là
một người môi miệng ô uế” (Is 6,5). Trước những dấu chỉ thần linh Chúa Giêsu thực
hiện, ông Phêrô thốt lên: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”
(Lc 5,8). Nhưng bởi vì Thiên Chúa là Đấng Thánh, nên Ngài có thể tha thứ cho kẻ
nhận biết mình là tội nhân trước mặt Ngài: “Ta sẽ không hành động theo cơn nóng
giận…, vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm. Ở giữa ngươi, Ta là Đấng
Thánh” (Hs 11,9). Tông đồ Gioan cũng sẽ nói tương tự: “Chúng ta sẽ được an lòng
trước mặt Thiên Chúa. Vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn
cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự” (1 Ga 3,19-20).
529 Việc dâng
Chúa Giêsu vào Đền thờ [X. Lc 2,22-39] cho thấy Người có tư cách là
“con đầu lòng” thuộc về Thiên Chúa như sở hữu riêng của Ngài [X. Xh
13,12-13]. Cùng với ông Simêon và bà Anna, toàn thể dân Ítraen đến gặp
gỡ Đấng Cứu Độ mà họ trông chờ (truyền thống Byzantin gọi biến cố này
như vậy). Chúa Giêsu được nhìn nhận là Đấng Mêsia được mong đợi đã quá lâu, là
“ánh sáng muôn dân”, là “vinh quang của Ítraen”, nhưng cũng là “dấu hiệu cho
người đời chống báng.” Lưỡi gươm của đau khổ được tiên báo cho Đức Maria, loan
báo một việc dâng hiến khác, hoàn hảo và duy nhất, là việc dâng hiến trên thập
giá, việc dâng hiến này sẽ mang lại ơn cứu độ mà Thiên Chúa “đã dành sẵn cho
muôn dân.”
748 “Ánh
sáng muôn dân chính là Đức Kitô, nên Thánh Công đồng đang nhóm họp trong Chúa
Thánh Thần hết lòng mong ước chiếu giãi trên mọi người ánh sáng của Đức Kitô,
phản chiếu trên dung nhan Hội Thánh, bằng việc rao truyền Tin Mừng cho mọi thụ
tạo” [CĐ Vaticanô II, Hiến Chế tín lý Lumen Gentium, 1: AAS 57
(1965) 5]. Những lời trên đây mở đầu “Hiến chế tín lý về Hội Thánh” của
Công đồng Vaticanô II. Như vậy, Công đồng cho thấy đề mục đức tin về Hội Thánh
hoàn toàn tùy thuộc vào những đề mục quy chiếu về Chúa Giêsu Kitô. Hội Thánh
không có ánh sáng nào khác ngoài ánh sáng của Đức Kitô; Hội Thánh có thể so
sánh, theo hình ảnh các Giáo phụ thích dùng, với mặt trăng, mọi ánh sáng của nó
đều là phản chiếu ánh sáng mặt trời.
1165 Khi
Hội Thánh cử hành mầu nhiệm Đức Kitô, có một từ luôn được nhắc đến trong kinh
nguyện của Hội Thánh: đó là từ “Hôm nay”, là âm vang Lời Kinh Chúa dạy
[X. Mt 6,11], và âm vang tiếng gọi của Chúa Thánh Thần [X. Dt 3,7-4,11; Tv
95,8]. Ngày “hôm nay” này của Thiên Chúa hằng sống mà con người được mời gọi
bước vào, chính là “Giờ” của cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu, Giờ đó xuyên suốt và
hướng dẫn toàn bộ lịch sử:
“Sự
sống được mở ra cho vạn vật và tất cả được đầy tràn ánh sáng vĩnh cửu, và Đấng
là Vầng Đông của các vầng đông xâm chiếm vũ trụ: Đấng được sinh ra trước Sao
Mai, bất tử và cao cả, là Đức Kitô chiếu soi vạn vật hơn cả mặt trời. Vì vậy,
ngày bừng sáng, lâu dài, vĩnh cửu và không thể tàn lụi đã xuất hiện cho chúng
ta là những kẻ tin vào Người: đó là cuộc Vượt Qua thần bí” [Pseuđôhippôlytô
Roma, In sanctum Pascha, 1, 1-2: Studia patristica mediolanensia
15,230-232 (PG 59,755)].
2466 Chân
lý của Thiên Chúa được tỏ hiện cách trọn vẹn nơi Chúa Giêsu Kitô. Chính Người,
Đấng tràn đầy ân sủng và chân lý [X. Ga 1,14.], là “ánh sáng thế gian” (Ga
8,12). Chính Người là chân lý [X. Ga 14,6]. Mọi kẻ tin vào Người,
thì không còn ở trong bóng tối [X. Ga 12,46]. Môn đệ của Chúa Giêsu ở
trong lời Người, để nhận biết chân lý có sức giải thoát [X. Ga 8,31-32] và
thánh hóa [X. Ga 17,17]. Bước theo Chúa Giêsu là sống bởi Thánh Thần chân
lý [X. Ga 14,17], Đấng Chúa Cha sai đến nhân danh Người [X. Ga
14,26], và là Đấng sẽ dẫn đưa đến “sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13). Chúa
Giêsu dạy các môn đệ phải tuyệt đối yêu mến chân lý: “Trong lời nói của anh em,
hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’” (Mt 5,37).
2715 Cầu
nguyện chiêm niệm là cái nhìn đầy lòng tin, chiêm ngắm Chúa Giêsu. Người dân
quê làng Ars xưa đã cầu nguyện trước Nhà Tạm rồi nói với cha sở thánh của ông:
“Tôi nhìn Chúa và Chúa nhìn tôi” [X. F. Trochu, Le Curé d’Ars Saint
Jean-Marie Viannê (Lyon-Paris 1927) 223-224]. Sự chăm chú nhìn
Chúa như vậy là sự từ bỏ “cái tôi.” Cái nhìn của Chúa thanh luyện tâm hồn chúng
ta. Ánh sáng trong cái nhìn của Chúa Giêsu chiếu sáng con mắt tâm hồn chúng ta;
ánh sáng ấy dạy chúng ta biết nhìn mọi sự dưới ánh sáng chân lý và lòng thương
xót của Người đối với tất cả mọi người. Việc cầu nguyện chiêm niệm cũng hướng
cái nhìn vào các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Kitô. Như thế, việc cầu nguyện này
dạy “sự hiểu biết nội tâm về Chúa” để yêu mến và bước theo Người nhiều hơn nữa
[X. Thánh Inhaxiô Lôyôla, Exercitia spiritualia, 104: MHSI
100,224].
Số
439, 496, 559, 2616: Chúa Giêsu là Con Vua Đavít
439 Nhiều
người Dothái, và cả một số người ngoại cùng chia sẻ niềm hy vọng của Ítraen, đã
nhận ra nơi Chúa Giêsu những nét cơ bản của “Con vua Đavít”, Đấng Mêsia mà
Thiên Chúa đã hứa ban cho Ítraen [X. Mt 2,2; 9,27, 12,23; 15,22; 20,30;
21,9.15]. Chúa Giêsu đã chấp nhận danh hiệu Mêsia, Người có quyền làm như
vậy [X. Ga 4,25-26; 11,27], nhưng Người chấp nhận một cách dè dặt, bởi vì
danh hiệu này bị một số người đương thời với Người hiểu theo một quan niệm quá
phàm trần [X. Mt 22,41-46], đặc biệt mang tính chất chính trị [X. Ga 6,l5;
Lc 24,2l].
496 Ngay
trong các công thức đức tin đầu tiên [X. DS 10-64], Hội Thánh đã tuyên
xưng rằng Chúa Giêsu được thụ thai trong lòng Đức Trinh Nữ Maria là chỉ do quyền
năng của Chúa Thánh Thần mà thôi, và Hội Thánh cũng khẳng định khía cạnh thể lý
của biến cố này: Chúa Giêsu được thụ thai “bởi Chúa Thánh Thần, không có mầm giống
nam nhân” [CĐ Latêranô (năm 649), Canon 3: DS 503]. Các Giáo Phụ nhận ra
việc thụ thai đồng trinh là dấu chỉ của việc Con Thiên Chúa thật sự đã đến trong
bản tính nhân loại như chúng ta. Thánh Inhaxiô Antiôkhia (đầu thế kỷ II) dạy:
“Tôi đã nhận thấy anh em… xác tín rằng Chúa chúng ta,
thật sự xuất thân từ dòng dõi vua Đavít theo xác phàm [X. Rm 1,3], là Con
Thiên Chúa theo ý định và quyền năng Thiên Chúa [X. Ga 1,13], Người đã thật
sự được sinh ra bởi một trinh nữ;… Người đã thật sự chịu đóng đinh trong thân
xác vì chúng ta, thời quan Phongxiô Philatô… Người đã thật sự chịu khổ hình
cũng như đã thật sự sống lại” [Thánh Inhaxiô thành Antiôkhia, Epistula
ad Smyrnaeos, 1-2: SC 10bis, 132-134 (Funk 1,274-276)].
559 Giêrusalem
sẽ đón nhận Đấng Mêsia của mình như thế nào? Chúa Giêsu, Đấng luôn trốn tránh mọi
ý đồ của dân chúng muốn tôn Người làm vua [X. Ga 6,15], đã chọn thời điểm
và chuẩn bị kỹ lưỡng để tiến vào Giêrusalem, thành của “Đavít, tổ tiên Người”
(Lc 1,32) với tư cách là Đấng Mêsia [X. Mt 21,1-11]. Người được dân chúng
hoan hô như con vua Đavít, như Đấng mang lại ơn cứu độ (Hosanna có
nghĩa là “xin cứu”, “xin ban ơn cứu độ!”). Nhưng “Đức Vua vinh hiển” (Tv
24,7-10) lại “ngồi trên lưng lừa con” (Dcr 9,9) tiến vào thành: Người không
chinh phục Thiếu nữ Xion, hình ảnh của Hội Thánh Người, bằng mưu mẹo hay bằng bạo
lực, nhưng bằng sự khiêm tốn, là bằng chứng của sự thật [X. Ga 18,37]. Vì
vậy, ngày hôm đó, thần dân của Nước Người là các trẻ em [X. Mt 21,15-16; Tv
8,3] và “những người nghèo của Thiên Chúa”, họ tung hô Người giống như các
Thiên thần đã loan báo Người cho các mục đồng [X. Lc 19,38; 2,14]. Lời
tung hô của họ: “Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa” (Tv 118,26) được Hội
Thánh dùng lại trong kinh “Thánh! Thánh! Thánh!” để mở đầu phụng vụ Thánh Thể
tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa.
2616
Lúc Người còn đang thi hành tác vụ, lời cầu nguyện với
Chúa Giêsu đã được chính Người nhận lời, qua các dấu lạ, những dấu lạ
này tiền dự vào sức mạnh của sự chết và sự sống lại của Người. Chúa Giêsu nhận
lời cầu nguyện của đức tin, được diễn tả bằng lời nói (của người bệnh phong [X.
Mc 1,40-41], của ông Giairô [X. Mc 5,36], của người phụ nữ Canaan [X. Mc
7,29], của người trộm lành [X. Lc 23,39-43]), hay trong thinh lặng (của những
kẻ khiêng người bất toại [X. Mc 2,5], của người đàn bà bị bệnh loạn huyết đụng
chạm vào áo Người [X. Mc 5,28], nước mắt và dầu thơm của người phụ nữ tội lỗi
[X. Lc 7,37-38]). Lời nài xin tha thiết của những người mù: “Lạy Con Vua Đavít,
xin thương xót chúng tôi” (Mt 9,27) hay “Lạy Ông Giêsu, Con Vua Đavít, xin rủ
lòng thương tôi” (Mc 10,48) được sử dụng lại trong truyền thống Khẩn
nguyện Chúa Giêsu (Oratio ad Iesum): “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa,
là Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Chúa Giêsu luôn đáp lại lời cầu xin
Người với đức tin, bằng cách chữa lành bệnh tật hoặc thứ tha tội lỗi: “Cứ về
bình an, lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”
Thánh
Augustinô đã khéo léo tóm tắt ba chiều kích của lời cầu nguyện của Chúa Giêsu:
“Người cầu nguyện cho chúng ta, vì Người là vị Tư Tế của chúng ta; Người cầu
nguyện trong chúng ta vì Người là Đầu của chúng ta; Người được chúng ta cầu
nguyện, vì Người là Thiên Chúa của chúng ta. Vậy chúng ta phải nhận biết tiếng
nói của chúng ta trong Người, lẫn tiếng nói của Người trong chúng ta” [Thánh
Augustinô, Enarratio in Psalmum 85, 1: CCL 39,1176 (PL
36,1081); x. Văn kiện trình bày và quy định Các Giờ Kinh phụng vụ,
7: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v. 1 (Typis Polyglottis
Vaticanis 1973) 24].
Số 1216:
Phép Rửa là sự soi sáng
1216
“Phép Rửa này còn được gọi là ơn soi sáng, vì những
ai học biết điều này (về giáo lý) thì được soi sáng trong tâm trí” [Thánh
Giustinô, Apologia, 1, 61: CA 1,168 (PG 6,421)]. Người được Rửa
Tội, vì trong Phép Rửa họ được đón nhận Ngôi Lời là “ánh sáng thật chiếu soi mọi
người” (Ga 1,9), nên sau khi “được soi sáng” [X. Dt 10,32], họ trở thành
“con cái sự sáng” [X. 1 Tx 5,5] và chính họ là “ánh sáng” (Ep 5,8):
Bí
tích Rửa Tội “là hồng ân cao đẹp nhất và kỳ diệu nhất trong các hồng ân của
Thiên Chúa… Chúng ta gọi bí tích đó là hồng ân, ân sủng, Rửa Tội, xức dầu, soi
sáng, y phục bất hoại, sự tắm rửa của ơn tái sinh, ấn tín và tất cả những gì
quý giá nhất. Nó được gọi là hồng ân, bởi vì được ban cho những người
trước đó chẳng có gì; là ân sủng, bởi vì được ban cả cho những người
tội lỗi; là sự dìm xuống, bởi vì tội lỗi bị chôn vùi trong nước;
là xức dầu, bởi vì bí tích này là thánh thiêng và vương giả (như những
người được xức dầu); là ơn soi sáng, bởi vì nó sáng ngời và chói lọi;
là y phục, bởi vì nó che phủ sự xấu xa của chúng ta; là tắm rửa,
bởi vì bí tích này rửa sạch; là ấn tín, bởi vì nó là sự bảo toàn và
là dấu chỉ của uy quyền” [Thánh Grêgôriô thành Nazien, Oratio 40,
3-4: SC 358,202-204 (PG 36,361-364)].
Số 782, 1243, 2105: Kitô hữu phải là ánh sáng thế gian
782 Dân
Thiên Chúa có những đặc tính, phân biệt họ một cách rõ ràng với tất cả những tập
thể trong lịch sử về tôn giáo, chủng tộc, chính trị hoặc văn hóa:
—
Đây là dân của Thiên Chúa: Thiên Chúa không thuộc riêng một dân
nào. Nhưng Ngài thủ đắc cho mình một dân từ những người trước kia không phải là
một dân: “là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh”
(1 Pr 2,9).
—
Người ta trở nên phần tử của dân này, không nhờ sự sinh ra
theo thể lý, nhưng nhờ sự sinh ra “bởi ơn trên”, “bởi nước và Thần Khí” (Ga
3,3-5), nghĩa là, nhờ đức tin vào Đức Kitô và nhờ bí tích Rửa Tội.
—
“Dân này có Đấng làm Đầu là Chúa Giêsu Kitô (Đấng Được Xức Dầu,
Đấng Mêsia): bởi vì cùng một Sự Xức Dầu, là Chúa Thánh Thần, chảy từ Đầu vào
Thân thể, nên đây là “Dân thuộc về Đấng Được Xức Dầu.”
—
“Dân này có phẩm giá và sự tự do của các con cái Thiên Chúa,
Chúa Thánh Thần ngự trong trái tim của họ như trong một đền thờ” [CĐ Vaticanô
II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 9: AAS 57 (1965) 13].
—
“Dân này có Luật là giới răn mới của yêu thương như chính Đức
Kitô đã yêu thương chúng ta” [CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
Gentium, 9: AAS 57 (1965) 13; x. Ga 13,14]. Đó là Luật “mới” của Chúa Thánh
Thần [X. Rm 8,2; Gl 5,25].
— Sứ
vụ của dân này là làm muối đất và ánh sáng thế gian [X. Mt 5,13-16].
“Dân này là hạt giống chắc chắn nhất mang lại sự hợp nhất, niềm hy vọng và ơn cứu
độ cho toàn thể nhân loại” [CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
Gentium, 9: AAS 57 (1965) 13].
— Cuối
cùng, mục đích của dân này là “Nước Thiên Chúa, đã được chính
Thiên Chúa khởi sự nơi trần thế và ngày càng lan rộng, cho đến khi được chính
Ngài hoàn tất trong ngày tận thế” [CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
Gentium, 9: AAS 57 (1965) 13].
1243
Áo trắng nói lên cách tượng trưng người chịu Phép Rửa đã
mặc lấy Đức Kitô [X. Gl 3,27], đã sống lại cùng với Đức Kitô. Cây
nến được thắp sáng từ nến phục sinh nói lên rằng Đức Kitô đã chiếu dọi
ánh sáng cho người tân tòng. Trong Đức Kitô, những người chịu Phép Rửa là “ánh
sáng cho trần gian” (Mt 5,14) [X. Pl 2,15]. Người tân tòng lúc đó là con
cái Thiên Chúa trong Người Con Duy Nhất. Họ có thể đọc lời kinh của những người
con Thiên Chúa: kinh Lạy Cha.
2105 Bổn phận phải dành cho Thiên Chúa sự tôn thờ đích thực liên quan đến con người xét theo cá nhân cũng như xã hội. Đây là “đạo lý truyền thống công giáo về bổn phận luân lý của con người và của xã hội đối với tôn giáo thật và Hội Thánh duy nhất của Đức Kitô” [CĐ Vaticanô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 1: AAS 58 (1966) 930]. Khi không ngừng loan báo Tin Mừng cho con người, Hội Thánh cố gắng làm sao để con người “có thể làm cho tinh thần Kitô Giáo thấm nhuần vào các tâm trí, phong tục, luật lệ và cơ cấu của cộng đoàn nơi họ sống” [CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 13: AAS 58 (1966) 849]. Bổn phận xã hội của các Kitô hữu là tôn trọng và khơi dậy nơi mỗi người tình yêu đối với chân lý và điều thiện hảo. Bổn phận này buộc họ phải truyền bá nền phụng tự của tôn giáo duy nhất và chân thật, đang tồn tại trong Hội Thánh công giáo và tông truyền [X. CĐ Vaticanô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 1: AAS 58 (1966) 930]. Kitô hữu được mời gọi trở thành ánh sáng thế gian [X. CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 13: AAS 58 (1966) 850]. Nhờ đó, Hội Thánh bày tỏ vương quyền của Đức Kitô trên vạn vật, đặc biệt là trên các xã hội loài người [X. ĐGH Lêô XIII, Thông điệp Immortale Dei : Leonis XIII Acta, 5, 118-150; ĐGH Piô XI, Thông điệp Quas primas: AAS 17 (1925) 593-610].