GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG
(Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích)
CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH NĂM B
WHĐ (15.04.2024) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện
hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng,
Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh
Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và
Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được
công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.
Số 1346-1347: Thánh Thể và kinh nghiệm của các môn đệ Emmaus
1346. Phụng vụ Thánh lễ diễn tiến theo một cấu trúc căn bản đã được
duy trì qua các thế kỷ cho đến thời đại chúng ta. Phụng vụ Thánh lễ được triển
khai trong hai phần chính, làm thành một thể thống nhất:
– Tập họp, Phụng vụ Lời Chúa với các bài đọc, bài giảng và lời nguyện phổ
quát;
– Phụng vụ Thánh Thể với việc tiến dâng bánh rượu; kinh tạ ơn thánh
hiến [Kinh nguyện Thánh Thể] và hiệp lễ.
Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ
Thánh Thể cùng tạo thành “một hành vi phụng tự duy nhất”[1];
thật vậy, bàn tiệc được dọn ra cho chúng ta trong Thánh Lễ vừa là bàn tiệc Lời
Thiên Chúa, vừa là bàn tiệc Mình Chúa”[2].
1347. Đó không phải là diễn tiến bữa tiệc Vượt Qua của Chúa Giêsu
phục sinh với các môn đệ Người sao? Khi đi đường, Người giải thích Kinh Thánh
cho họ, rồi khi vào bàn ăn với họ, “Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và
bẻ ra trao cho họ” (Lc 24,30)[3].
Số 642-644, 857, 995-996: Các tông đồ và các môn đệ là những chứng
nhân của sự Phục Sinh
642. Tất cả những gì đã xảy ra trong những ngày lễ Vượt Qua đó, đòi
buộc mỗi vị Tông Đồ, đặc biệt là ông Phêrô, xây dựng một kỷ nguyên mới, kỷ
nguyên đã bắt đầu từ sáng ngày Vượt Qua. Với tư cách là những chứng nhân của Đấng
Phục Sinh, các ngài mãi là những tảng đá nền móng của Hội Thánh Người. Đức tin
của cộng đoàn các tín hữu tiên khởi được xây dựng trên lời chứng của những con
người cụ thể mà các Kitô hữu quen biết và phần đông lúc đó còn sống giữa họ.
“Những chứng nhân về cuộc Phục Sinh của Đức Kitô”[4]
trước hết là ông Phêrô và Nhóm Mười Hai, nhưng không chỉ có các vị ấy: ông
Phaolô nói đến hơn năm trăm người đã được Chúa Giêsu hiện ra một lượt, rồi với
ông Giacôbê và với tất cả các Tông Đồ[5].
643. Trước những lời chứng đó, không thể giải thích rằng sự phục
sinh của Đức Kitô nằm bên ngoài trật tự thể lý, và không thể không công nhận sự
phục sinh đó có tính cách là một sự kiện lịch sử. Qua các sự kiện, người ta thấy
rõ là đức tin của các môn đệ đã bị lung lay tận gốc do cuộc khổ nạn và cái Chết
trên thập giá của Thầy họ, mà chính Người đã báo trước[6].
Sự chấn động tâm hồn do cuộc khổ nạn gây nên là mạnh mẽ đến nỗi các môn đệ (hoặc
ít nhất một số người trong họ) không tin ngay lời loan báo về việc Sống Lại.
Các sách Tin Mừng không hề trình bày cho chúng ta thấy một cộng đoàn đầy hứng
khởi thần bí; nhưng cho chúng ta thấy những môn đệ mất tinh thần (“buồn rầu”:
Lc 24,17) và hoảng sợ[7]. Vì vậy họ đã không tin các
phụ nữ thánh thiện từ ngôi mộ trở về, và những lời của các bà, họ “cho là chuyện
vớ vẩn” (Lc 24,11)[8]. Khi Chúa Giêsu hiện ra với
Nhóm Mười Một chiều ngày Vượt Qua, “Người khiển trách các ông không tin và cứng
lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người, sau khi Người
sống lại” (Mc 16,14).
644. Các môn đệ, cả khi đứng trước thực tại Chúa Giêsu phục sinh, vẫn
còn nghi ngờ[9]; đối với các ông, coi như
không thể nào có việc ấy: họ tưởng là thấy ma[10],
“các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng” (Lc 24,41). Ông Tôma
cũng đã nghi ngờ như vậy[11], và trong dịp hiện ra lần
cuối cùng mà sách Matthêu thuật lại, “có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28,17). Vì
vậy, giả thuyết cho rằng sự Phục Sinh là “sản phẩm” của lòng tin (hay sự dễ
tin) của các Tông Đồ, không có cơ sở. Hoàn toàn trái lại, đức tin của các ông
vào sự Phục Sinh phát xuất từ kinh nghiệm trực tiếp về thực tại Chúa Giêsu sống
lại, dưới tác động của ân sủng của Thiên Chúa.
857. Hội Thánh có đặc tính tông truyền vì được đặt nền trên các
Tông Đồ, và điều này được hiểu theo ba nghĩa:
– Hội Thánh đã và đang được xây dựng
trên “nền móng là các Tông Đồ” (Ep 2,20)[12],
là những chứng nhân đã được chính Đức Kitô tuyển chọn và sai đi[13];
– Với sự trợ giúp của Chúa Thánh
Thần, Đấng hằng ngự trong Hội Thánh, Hội Thánh gìn giữ và lưu truyền giáo huấn[14], kho tàng quý báu, những lời
lành thánh nghe được từ các Tông Đồ[15];
– Hội Thánh tiếp tục được giảng dạy,
thánh hóa và hướng dẫn bởi các Tông Đồ cho đến khi Đức Kitô trở lại nhờ những vị
kế nhiệm các ngài trong nhiệm vụ mục tử: Giám mục đoàn, “với sự trợ giúp của
các linh mục, hợp nhất với Đấng kế nhiệm thánh Phêrô là mục tử tối cao của Hội
Thánh”[16].
“Lạy Chúa là Mục Tử hằng hữu,
Chúa không bỏ rơi đoàn chiên Chúa, nhưng nhờ các Thánh Tông Đồ, Chúa luôn che
chở giữ gìn để đoàn chiên được hướng dẫn nhờ các vị lãnh đạo Chúa đã đặt làm mục
tử nhân danh Con Chúa…”[17].
995. Làm chứng nhân cho Đức Kitô là “làm chứng nhân về sự phục sinh
của Người” (Cv 1,22)[18], là đã ăn, đã uống “với Người
sau khi Người từ trong kẻ chết sống lại” (Cv 10,41). Niềm hy vọng Kitô giáo về
sự phục sinh được ghi dấu cách tuyệt đối bằng những cuộc gặp gỡ Đức Kitô phục
sinh. Chúng ta sẽ phục sinh như Người, với Người và nhờ Người.
996. Ngay từ đầu, đức tin Kitô giáo về sự phục sinh đã gặp những phản
ứng không hiểu và chống đối[19]. “Trong đức tin Kitô giáo,
không có việc nào bị chống đối cách mạnh mẽ, dai dẳng, quyết liệt và hăng hái
cho bằng vấn đề thân xác sống lại”[20].
Thông thường, người ta chấp nhận là sự sống của nhân vị, sau khi chết, được tiếp
tục một cách thiêng liêng. Nhưng làm sao tin được rằng thân xác hiển nhiên là
phải chết này lại có thể phục sinh vào đời sống vĩnh cửu?
Số 102, 601, 426-429, 2763: Đức Kitô là chìa khóa để
giải thích toàn bộ Kinh thánh
102. Qua tất cả các lời ở trong Thánh Kinh, Thiên Chúa chỉ nói một
Lời, là (Ngôi) Lời duy nhất của Ngài. Trong Ngôi Lời, Thiên Chúa bày tỏ tất cả
về chính mình Ngài[21]:
“Anh em hãy
nhớ rằng một Lời duy nhất của Thiên Chúa được trải ra trong toàn bộ Thánh Kinh,
một Lời duy nhất vang trên môi miệng của các Thánh. Lời này lúc khởi đầu là
Thiên Chúa hướng về Thiên Chúa, lúc ấy Lời không có các âm vận, bởi vì Ngài
không lệ thuộc thời gian”[22].
Đức Kitô “đã chết vì tội lỗi chúng ta theo như lời Thánh Kinh”
601. Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa về việc “Người Tôi Trung Công
Chính” bị giết[23] đã được báo trước trong
Thánh Kinh như một mầu nhiệm Cứu Chuộc phổ quát, nghĩa là, giải thoát người ta
khỏi ách nô lệ tội lỗi[24]. Thánh Phaolô, trong lời
tuyên xưng đức tin mà ngài nói mình đã “lãnh nhận”[25],
tuyên xưng rằng “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Thánh Kinh” (1 Cr 15,3)[26].
Sự chết mang lại ơn cứu chuộc của Đức Kitô hoàn thành một cách đặc biệt lời
tiên tri về Người Tôi trung đau khổ[27].
Chính Chúa Giêsu đã trình bày ý nghĩa cuộc đời và sự chết của Người dưới ánh
sáng về Người Tôi trung đau khổ[28]. Sau khi Người sống lại,
Người đã giải thích Thánh Kinh như vậy cho các môn đệ Emmaus[29], rồi cho chính các Tông Đồ[30].
Trọng tâm của việc dạy giáo lý: Đức Kitô
426. “Phai xác quyết ngay rằng, ở trung tâm của việc dạy giáo lý,
chủ yếu chúng ta gặp một nhân vật: đó là Chúa Giêsu Kitô Nazareth, ‘Con Một của
Chúa Cha’…. Người đã chịu khổ hình và đã chịu chết vì chúng ta; và Người, từ
khi song lại, luôn luôn sống với chúng ta…. Dạy giáo lý là giúp người ta nhận
ra toàn bộ kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa trong con người Đức Kitô; là tìm hiểu
ý nghĩa các hành động và lời nói của Đức Kitô, và các dấu lạ Người đã thực hiện”[31]. Mục đích của việc dạy giáo
lý là “dẫn đưa con người đến hiệp thông với Chúa Giêsu Kitô; chỉ một mình Người
mới có thể dẫn người ta đến tình yêu của Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần và đến
chỗ được thông phần vào sự sống của Ba Ngôi Chí Thánh”[32].
427. “Trong việc dạy giáo lý, phải giảng dạy Đức Kitô, là Ngôi Lời
nhập thể và là Con Thiên Chúa, những điều khác phải được quy chiếu về Người; chỉ
một mình Đức Kitô giảng dạy, còn bất cứ ai khác giảng dạy đều phải là phát ngôn
viên của Người, phải để Đức Kitô nói qua miệng lưỡi họ…. Mọi giáo lý viên đều
phải có thể áp dụng cho mình lời nói huyền nhiệm này của Chúa Giêsu: ‘Đạo lý
tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi’” (Ga 7,l6)[33].
428. Ai được kêu gọi rao giảng Tin Mừng Đức Kitô, trước hết phải
tìm “mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô”; người ấy phải “đành mất hết”, “để
được Đức Kitô và được kết hợp với Người”, và để “biết Người quyền năng thế nào
nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng
hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được
sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3,8-11).
429. Từ việc nhận biết Đức Kitô với tâm tình yêu mến, sẽ nảy sinh ước
ao loan báo Người, ước ao “rao giảng Tin Mừng” về Người, và ước ao dẫn đưa người
khác đến chỗ “chấp nhận” đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Nhưng đồng thời, người ta
cũng cảm thấy nhu cầu phải luôn hiểu biết đức tin ấy một cách tốt hơn. Nhằm mục
đích đó, theo thứ tự của Tín biểu, trước hết các tước hiệu chính của Chúa Giêsu
sẽ được trình bày: Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Chúa (Mục 2). Tiếp đó Tín biểu tuyên xưng các mầu nhiệm chính yếu của cuộc
đời Đức Kitô: các mầu nhiệm về việc Nhập Thể của Người (Mục 3), các mầu nhiệm về cuộc Vượt Qua của Người (Mục 4 và 5) và sau cùng các mầu nhiệm về
sự Tôn Vinh Người (Mục 6 và 7).
2763. Tất cả sách Cựu Ước (Lề luật, các Tiên tri và các Thánh vịnh)
đều được ứng nghiệm nơi Đức Kitô[34]. Tin Mừng chính là “Tin vui
mừng” đó. Thánh Matthêu đã tóm lược việc loan báo đầu tiên của Tin vui mừng đó
trong Bài giảng trên núi[35]. Mà lời kinh dâng lên Cha
chúng ta nằm ở trung tâm của lời loan báo này. Chính trong bối cảnh đó mà mỗi lời
cầu xin trong Lời Kinh Chúa dạy được sáng tỏ:
“Lời Kinh
Chúa dạy là lời cầu nguyện tuyệt hảo…. Nhưng trong Lời kinh đó, không những
chúng ta cầu xin những điều chúng ta có thể ước ao cách chính đáng, mà còn theo
một trật tự những điều đáng ước ao nữa: như vậy, lời kinh này không những dạy
chúng ta cầu xin, mà còn huấn luyện toàn thể tâm tình của chúng ta”[36].
Số 519, 662, 1137: Đức Kitô, Trạng sư của chúng ta ở trên trời
519. Mọi sự phong phú của Đức Kitô là dành cho mọi người và là tài
sản của mọi người[37]. Đức Kitô không sống cho bản
thân Người, nhưng cho chúng ta, từ lúc Người nhập thể “vì loài người chúng ta
và để cứu độ chúng ta”[38], cho đến khi Người chịu chết
“vì tội lỗi chúng ta” (1 Cr 15,3) và sống lại “để chúng ta được nên công chính”
(Rm 4,25). Cả bây giờ nữa, Người vẫn là trạng sư của chúng ta “trước mặt Chúa
Cha” (1 Ga 2,1), “vì Người hằng sống để chuyển cầu” cho chúng ta (Dt 7,25). Với
tất cả những gì Người đã sống và đã chịu đựng một lần cho mãi mãi vì chúng ta,
giờ đây Người luôn hiện diện “trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta”
(Dt 9,24) đến muôn đời.
662. “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ
kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32). Việc bị giương cao trên thập giá có ý chỉ
và loan báo việc được đưa lên trời của mầu nhiệm Thăng Thiên. Thập giá là khởi
đầu của Thăng Thiên. Chúa Giêsu Kitô, vị Thượng Tế duy nhất của Giao Ước mới và
vĩnh cửu, “đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra… nhưng Người đã
vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho
chúng ta” (Dt 9,24). Trên trời, Đức Kitô thực thi chức tư tế của Người một cách
thường hằng, “Người hằng sống để chuyển cầu cho họ” “nhờ Người mà tiến lại gần
Thiên Chúa” (Dt 7,25). Với tư cách là “Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới
tương lai” (Dt 9,11), Người là trung tâm và là chủ sự của phụng vụ tôn vinh
Chúa Cha trên trời[39].
1137. Sách Khải Huyền của thánh Gioan, được đọc trong phụng vụ của
Hội Thánh, trước tiên cho chúng ta thấy một cái ngai được đặt trên trời; và Đấng
ngự trên ngai[40]: đó là “Chúa” (Is 6,1)[41]. Rồi đến “Một Con Chiên
trông như thể đã bị giết” (Kh 5,6)[42]:
đó là Đức Kitô bị đóng đinh và đã sống lại, là vị Thượng Tế duy nhất của cung
thánh đích thực[43], chính Người “vừa là người
dâng vừa là lễ vật được dâng lên, vừa là người tặng vừa là quà được hiến tặng”[44]. Cuối cùng là “con sông có
nước trường sinh, … chảy ra từ ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên” (Kh 22,1),
đó là một trong những biểu tượng đẹp nhất về Chúa Thánh Thần[45].
Bài Ðọc I: Cv 3, 13-15. 17-19
“Ðấng ban sự sống thì anh em đã giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người
từ cõi chết sống lại”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Khi ấy, Phêrô nói với dân chúng rằng:
“Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, Thiên Chúa Giacóp, Thiên Chúa các tổ phụ
chúng ta đã làm vinh danh Chúa Giêsu, Con của Ngài, Ðấng mà anh em đã nộp và chối
bỏ trước mặt Philatô, trong khi Philatô xét là phải tha cho Người. Anh em đã chối
bỏ Ðấng Thánh, Ðấng Công Chính, và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn Ðấng
ban sự sống thì anh em lại giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống
lại, điều đó chúng tôi xin làm chứng.
“Hỡi anh em, thế nhưng tôi biết rằng
anh em đã hành động vì không biết, như các thủ lãnh anh em đã làm. Thiên Chúa
đã hoàn tất việc Người dùng miệng các tiên tri mà báo trước. Ðức Kitô của Ngài
phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu tội lỗi anh em được
xoá bỏ”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 4,2. 4. 7. 9
Ðáp: Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con!
Xướng: 1) Khi con cầu, nguyện
Chúa nghe, lạy Chúa công bình của con, Chúa đã giải thoát con trong cơn khốn
khó, nguyện xót thương và nghe tiếng con cầu!
Ðáp: Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con!
2) Nhiều người nói: “Ai chỉ cho
ta thấy điều thiện hảo?” Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình
chúng con!
Ðáp: Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con!
3) Ðược an bình, con vừa nằm xuống,
thoắt ngủ ngon, vì lạy Chúa, duy có Chúa cho con yên hàn.
Ðáp: Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con!
Bài Ðọc II: 1Ga 2, 1-5a
“Chính Người là của lễ đền tội, không những cho chúng ta mà thôi, nhưng
còn cho cả thế gian”.
Trích thư thứ nhất của Thánh
Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, Cha viết những
điều này cho các con, để các con đừng phạm tội. Nhưng nếu có ai đã phạm tội,
thì chúng ta có Ðức Giêsu Kitô, Ðấng công chính, làm trạng sư nơi Ðức Chúa Cha.
Chính Người là của lễ đền tội chúng ta; không nguyên đền tội chúng ta mà thôi,
nhưng còn đền tội cho cả thế gian. Chính nơi điều này mà chúng ta biết rõ được
là chúng ta biết Chúa Giêsu, nếu chúng ta giữ các giới răn Người. Ai nói mình
biết Người, mà không giữ giới răn Người, là kẻ nói dối, và nơi người ấy không
có chân lý. Còn ai giữ lời Người, thì quả thật, tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt
hảo nơi người ấy.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 24,32
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa
Giêsu, xin giải thích cho chúng con những lời Thánh Kinh; xin làm cho tâm hồn
chúng con sốt sắng khi nghe Chúa nói với chúng con. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 24, 35-48
“Họ nhận ra được Người khi họ nhận bánh do Người bẻ trao cho”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các
việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.
Mọi người còn đang bàn chuyện thì
Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: “Bình an cho các con! Thầy đây, đừng sợ”.
Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. Chúa lại phán: “Sao các con bối rối
và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ
mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây”. Nói xong, Người đưa
tay chân cho họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi:
“Ở đây các con có gì ăn không?” Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng
mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. Ðoạn Người
phán: “Ðúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần
phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách
tiên tri và thánh vịnh”. Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.
Người lại nói: “Có lời chép rằng:
Ðấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại.
Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội
cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng
nhân về những điều ấy”.
Ðó là lời Chúa.
[17] Kinh
Tiền Tụng Lễ Các Thánh Tông Đồ I: Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis
Polyglottis Vaticanis 1970) 426.
[44] Liturgia
Byzantina. Anaphora Iohannis Chrysostomi: F.E. Brightman, Liturgies Eastern and Western (Oxford
1896) 378 (PG 63, 913).
[45] X. Ga 4,10-14; Kh 21,6.